CN 3 TN NĂM B
Một ngày trong những tháng gần cuối năm 2013, tôi nhận một tin dữ: Một người trẻ
trong hàng ngũ chúng tôi chết trong tư thế bị treo. Xét nghiệm cho biết: người
anh em chết vì tự tìm đến cái chết. Thông tin đau lòng này làm tôi nhớ lại,
nhiều năm trước, cũng người trẻ, cũng cùng theo đuổi một ơn gọi, cuối cùng, cũng
đã tự mình tìm đến sự rủi ro đáng sợ này.
Những cái chết như thế, với người bình thường, đã gây chấn động. Với những người
có ảnh hưởng cách này, cách khác nơi cộng đồng, trên đời sống chung, càng tạo
nhiều bàn tán trong dư luận, thu hút nhiều sự chú ý, gây nhiều sửng sốt, bàng
hoàng, xót xa…
Ta nhận ra, đây là thất bại trong tương quan của đời sống. Tương quan gồm cả hai
phía. Không thể đơn lẻ một mình mà có thể có tương quan. Tương quan nghiêng ngã,
hậu quả là tổn thương, đau buồn trong nhau. Đổ vỡ tương quan, hậu quả thật bẽ
bàng. Đánh mất tương quan, hậu quả không thể lường hết.
Vì sống là sống trong tương quan. Sống bao giờ cũng phải có tương quan. Do đó,
mất tương quan, người ta không có sự sống, hoặc không có lý tưởng sống đúng
nghĩa. Vì thế, tương quan mà đổ vỡ, nó sẽ kéo về những xót đau, những nỗi niềm
đáng suy nghĩ.
Để củng cố tương quan, nhất thiết phải gọi về sự từ bỏ. Từ bỏ lớn nhất là thu
nhỏ cái tôi của mình. Cái tôi mà đặt đúng chỗ đúng lúc, tương quan trổi vượt.
Cái tôi mà thể hiện hợp lý, tương quan rộng mở. Cái tôi được biểu lộ là sự thanh
thoát, là những nghĩ suy thông thoáng, tương quan đầy đặn, thắm thiết, chân
thành.
Bài Tin Mừng của Chúa nhật thứ III thường niên, năm B, là bài Tin Mừng nêu cao
sự từ bỏ cái tôi. Chúa gọi hai anh em, thánh Phêrô và thánh Anrê. Lập tức hai
con người này đứng lên theo Chúa. Sau đó Chúa gọi tiếp cặp anh em khác là thánh
Gioan và thánh Giacôbê. Cũng vậy, hai anh em này lập tức đứng lên theo Chúa (Mc
1, 16-20).
Theo Chúa bằng thái độ nhanh, dứt khoát, ngay sau khi Chúa gọi, giả thiết các
tông đồ là những người dễ dàng từ bỏ. Nhất là việc các tông đồ rời bỏ người cha
của mình, bỏ lại những người thân khác trong gia đình, để từ đây chuyên tâm đón
nhận sự giáo dục của Chúa, chỉ sống với Chúa và cho Chúa.
Từ bây giờ, các tông đồ chấp nhận lang thang cùng Chúa rày đây mai đó trên mọi
nẻo đường, mọi làng quê, mọi nơi phố thị, dù ở giữa dân ngoại hay giữa cộng đoàn
Dothái giáo…
Các tông đồ gác lại việc đang làm, gác lại sự nghiệp, gác lại nghề nghiệp, gác
lại việc phải kiếm tiền cho cuộc sống gia đình. Các tông đồ còn chấp nhận bỏ lại
sau lưng một ít của cải mà mình có được, là thuyền và lưới.
Các ngài cũng gác lại thói quen sống tự do giữa mênh mông trời biển, gác lại não
trạng của một ngư dân bình thường để chấp nhận đời sống cộng đoàn, gác lại thói
quen vùng vẫy để khép mình vào đời sống lề luật, khép mình vào nếp sống không
phải của riêng mình, để thuận theo nếp sống chung của cả cộng đoàn…
Từ bỏ quá nhiều như thế không dễ chút nào, nếu các tông đồ không ý thức để tự từ
bỏ chính bản thân, từ bỏ ý riêng mình. Chắc chắn, các tông đồ phải thu nhỏ cái
tôi của bản thân để tôn trọng, để sống chung, để hòa hợp cùng mọi anh em.
Có lần Chúa dạy:
“Hãy bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Thầy”
(Mt 16, 24). Người ta có thể hiểu vác thập giá là chấp nhận thử thách, sống đúng
bổn phận, chu toàn trách nhiệm, đề cao tinh thần khắc khổ, vui nhận hy sinh…
Nhưng nếu chấp nhận từ bỏ chính mình để đời sống cộng đoàn trổi vượt, để thượng
tôn các tương quan trong đời sống, thì sự từ bỏ chính là vác thập giá. Sự từ bỏ
ấy cần thiết để theo Chúa. Theo Chúa là hướng nhắm, là đích đến cuối cùng của
việc từ bỏ, của việc vác thập giá.
Cho nên từ bỏ chính bản thân là một hy sinh lớn vô cùng. Nó là cây thập giá mà
những người trong cuộc phải kiên trì vác lấy. Nó không miễn trừ ai. Nó đòi hỏi
cả người lớn, kẻ nhỏ, có quyền hay không có quyền… phải ra sức thực hiện cho
bằng được.
Sự bỏ mình có thể đến từ người đồng phận dành cho nhau; bề trên dành cho bề dưới;
hoặc bề dưới đối lại bề trên. Càng chung sống, chung nhiệm vụ, chung những hoạt
động… càng phải thực hành sự bỏ mình.
Khi sống cùng nhau, nếu từng cá nhân, ai cũng biết bỏ mình, tương quan sẽ ùa về,
sẽ mỗi ngày một thêm lớn, thêm đẹp, thêm keo sơn, thắm thiết, bền chặt. Một cộng
đoàn thấm đẫm tương quan, cộng đoàn đầy tình yêu, niềm hạnh phúc, lòng tương trợ,
nghĩa bao dung… Từng thánh lễ, từng giờ kinh nguyện của cộng đoàn không giả tạo,
không bên ngoài, nhưng sốt sắng, dễ rung động tâm hồn, làm lắng sâu cõi lòng. Cá
nhân của cộng đoàn ấy sẽ an bình, sẽ thấy nơi mình sống đáng để sống, đáng để
hiến thân phụng sự, đáng để đời mình nương ẩn.
Sở dĩ có những cái chết oan uổng, gây kinh ngạc, suy nghĩ, là bởi trước đó,
những ai hiện diện bên nhau đã để xảy ra tình trạng thiếu vắng hy sinh, thiếu
vắng đặt mình vào nhau, thiếu vắng từ bỏ chính mình, hoặc từ bỏ ấy đã không tới
được mức độ cần thiết của nó.
Người ta cô đơn, bản thân sẽ quay quắt. Người ta cô đơn giữa tập thể, bản thân
đau khổ. Người ta cô đơn triền miên giữa tập thể, bản thân rơi vào bế tắc. Cô
đơn đến mức bế tắc, tình trạng sẽ rất xấu…
Tương quan là cần thiết. Chẳng những tương quan giúp giải quyết tình trạng cô
đơn, nhưng còn thăng tiến, phát triển con người; còn giúp con người rút nhiều
bài học sống, nhiều kinh nghiệm sinh động.
Có tương quan tốt, chúng ta không chăm chăm nhìn mình, nhưng sẽ khôn ngoan hướng
cái nhìn vào anh chị em, đặt mình vào họ, vào hoàn cảnh của họ, để có thể hiểu,
cảm thông, đón nhận, yêu thương… nhau hơn.
Hòa bình, tình tương thân tương ái sẽ phát sinh nếu tương quan diễn ra tốt.
Chúng ta sẽ trưởng thành tư duy, lớn lên tình cảm, sâu sắc nội tâm, nhạy bén tầm
nhìn…, nếu tương quan của ta mỗi ngày một được nâng cấp, được mở rộng.
Nếu sống bên Chúa, các tông đồ cần có tương quan tốt, thì tương quan chính là ơn
gọi. Đó là ơn gọi sống cùng và sống cho Chúa; sống cùng và sống cho anh chị em.
Ơn gọi xây dựng tương quan là một trong những ơn gọi căn bản của người tông đồ.
Không thể nói, mình theo Chúa, mà lại thiếu tương quan. Nếu tương quan không
được đề cao, những người theo Chúa dễ bị xem là đội lốt, là phản chứng, là hình
thức.
Có tương quan, ta sống mạnh mẽ cho niềm tin vào Thiên Chúa; giới luật yêu thương
của Người mà ta áp dụng để cùng sống sẽ thành công. Vì thế, ơn gọi sống tương
quan mà được lưu tâm, nó nâng đỡ mọi ơn gọi khác. Bởi một trong những lý do thất
bại về sự sống, thất bại trong chọn lựa bậc sống, thậm chí thất bại cả về lý
tưởng, là vì tương quan không thể xác lập, hoặc tương quan bị đổ vỡ. Vì thế,
sống ơn gọi tương quan là vô cùng cần thiêt, cấp bách.
Tương quan và sự từ bỏ bản thân luôn cần đến nhau, song hành cùng nhau, bổ túc
cho nhau. Phải biết từ bỏ bản thân để có tương quan. Khi tương quan được nâng
cao, càng thực hành từ bỏ bản thân dễ hơn. Người ta khó lòng từ bỏ bản thân vì
kẻ thù của mình. Đã xảy ra tình trạng người này khó ưa, kẻ kia khó thương, nghĩa
là tương quan đã biến mất, hoặc ở mức độ thấp, sự từ bỏ bản thân sẽ khó khăn,
gượng ép, giả hình…
Chúng ta hãy theo chân các tông đồ, sẵn sàng đáp trả lời mời gọi của Chúa, bằng
việc hiến dâng sống ơn gọi đời mình. Nhưng như thế chưa đủ. Chúng ta phải noi
gương các tông đồ tập tành việc từ bỏ chính mình, để ở với Chúa và sống cùng anh
chị em. Khi biết bỏ mình, tương quan nảy sinh. Bỏ mình tốt, tương quan sẽ đi
lên. Bỏ mình đến mức quên mình, tương quan đạt tới đỉnh cao.
Từ bỏ chính mình để gầy dựng tương quan, kinh nghiệm cho biết, sẽ đau đớn như
thể bị sát thương. Nhưng chính lúc bị sát thương vì phải sống tương quan, có thế
nói, đó là chính lúc sống lời Chúa mời gọi
“bỏ mình, vác thập giá”
theo Chúa.
Hãy hướng nhìn các tông đồ, những người đã đi trước chúng ta, sống thành công sự
từ bỏ bản thân; xác lập thành công tương quan với Chúa, với anh em; và đã vác
thập giá đời mình cách trung thành đến cùng.
Nhìn các tông đồ, giúp chúng ta sống như các tông đồ…
Lm JB NGUYỄN MINH HÙNG