Trần Mỹ Duyệt
Ngày 20 tháng Chín 2025 trên trang báo điện tử The Catholic
THING, nhà triết học Công Giáo nổi tiếng, tiến sỹ Robert Lazu Kmita đã viết một
bài liên quan đến tình trạng giới trẻ lìa xa Giáo Hội và sự phá vỡ căn tính
Kitô Giáo (The Exodus of Young Catholics and the Dissolution of
Catholic Identity). Người viết xin dùng nội dung và tổng hợp bài viết để
làm phần tham khảo cho đề tài của mình “Hiện Tượng Giới Trẻ Lìa Bỏ Giáo Hội.”
Nếu có dịp xem những video, những chương trình truyền hình
về các cuộc rước sách linh đình, các buổi diễn nguyện, các thánh lễ được tổ
chức long trọng và rườm rà, các sinh hoạt của giới trẻ Công Giáo, các thánh
đường được tân trang hoặc đập đi xây lại, các con số chủng sinh, tu sỹ nam nữ
và các tân chức trong những dịp khấn dòng, truyền chức tại Việt Nam, nhiều
người sẽ thấy rất hài lòng và cho rằng Giáo Hội Việt Nam đang bước vào thời kỳ
phát triển, hưng thịnh. Nhưng nếu nhìn về tương lai xa hơn chút nữa, chúng ta
nên đặt một câu hỏi: “Sau đây năm, mười năm nữa, Giáo Hội Việt Nam sẽ như thế
nào?
Nếu Giáo Hội Việt Nam không thức tỉnh, nhìn về phía trước
để có những cải thiện và đổi mới hợp với trào lưu tư tưởng cũng như sự phát
triển về khoa học, những tiến bộ của trí khôn nhân tạo, mà chỉ dừng lại hài
lòng về các trung tâm hành hương, những thánh đường nguy nga được tu sửa, xây
dựng, các hội đoàn, đoàn thể, và các cuộc rước sách linh đình, các thánh lễ uy
nghi đầy cảm xúc thì những gì đang xảy ra cho các Giáo Hội Tây Phương hiện nay
cũng có thể sẽ xảy ra cho Giáo Hội và giới trẻ Công Giáo Việt Nam.
Khi nhìn vào những dấu hiệu suy thoái của các Giáo Hội Công
Giáo như Mỹ, Pháp, Tây Ban Nha, Đức… điều mà mọi người có thể thấy là nhiều nhà
thờ, thánh đường, tu viện nay đã biến thành bảo tàng viện, nhà hát, rạp chiếu
bóng, hoặc thư viện. Nhiều giáo xứ trong các giáo phận đã phải đóng cửa hoặc
gom lại vì thiếu giáo dân. Ơn gọi trở nên thiếu hụt. Người lớn tuổi đến nhà thờ
ngày càng thưa thớt, giới trẻ thì rời bỏ Giáo Hội. Chương trình giáo lý tân
tòng của giáo xứ tôi năm nay cũng chỉ có 7 anh chị em theo học, trong đó 2
người đã rửa tội rồi nay học lại để chịu phép Thêm Sức, còn lại người thì theo
vợ học đạo, người thì học đạo để lấy chồng. Ảnh hưởng của “nền văn hóa sự chết”
(Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II) thật sự đang gây tác hại cho Giáo Hội Công
Giáo khắp nơi trên toàn thế giới.
Theo tiến sỹ Robert, cuộc xuất hành (ra đi) khỏi Giáo Hội
của những người lớn tuổi và đặc biệt là các trẻ vị thành niên thuộc giới trẻ là
một dấu hiệu cho thấy những vấn đề liên quan đến tình trạng khủng hoảng sâu
rộng trong đời sống Kitô giáo, không chỉ bên trong Giáo Hội mà còn cả toàn thể
nền văn hóa của chúng ta. Riêng đối với giới trẻ, vẫn theo ông, nguyên nhân về
cuộc xuất hành này - lìa bỏ Giáo Hội của giới trẻ - có thể nói là một cuộc
khủng hoảng xuất phát về căn tính Công Giáo. Để hiểu rõ hơn những lý do, cần
thiết phải có một định nghĩa vắn tắt thế nào là “Căn tính Công
Giáo.”
Một cách tổng quát, căn tính Công Giáo hay còn được gọi là
bản sắc Công Giáo, là một kết hợp chặt chẽ giữa Đức Tin Công Giáo và những thực
hành văn hóa hình thành nên đời sống luân lý và tinh thần người Kitô hữu. Nó
được diễn tả bằng đức tin vào Chúa Giêsu Kitô, tham dự vào các Bí Tích, sống
bác ái đối với tha nhân, thực hành công lý xã hội, và tôn trọng những truyền
thống Công Giáo và những lời giảng dạy. Nó cũng liên quan đến việc đem đức tin
vào đời sống thường ngày để làm nên ý nghĩa và mục đích, xây dựng cộng đoàn, và
sống theo những nhân đức của bác ái, công bình, và phục vụ người khác. Tóm lại,
Căn Tính Công Giáo dựa trên Đức Tin và Sự Tin Tưởng, Đời Sống Bí Tích, Đời Sống
và Tinh Thần Cộng Đoàn, Nhân Đức và Đạo Đức, Công Lý Xã Hội, Cầu Nguyện và Thờ
Phượng, và Thánh Kinh và Truyền Thống.
Đức tin mà những người Kitô phải tuyên xưng là một Thiên
Chúa có ba ngôi, Ngôi Cha, Ngôi Con, và Ngôi Thánh Thần. Ngôi Con Thiên Chúa đã
trở thành con người và đã chết vì tội lỗi nhân loại. Ngài đã phục sinh, lên
trời và Ngài sẽ đến để phán xét kẻ sống và kẻ chết trong ngày tận thế. Ngôi Ba
Thánh Thần là Đấng thánh hóa Giáo Hội. Giáo Hội do Chúa Giêsu thiết lập là Giáo
Hội Công Giáo, Thánh Thiện, và Tông Truyền. Những điều đó và tất cả chân lý
được Giáo Hội Công Giáo thánh thiện đã dạy, bởi vì Thiên Chúa đã mặc khải chúng
là Đấng không thể lừa dối và bị lừa dối.
Tất cả những ai tin những điều đã được mặc khải trên có thể
được coi là Kitô hữu – người Công Giáo. Không có cộng đoàn hay “giáo hội” nào
có thể được cho là như vậy. Hơn thế, cũng không có cộng đoàn hoặc “giáo hội”
nào có thể đem lại cho những kẻ tin theo ơn cứu độ. Những dị giáo và tình trạng
ly giáo khỏi Giáo Hội là rất nguy hiểm. Nó ngăn cản mọi cuộc đối thoại và, một
cách rõ ràng, ơn cứu độ cho các linh hồn.
Dĩ nhiên, điều này không bao gồm sự thật là Thiên Chúa có
thể cứu rỗi các linh hồn ngay cả từ những tôn giáo khác. Tuy vậy, việc này cần
được hiểu rằng họ phải tìm kiếm sự hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo ít nhất là
do “lòng ước ao được rửa tội.”
Nhiều người Công Giáo ngày nay không còn tin – như thánh
Cyprian – rằng ngoài Giáo Hội Công Giáo không có ơn cứu độ (Extra
Ecclesian nulla salus). Đối thoại bên trong và chủ nghĩa đại kết, thực hành
thế giới đại đồng hôm nay và việc thiếu hụt Kitô hữu nhiệt thành phúc âm hóa và
giáo lý đã tổng quát sự thờ ơ và ngay cả sự thù nghịch với những giá trị “vững
cửu” (một đôi khi ngay cả đối với nhận thức của “tín lý”). Con người ngày nay,
cách riêng giới trẻ đang bị thu hút bởi trào lưu sống “luân lý tương đối”
(relativism). Một học thuyết cho rằng chân lý và luân lý tồn tại theo các
nguyên tắc, đường lối suy tư và quan văn hóa, xã hội, hoặc bối cảnh lịch sử, và
không có chân lý tuyệt đối. Chính vì vậy ngừa thai, phá thai, ly dị, đồng tính,
hôn nhân đồng tính hoặc chuyển giới đều có thể được cho là tốt và chấp nhận nếu
phần đông cho là tốt và chấp nhận. Trong lãnh vực tâm linh thì tôn giáo nào
cũng được, miễn là nó mang lại cho con người sự thoải mái, dễ chịu và vui vẻ.
Nếu ơn cứu độ có thể được tìm thấy bất cứ nơi đâu, tại sao
ta cần lưu lại Công Giáo? Giới trẻ Công Giáo ngày nay đã không còn bị thuyết
phục rằng Giáo Hội của mình là một Giáo Hội do Đức Kitô thiết lập, và rằng nếu
không là thành phần của Giáo Hội, họ không có thể tìm thấy ơn cứu độ. Bị lôi
cuốn vào những cuộc tranh luận bất tận về những hình thức Kitô hữu ngoài Giáo
Hội và những vấn đề khác như hiệp nhất, đối thoại, hòa đồng, các nhà thần học
hậu Công Đồng như Karl Rahner, Hans Küng, Jacques Dupuis và những người khác đã
nuôi dưỡng và làm bùng lên cuộc khủng hoảng về căn tính Công Giáo.
Cũng vậy, thái độ mờ nhạt về “đời sau” – Thiên Đàng và Hỏa
Ngục – đã thêm vào sự thờ ơ về giá trị cuộc sống và vĩnh cửu.
Điều tồi tệ nhất và kết quả ngay lập tức của cuộc khủng
hoảng này là sự biến mất của tinh thần truyền giáo. Tại những quốc gia tân tiến
Âu Mỹ tinh thần truyền giáo ngày nay đã sa sút làm ta nhớ lại lời của Chúa
Giêsu: “Ta còn nhiều chiên chưa thuộc về dàn này. Ta phải mang chúng về, và
chúng sẽ nghe tiếng Ta. Để có một đàn chiên và một chủ chiên.” (Gioan
10:16)
Trong một bối cảnh mà căn tính Công Giáo bị phá vỡ, phần
đông Kitô hữu, cách riêng giới trẻ ngày nay đang gặp phải thử thách, và có nguy
cơ đánh sự mất ơn cứu độ bằng cách đi theo những giáo hội và những cộng đoàn
lạc giáo và ngoại giáo. Giữa sự khủng hoảng này, người ta có thể kỳ vọng mọi
người – giám mục, linh mục, giáo dân – hoạt động không ngừng để hoán cải những
linh hồn lạc mất này. Hoặc ít ra luôn sẵn lòng giúp những người này tìm về đức
tin Kitô Giáo. Thật không may, điều này đã không hoàn toàn xảy ra như vậy. Hậu
quả là nhiều người trong đó có giới trẻ đang từ bỏ Giáo Hội, rời xa thứ tôn giáo
mà họ cho là của cha ông, đơn giản không chỉ là không biết, mà có lẽ chưa bao
giờ hiểu tại sao mình theo Công Giáo.