Trần Mỹ Duyệt
Ngoài những nét
đẹp, duyên dáng, nhẹ nhàng, đáng yêu của người phụ nữ, một nhận xét hơi có phần
tiêu cực về phái đẹp, là thói “càm ràm”. Càm ràm từ sáng đến trưa, từ trưa đến
chiều và từ chiều đến tối. Đêm về nhiều khi trên giường ngủ nhớ tới một vấn đề gì
mà ban ngày chưa càm ràm thì đem ra càm ràm tiếp. Điều này khiến cho đàn ông,
con trai nhiều khi phải nhức điên cái đầu và tự hỏi: “Không biết càm ràm cái gì
mà nhiều đến thế? Cái gì cũng càm ràm. Xem như không càm ràm là ăn không ngon
và ngủ không yên!”
Trong những
buổi hội thảo, thuyết trình về đời sống hôn nhân gia đình, những câu hỏi được
nêu lên nhiều nhất và thường được đặt ra từ các thính giả nữ, đại khái: “Chồng
của em là người ở dơ, lười lĩnh, và rất bê bối. Em nói, em nhắc nhở thì bảo em
càm ràm. Vậy em phải làm gì?” Ngược lại, các thính giả nam thì lại cho rằng:
“Vợ em hay càm ràm, chê trách, và khó chịu với em quá! Hơi tý là la lối, càm
ràm. Em phải có thái độ như thế nào?”
Thực tế thỉnh
thoảng cũng có ông cho rằng mình thích được nghe vợ càm ràm. Đối với họ, càm
ràm như những nốt nhạc tình mà thiếu nó căn nhà trở nên trống vắng và thấy nhớ.
Không lẽ đối với những đàn ông này các nốt nhạc ấy được xướng lên có liên quan
đến lối sống ở dơ, lười, và bê bối của họ? Trong bài viết này, chúng ta hãy tìm
hiểu xem cái thói càm ràm của người vợ có dính dấp gì đến những tính xấu này
của chồng họ hay không?
ĐỊNH NGHĨA CỦA
CÀM RÀM:
Càm ràm là động
từ “nag” trong tiếng Anh, và tĩnh từ của nó là “nagging”. Theo tự điển American
English “nag” hay “nagging” có nghĩa là:
1.Tiếp tục đòi
hỏi một người làm một việc trong tư thế bực bội. Thí dụ, Shawna tiếp
tục càm ràm tôi để chữa cái bồn rửa chén.
2.Luôn luôn
khiến cho một người cảm thấy lo lắng hoặc không thoải mái. Thí dụ: Một
chuyện thôi mà tôi bị vợ càm ràm ngày này qua ngày khác. [1]
Trong tự điển
Việt Nam không tìm thấy hai chữ “càm ràm”, tuy nhiên, thông thường ai cũng hiểu
rằng càm ràm là nói đi nói lại một điều gì với thái độ không hài lòng và khó
chịu, bực tức. Càm ràm đến nỗi chì chiết thì gọi là đay nghiến. Tự điển Việt
Nam định nghĩa “đay nghiến là mắng đi mắng lại. Mắng nhiếc dai dẳng (lúc nói
nghiến hai hàm răng lại vì giận ghét).” [2] Ngoài ra, đồng nghĩa với càm ràm là
quạu cọ, bực dọc, khó chịu, phàn nàn, hoặc kêu ca, chì chiết. Thí dụ: Người vợ
tỏ ra bực bội với người chồng, không hài lòng với công việc, cách làm việc,
hoặc đường lối giải quyết vấn đề của chồng.
ĐÀN ÔNG HAY ĐÀN
BÀ CÀM RÀM?
Càm ràm không
phải là bản chất riêng biệt của phái nào, nam hoặc nữ. Đàn ông hay đàn bà đều
có thể dính vào thói xấu này.
Là một lối diễn
tả thông thường do những nhu cầu không đạt được, hoặc những bất quân bình trong
tương quan với nhau, càm ràm không phải là một đặc tính cá biệt của giới tính
nào. Sự liên quan đến phụ nữ chẳng qua chỉ là do định kiến xã hội nhằm làm giảm
giá trị nhận thức về nữ giới.
Thành kiến về
người vợ càm ràm là một ngụ ý bắt nguồn theo truyền thống về vai trò nữ giới.
Thí dụ, người phụ nữ phải lo toan, điều hành, quán xuyến mọi việc trong nhà:
“Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm.” Với nhiều thách thức và đòi hỏi nên để
hoàn thành tốt công việc, người vợ cảm thấy phải có trách nhiệm nhắc nhở mọi
người trong gia đình về những gì cần làm và phải làm.
Nhưng nếu nhắc
một lần không được thì phải làm gì? Không lẽ để cho nhà cửa bề bộn, mọi việc
trong nhà thiếu ngăn nắp. Hoặc nhắm mắt làm ngơ, bỏ mặc mọi chuyện? Là người
vợ, người mẹ trong trường hợp này không thể ngồi yên để mặc mọi chuyện, nên bắt
buộc phải nhắc nhở mọi người. Nhắc nhiều lần thì bực tức, khó chịu, còn người
được nhắc lại tự ái bỏ ngoài tai. Và thế là người phụ nữ tự nhiên được mặc cho
chiếc áo “càm ràm” mặc dù ở một khía cạnh tích cực, càm ràm vẫn luôn cần thiết.
Tuy vậy, nam cũng như nữ đều là nạn nhân và cũng là người chủ động càm ràm:
Phụ nữ càm ràm
chủ yếu là cảm thấy mình không được lắng nghe, hoặc bị coi thường trong những
đóng góp với gia đình và công việc. Đó là những lời nhắc nhở thường đi đôi với
sự khó chịu, bực tức vì những chuyện xảy ra ngoài ý muốn.
Đàn ông càm ràm
có thể mang hình thức khác, thí dụ như khi bị phê bình, trong lúc thiếu kiên
nhẫn, hoặc đòi hỏi một điều gì. Trong trường hợp này, họ càm ràm vì cảm thấy
nhu cầu hoặc những kỳ vọng không hợp với vợ con hoặc người khác.
Tóm lại thì:
-Một bên đòi
hỏi, một bên không đáp ứng.
-Một bên nhắc
lại những đòi hỏi, một bên phớt lờ không nghe.
-Người nhắc nhở
trở nên khó chịu, và người được nhắc nhở phản ứng lại bằng thái độ coi thường
hoặc chống đối.
-Cái vòng luẩn
quẩn giữa người nhắc nhở và người nghe cả hai đều thấy bực bội và không hiểu
nhau.
CÁI NHÌN TÂM LÝ
Càm ràm là một
thái độ hoặc cách phản ảnh con người của một người, nó không phải là một tâm
bệnh theo Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders (DSM). Tuy
nhiên, càm ràm cũng có thể được coi là một tình trạng vượt trên cảm xúc, và là
một hành động tiêu cực. Có thể người càm ràm cũng bị dồn nén và thôi thúc, ám
ảnh từ bên trong (obsessional). Họ làm vậy vì họ không thể tự kìm hãm và điều
khiển được cảm xúc hoặc môi trường bên ngoài, chứ không phải nguyên vì họ thích
hành động càm ràm.
HẬU QỦA CỦA CÀM
RÀM
Vậy câu hỏi
được đặt ra là “Tại sao phụ nữ lại hay càm ràm?” Theo những định nghĩa và quan
điểm chung vừa nêu trên, người vợ càm ràm chồng không chỉ vì người này ở dơ,
lười, và bê bối. Nhưng nó là dịp để nói lên một điều gì đó mà khiến người càm
ràm cảm thấy khó chịu hoặc không vừa ý. Trong đời sống hôn nhân, hành động này
nói lên rằng hai vợ chồng không có sự đồng cảm, không biết cách chia sẻ, thông
cảm, và nhất là không biết chấp nhận những cách thức thể hiện lối sống khác
nhau.
Người càm ràm
cần hiểu được lý do với các vấn đề tiềm ẩn, hoặc cần phải biết tự chủ để có thể
làm chủ được thái độ của mình. Càm ràm dẫn đến đay nghiến nhau tự nó không phải
là nguyên nhân lớn dẫn đến ly dị, nhưng nó cũng là một yếu tố khiến cho hạnh
phúc hôn nhân bị sứt mẻ, gây khó chịu, và bất hòa ảnh hưởng đến đời sống vợ
chồng. Nó làm cho người bị càm ràm dần dần mất đi cảm giác được yêu thương, tôn
trọng, chia sẻ và lắng nghe. Những ảnh hưởng tiêu cực này không chỉ làm cho
tình nghĩa vợ chồng bị tổn thương, bị sói mòn mà còn trở thành những yếu tố
tiềm ẩn dẫn đến việc đổ vỡ của hôn nhân. Sau đây là những hậu quả:
-Là chất độc
trong cảm thông: Không chỉ là một hình thức phá vỡ việc cảm thông, chia sẻ
giữa vợ chồng. Càm ràm còn phá hỏng nền tảng của sự thân thiết trong đời sống
chung.
-Phá vỡ môi
trường đối thoại: Càm ràm sẽ tạo ra một môi trường mà ở đó một người liên
tục nêu lên những đòi hỏi, làm cho người kia phải phớt lờ hoặc tỏ ra không biết
đáp ứng như thế nào, từ đó dẫn đến một vòng tròn giữa đòi hỏi và lẩn tránh,
không còn là nói và lắng nghe nhau.
-Làm gián
đoạn tình cảm: Luôn bị nghe phê bình, chỉ trích sẽ có thể dẫn đến cảm
giác căng thẳng, mặc cảm vô giá trị, hoặc làm gián đoạn tình cảm giữa vợ
chồng.
-Gây oán hận
và mất hạnh phúc: Trải qua thời gian, sự tiếp tục càm ràm nhất là chì chiết sẽ
thúc đẩy một nỗi oán hận sâu xa, gây cho người bị càm ràm mất đi tình yêu, trở
nên bất hạnh trong tương quan vợ chồng.
-Ảnh hưởng
đến đời sống vợ chồng: Càm ràm hay thói đay nghiến là một triệu chứng tâm lý bất ổn.
Nếu không giải quyết trong tương lai nó sẽ gây ra bất thường trong việc tìm
kiếm những nhu cầu của tình cảm, kể cả quyền lợi thực tế có thể đem đến đổ vỡ
và ly dị.
GIẢI QUYẾT VẤN
ĐỀ?
Người càm ràm
thường xuyên cho thấy tâm trạng thiếu tự tin. Nhiều lúc như tìm cách hạ thấp
người khác để tìm cho mình một cảm nghĩ tốt hơn. Vô tình hành động này dẫn đến
việc hạ giá chính mình, biến mình thành một người có vấn đề về nhân cách trước
mắt người khác. Sau đây là một vài đề nghị nhằm giải quyết vấn
đề:
-Giao tiếp
chủ động:
Dự đoán những
công việc, những nhu cầu và chủ động hành động trước khi đòi hỏi, hoặc cần sự
nâng đỡ. “Đã làm thì không nói, mà đã nói thì không làm.” Vợ hoặc chồng không
phải là người ở hoặc bảo mẫu của nhau để cứ phải chạy theo căn me, nhắc đi,
nhắc lại một việc. Thay vào đó cần biết khơi dậy tinh thần trách nhiệm và lòng
tự trọng của nhau.
-Trình bày
căn gốc những lý do:
Thay vì càm
ràm, hãy trình bày một cách bình tĩnh và thuyết phục những lý do mà vợ hoặc
chồng nên làm và phải làm một việc gì đó. Nếu cần thì cả hai cùng làm chung
thay vì càm ràm và ngồi đó chờ kết quả rồi bực tức, khó chịu.
-Chuyển hoán
quan điểm:
Cố gắng tạo ra
những tầm nhìn tích cực về những gì mà mình cho là đáng thương hoặc đáng ghét
theo quan điểm của chồng hoặc vợ. Nhờ đó, người trong cuộc có cơ hội nói lên
quan điểm của mình thay vì bỏ qua hoặc cố chấp không làm.
-Ưu tiên
trong mối quan hệ:
Cả vợ lẫn chồng
cần phải chú tâm vào việc nuôi dưỡng mối quan hệ và gia tăng đối thoại với nhau
thay vì tạo ra một thói quen tiêu cực. Đối thoại thay vì chỉ trích. Hiểu nhau
thay vì bắt người khác phải hiểu mình. Đặt mình vào vai trò của nhau để cảm
thông thay vì đay nghiến, chì chiết hoặc càm ràm.
KẾT LUẬN
Càm ràm không
thuộc về một phái tính nào riêng rẻ. Đàn ông và đàn bà đều có thể là người càm
ràm và là nạn nhân của thói xấu này. Mặc dù không phải là tâm bệnh nhưng càm
ràm là một thói quen xấu. Tuy thường xuyên xảy ra nhưng nếu không cẩn thận nó
có thể đem đến những đổ vỡ trong hôn nhân, ảnh hưởng đến hạnh phúc của nhau.
Điều nên làm đối với đàn ông, con trai là bỏ đi thành kiến càm ràm về người phụ
nữ. Ngược lại, cần xét xem tại sao vợ của ta cứ phải nhắc đi, nhắc lại những
việc mà tự mình có thể làm được nếu ý thức và hành động một cách trưởng thành.
Người xưa đã chẳng nói: “Không có lửa thì làm sao có khói?”
__________
Tài liệu tham
khảo:
1.Longman
Dictionary of American English Now With Thesaurus. New Edition.
2.Tự
Điển Tiếng Việt. Nhà xuất bản Hồng Đức.