Hỏi : xin cha giải thích sự khác biệt giữa bí tích và á bí tích
Trả lời :
Trước khi nói đến sự khác biệt giữa Bi tích và Á bí tích , ta cần biết rõ bí
tích là gì, công dụng ra sao, và khác với Á bí tích như thế nào ?.
-
Bí Tích ( Sacrament)
: có thể định nghĩa cách vắn gọn như sau :
Bí tích là dấu chỉ hữu hình, hay hữu thanh mà qua dấu chỉ này Chúa Giêsu ban ơn
thánh của Người cho chúng ta qua tay các thừa tác viên con người như Giám mục,
linh mục (và Phó tế khi rửa tội cho trẻ em)
Thí dụ ; khi cử hành bí tích Thánh tẩy ( rửa tội) thì nước ,
nến sáng, áo trắng và lời đọc ta rửa con nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa
Thánh Thần
là những dấu chỉ hữu hình ( visible signs) và hữu thanh ( audible) mà qua đó,
người lãnh nhận được tái sinh trong sự sống mới và được tha hết một lần mọi tội
nguyên tổ và cá nhân ( người lớn)
Cũng vậy,
bánh và rượu nho cùng lời truyền phép
:
các con hãy nhận
lấy mà ăn vì đây là Mình Thầy
….là những dấu chỉ hữu hình và hữu thanh khi cử hành bí tích Thánh Thể (
Eucharist). Nghĩa là bắt buộc phải có những dấu chỉ trên thì bí tích mới thành
sự ( valid) được. Dĩ nhiên môt yếu tố rất quan trọng khác phải có là người cử
hành bí tích này phải là một tư tế có chức linh mục thực thụ thì lời truyền
phép mới có hiệu lực thành bí tích, tức là có Chúa Kitô thực sự hiện diện trong
hình bánh và rượu nho.
Trong Giáo Hội Công Giáo và Chính Thống Giáo Đông Phương ( Eastern Orthodox
Churches) có tất cả bảy Bí Tích như sau:
1- Rửa tội
2- Thêm sức ( confirmation)
3- Thánh Thể ( Eucharist)
4- Hòa giải ( reconciliation, penance)
5- Sức dầu bệnh nhân ( anointing of the sick)
6- Truyền chức thánh ( Holy Orders)
7- Hôn phối ( Matrimony)
Trong bảy Bí tích nói trên, Rửa tội là bí tích hàng đầu, là cửa ngõ đi vào các
bí tích khác, và là bí tích cứu độ, căn cứ vào chính lời Chúa Giêsu đã nói với
các Tông Đồ trước khi Người về trời như sau:
“ Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu rỗi.Còn ai không tin sẽ bị luận phạt.”
( Mc 16: 16)
Là cửa ngõ đi vào các bí tích khác có nghĩa là nếu không được rửa tội thành sự,
thì không thể lãnh nhận bất cứ bí tích nào khác thành sự được.
Nói rõ hơn, nếu chưa được rửa tội, thì không thể đi xưng tội hay rước Mình Thánh
Chúa được. Phải nói rõ điều này vì ở nơi kia, có linh mục đã dạy người dự tòng
(catechumen) phải đi xưng tội trước khi được rửa tội, thêm sức và rước Mình
Thánh Chúa. Điều này không đúng, vì khi người dự tòng được rửa tội thì mọi tội
cá nhân và tội nguyên tổ đều được tha hết một lần, nên không phải xưng tội trước
đó.( X SGLGHCG số 1226) Như thế, ai phụ trách giảng dạy giáo lý cho người dự
tòng, thi phải giải thích rõ cho họ hiểu là tội nguyên tổ ( original sin) và
mọi tội cá nhân đã mắc phạm cho đến khi được rửa tôi thì đều được tha hết một
lần qua bí tích Rửa tội. Có xưng tội là xưng sau này, sau khi được rửa tội, rồi
lại phạm tội cá nhân ít nhiều lần nữa..
Thừa tác viên chính của bí tích Rửa tội là linh mục và Giám mục. Phó tế chỉ được
phép rửa tội cho trẻ em, không cho người lớn ( adult), vì người lớn , khi được
rửa tội thì cũng được thêm sức luôn. Nên chỉ có linh muc và giám mục được rửa
tội và thêm sức cho người lớn mà thôi.
Tuy nhiên, trong trường hợp nguy tử, thì bất cứ người giáo dân nào đã được rửa
tội- và ngay cả người chưa lãnh nhận bí tích này, cũng được phép rửa tội nếu
dùng nước và đọc đúng công thức qui định. (x SGLGHCG số 1256)
Với bí tích Thánh Thể, bí tích này được cử hành trong khuôn khổ Thánh Lễ Tạ Ơn (
Eucharist) qua đó Chúa Kitô dâng lại hy tế thập giá mà Người đã một lần dâng
lên Chúa Cha trên thập giá năm xưa để xin ơn tha thứ cho toàn thể nhân loại.
Ngày nay trên bàn thờ, Chúa tiếp tục dâng hy tế đền tội đó cách bí nhiệm (
sacramentally) qua tay các thừa tác viên con người là các linh muc và giám mục
đang hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội.Lại nữa qua Thánh Lễ Tạ Ơn, Chúa Kitô
cũng diễn lại Bữa ăn sau hết của Người với các Tông Đồ, qua đó Chúa tiếp tục biến
bánh và rượu thành mình máu Người cho chúng ta ăn và uống, như các Tông Đồ xưa
trong bữa ăn sau hết với Chúa.Vì thế , mỗi khi tham dự Thánh ễ Tạ Ơn, các tín
hữu được mời gọi hiệp lễ hay rước Mình Máu Thánh Chúa hiện diện thực sự trong
bánh và rượu nho.Nhưng cho được rước Mình Máu Chúa cách xứng đáng, thì phải
sạch tội trọng.
Do đó, ai biết mình đang có tội trọng chưa được tha qua bí tích hòa giải, thì
không được làm lễ ( linh mục) và rước Lễ ( giáo dân) ( x giáo luật số 960,
SGLGHCG số 1415).Lại nữa, ai không có chức linh mục mà dám cử hành Thánh Lễ hay
giải tội cho người khác, thì sẽ mắc vạ tuyệt thông tiền kết.( x Giáo luật số
1378, triệt 1-2)
Với bí tích hòa giải, Chúa tha mọi tội lỗi con người có thể mắc phạm trừ tội
phạm đến Chúa Thánh Thần, là tội hoàn toàn chối bỏ Thiên Chúa và tình thương
của Người.Nếu còn tin tưởng và chạy đến với Chúa, thì Chúa còn có thể tha thứ
được. Nhưng nếu đã hoàn toàn từ khước không chạy đến xin Chúa tha thứ, thì làm
sao thứ tha được nữa ?
Cũng liên quan đến bí tích này, muốn cho được hưởng nhờ những ơn ích của bí tích,
thì hối nhân phải thực lòng sám hối và thành thật xưng các tội mình đã phạm với
linh mục. Thành thật có nghĩa không được dấu tội nào , đặc biệt các tội phạm đến
giới răn thứ sáu và thứ chin. Nếu dấu tội thì bí tích sẽ không có hiệu quả , bởi
vì “
nếu bệnh nhân mắc cở không mở cho thầy thuốc xem vết thương của mình thì y khoa
không thể chữa lành những gì nó không biết”
theo lời dạy của Thánh Giêrônimo( x SGLGHCG số 1505).
Sau hết, không thể nói như anh em Tin Lành là không cần xưng tội với ai, mà
chỉ cần xưng trực tiếp với Chúa thôi. Nói như vậy là không đọc lời Chúa Giêsu
đã với các Tông Đồ khi Người trao quyền tha tội cho các ông như sau :
“Anh
em tha tội cho ai, thì người ấy được tha
Anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.”
( Ga 20: 23)
Căn cứ vào lời Chúa truyền dạy trên đây mà Giáo Hội dạy phải xưng tội với các
thừa tác viên có chức thánh là linh mục và giám mục . Các ngài tha tội cho hối
nhân, nhân danh Chúa Kitô ( in persona Christi).Như thế, khi xưng tội với bất cứ
linh mục nào, thì hối nhân cũng xưng tội với Chúa nhưng qua trung gian của linh
mục và nhận lãnh ơn tha thứ của Chúa qua tay linh mục hay giám mục. Phải có lòng
tin như vậy để không e ngại khi xưng tội với linh mục nào.Cũng cần nói thêm là
linh mục buộc phải giữ kín những điều hối nhân kể ra trong tòa giải tội. Đó là
ấn tòa giải tội ( seal of confessions) mà mọi linh mục buộc phải tôn trọng . Ai
vi phạm. sẽ bị vạ tuyệt thông tiền kết ( x giáo luật số 1388,triệt 1)
Sau hết, với bí tích hôn phối thì thừa tác viên chính của bí tích là hai người
phối ngẫu hoàn toàn tự do muốn kết hôn với nhau trong Giáo Hội. Nhưng lời hứa
kết hôn này của hai người phải nói lên trước mặt đại hiện của Giáo Hội ( linh
mục, phó tế) cùng với hai người làm chứng,( witness). Thiếu một trong những yếu
tố này thì bí tích không thành sự được .
-
Á Bí Tích (sacramentals):
Á bí tích là những vật dụng, hình ảnh hay lời nói
Có liên hệ đến việc lãnh nhận ơn thánh của Chúa trong Giáo Hội.
Thí dụ: lời ban phép lành của linh mục, giám mục hay của Đức Thánh Cha.
Nước thánh ( holy water) là phương tiện thanh tẩy các tội nhẹ . Chén thánh (
Chalice) là vật dụng linh mục dùng để dâng Thánh lễ, Bình đựng Mình Thánh Chúa (
Ciborium) để lưu trữ Thánh Thể trong Nhà Tạm ( Tabernacle)…Áo lễ ( chasuble) là
Á bí tích linh mục, giám mục mặc khi dâng Thánh Lễ.
Tràng hạt ( chuỗi mân côi) các ảnh tượng Chúa Giêsu , Đức Mẹ, Thánh Cả Giuse và
các Thánh nam nữ, hài cốt các thánh ( Relics)….v.v đều là các Á Bí Tích được tôn
kính trong Giáo Hội. Á Bí tích khác Bí tích ở điểm căn bản là bất cứ bí tích nào
cũng là phương tiện thông ban ơn Chúa cho người lãnh nhận, trong khi Á bí tích –tự
nó- không có mục đích thông ban ơn thánh của Chúa mà chỉ là các dụng cụ hay
hình ảnh có liên quan đến việc lãnh nhận ơn Chúa mà thôi.
Thí dụ tràng hạt ( chuỗi Mân Côi) là phương tiện sùng kính Đức Mẹ và để lãnh
nhận ơn Chúa ban qua lời cầu bầu của Đức Mẹ . Cũng vậy, sách kinh hay sách Lễ (
Sacramentum) là phương tiện để cầu nguyện và dâng Thánh Lễ để lãnh nhận ơn
thánh Chúa ban qua lời kinh nguyện và tham dự Thánh Lễ để lãnh nhận ơn thánh
Chúa ban qua Thánh Lễ.
Các ảnh tượng Chúa Kitô. Đức Mẹ và các Thánh nam nữ đều là các Á Bí Tích giúp
ta nâng lòng lên với Chúa, Đức Mẹ và các Thánh đang ở trên trời mà các ảnh
tượng kia là dấu chỉ hữu hình trong trần thế.. Vì chỉ là Á bí tích, nên ta chỉ
phải cúi đầu tôn kinh trước ảnh tượng của Chúa, Đức Mẹ và các Thánh, trong khi
phải thờ lậy Chúa Kitô hiện diện thưc sự trong bí tích Thánh Thể. Do đó, khi vào
nhà thờ, chúng ta phải bái quì trước nhà Tạm nơi có đặt, Mình Thánh Chúa Kitô để
tỏ lòng thờ lậy ( adoration) trong khi chỉ cần cúi đầu trước ảnh tượng của
Chúa , Đức Mẹ và các Thánh để tỏ lòng tôn kính (veneration, honoring) mà thôi.
Sau hết, một điều phải rõ là các Á Bí Tích, tuy không phải là Bí Tích , nhưng
vẫn đòi hỏi chúng ta phải kính trọng đúng mức. Do đó, không thể có những hành vi
bất kính như liệng bỏ hình ảnh Chúa . Đức Mẹ, các Thánh vào thùng rác , đổ nước
phép xuống cống rãnh, phóng uế hay phạm tội trong nhà thờ , nhà nguyện. Các nơi
thánh này là các Á bí tích được dùng dể cử hành các bí tích và là nơi cầu nguyện
đã được thánh hiến ( consecrated), do đó phải tôn kính các Á bí tích này cách
đặc biệt. Ai phạm tội trong nhà thờ , nhà nguyện ( tội dâm ô) thì ngoài tôi
chính đã phạm còn thêm tội phạm thánh ( sacrilege) nữa,vì đã không tôn kính nơi
đã được thánh hiến để cử hành các nghi thức phụng vụ thánh của Giáo Hội.
Ước mong các giải đáp trên thỏa mãn câu hỏi đặt ra
Lm Phnxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn