Cv 1:1-14; Ep 1:17-23; Mt 28:16-20
Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh,
MD
Mathieu tả cảnh Chúa Giesu
về trời ở Galile rất huy hoàng và hoàn hảo (Mt 28:16-20). Ông diễn tả uy quyền
mới của Chúa ở trên trời không phải bằng viễn kiến hay hình ảnh, cũng không
phải tượng hình như cách bẻ bánh hoặc đụng vào thân xác Chúa, nhưng một cách rõ
ràng, đơn giản mà thâm trầm biểu hiện cho Lời Chúa, Thầy Chí Thánh và là
Đại sư phụ duy nhất của chúng ta (Mt 23:8-10). Mathieu đã dùng đoạn Tin Mừng
này để kết thúc bản Phúc Âm của ngài. Đây là bản tổng hợp các sứ điệp căn
bản mà Chúa muốn nhắc lại cho các tông đồ. Nó cũng là tiến trình truyền giáo
rất căm go mà Chúa đã gửi gấm cho các ông trước khi về trời.
Đoạn Tin Mừng này chia làm 2
phần: *Sự xuất hiện ở Galilee của chúa Kito phục sinh với các tông đồ (Mt
28:16-18a) như đã hứa (28:7). *Lời khuyên của chúa Giesu kết thúc Tin Mừng
Mathieu (28:18b-20). Các tông đồ đã đi lên núi như Chúa dặn. Các ông đã nghĩ
tới ba ngọn núi: Một ngọn (Mt 5:1-2) trên đó chúa đã cho bài giảng Tám Mối
Phúc (c.5-7); một ngọn cao (17:1), ở đó Chúa đã biến hình
(17:2) và báo trước cuộc khổ nạn của Người (Mt 16:21); sau cùng là núi Cây
Dầu (Mt 24:3), địa điểm Chúa nói về ngày cánh chung (chương 24-25).
CON SỐ MƯỜI MỘT MÔN ĐỆ
Hãy để ý đến nhóm 11 tông đồ
và môn đệ mà Chúa hẹn gặp tại một ngọn núi ở Galilee. Đây là một nhóm người rất
bình thường, có thể nói không ai bình thường, vô dụng, chẳng có thể cậy nhờ và
hy vọng gì hơn? Họ đã tỏ ra bạc nhược đến độ nguy hiểm…qua những phản bội, hèn
nhát, không dám nhận mình, nhưng lại có chút ít ưu điểm trở thành những “cột
trụ” của Giáo Hội! Chỉ có kẻ gọi là “Đá” khi nhận ra được đầy đủ hành động chối
Chúa của mình mới có thể gánh vác nổi công tác mục vụ đứng đầu và hiệp nhất
Giáo Hội. Hai ông Gioan và Giacobe thì tỏ ra đầy tham vọng một cách trắng trợn
cùng với bà mẹ muốn cho con mình có một vinh quang thế tục (Mt20:20-21). Những
vị khác thì đưa ra những câu hỏi chứng tỏ chẳng hiểu gì về sứ điệp và lẽ sống
của Thầy mình. Tuy nhiên Mathieu bỏ qua tất cả những cái đó và nói cho chúng ta
là “mười một môn đệ” đã lên đường đi tới ngọn núi mà Chúa đã chỉ (28:16). Không
còn số 12 nữa (mười hai), chỉ còn 11. Con số này sẽ tiếp tục con đường dài của
lịch sử Do Thái Giáo. Con số 11 cho thấy có một kẻ phản bội và đào ngũ là Juda
Iscariot. Tuy nhiên dù bản tính yếu đuối và ươn hèn ghê gớm như vậy, mười một
vị vẫn được Chúa Phục Sinh ủy nhiệm một sứ mệnh rất to lớn là sứ mệnh toàn
cầu.
SỨ MỆNH TOÀN CẦU
Ở câu 18, Chúa Giesu tuyên
bố sức mạnh toàn cầu gồm trên trời dưới đất thuộc về Thiên Chúa Phục
Sinh. Sức mạnh này được Người ban cho 11 vị tông đồ này. Họ phải làm cho muôn
dân ở mọi quốc gia trên khắp thế giới trở thành môn đệ. Tiếng “mọi quốc gia”
được các học giả kinh viện hiểu là dân ngoại, nhưng nó cũng bao gồm cả dân Do
Thái. Ý nghĩa của bí tich Thanh Tẩy là gia nhập cộng đồng Giáo Hội Chúa Sống
Lại. Phần kết của Tin Mừng Mathieu cũng biểu lộ rất rõ ràng niềm tin vào Chúa
Ba Ngôi của Tân Ước. Có thể có một hình thức Thanh Tẩy của giáo hội Mathieu,
nhưng tiên khởi nó cũng nói lên hiệu quả của bí tich Thanh Tẩy là liên kết
những người chịu phép rửa nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh
Thần.
Ở câu 20, Chúa Giesu nói: “hãy
tuân giữ tất cả những điều mà thầy đã truyền dạy cho các con” chắc chắn
người ám chỉ bài giảng trên núi mà chúng ta thấy trong Mathieu (Mt chương 5-7).
Những giới răn của chúa Giesu là những nhân đức căn bản của Kito giáo, không
phải là luật Maisen, dù có một vài giới luật của Maisen lẫn trong đó.
Những chữ “Và đây, thầy ở
lại với các con cho đến tận thế” (c.20) có một ý nghĩa liên kết đặc biệt
với ý trên. Nó đưa chúng ta trở lại lúc khởi đầu của câu chuyện Mathieu khi đức
Giesu được đặt tên là “Emmanuel”. Với cái tên này, chúng ta đã thấy câu trả lời
là qua mọi thời đại, nhân loại luôn luôn hằng mong ước Thiên Chúa. Emmanuel có
nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng tôi, vừa là lời kinh vừa là lời chúng
ta tụng hô, vừa là lời hứa vừa là lời Thiên Chúa tuyên bố. Khi chúng ta tuyên
xung một lời, chúng ta thực sự khấn vái và cầu xin: “ Lạy Chúa, xin hãy ở
lại với chúng con”. Khi Thiên Chúa nói thì với tư cách là đấng tạo hóa, đầy
quyền năng và vĩnh cửu thì Chúa nói: “Ta ở với các con”. Kết thúc Tin
Mừng, tên Emmanuel ám chỉ Chúa Phục Sinh quả quyết với các môn đệ là Người
vẫn tiếp tục hiện diện: “Thầy sẽ luôn luôn ở với anh em cho đến tận
thế” (c.20). Thiên Chúa đã giữ lời hứa đó nơi chúa Giesu.
Bí tích Thánh Thể chính là
quả quyết và bảo đảm cho lời hứa đó. Đức Kito nói với các môn đệ: “Hãy đi và
giảng dạy cho muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và
Chúa Thánh Thần.” Từ chúa Kito, con đường mở đầu Kito giáo đã trực
tiếp dẫn đến bí tích Thánh Thể: “Thầy ở với các con”, “Thầy ở với mỗi một
các con”. “Thầy trở thành một phần của Máu Thịt các con.” “Thầy chia sẻ với chính
sự hiện hữu của các con”.
LIÊN HỆ VỚI THIÊN CHÚA PHỤC
SINH
Trong sách “Giesu thành
Nazareth-Tuần Thánh: Từ lúc đi vào Jerusalem đến lúc Phục Sinh”
(Ignatius Press, San Francisco, USA 2011), Biển Đức XVI viết về Màu Nhiệm
Chúa Về Trời (tr 286) như sau:
“….Cách thức gặp gở và tình
đồng chí cũ nay đã qua đi tồi. Từ giờ trở đi chúng ta có thể liên hệ với đức
Giesu chỉ với “Thiên Chúa Cha” mà thôi. Bây giờ chúng ta có thể liên hệ
với Người bằng cách nâng lòng lên. Từ viễn cảnh Chúa Cha, trong sự hiệp thông với
Chúa Cha, chúng ta có thể tiếp cận và ở gần Người theo một thể thức mới. Sự
tiếp cận mới này –về phần chúng ta cũng phải có một sự mới mẻ. Qua bí tích
Thanh Tẩy, cuộc đời chúng ta đã được tiềm tàng trong Thiên Chúa cùng với chúa
Kito; chúng ta cũng được nâng lên trong cuộc sống hiện tại của chúng ta cùng
với Người ở bên hữu Chúa Cha (Cl 3:1-3).
Nếu chúng ta đi vào bản thể
cuộc sống của đức Giesu một cách trọn vẹn, thì lúc đó chúng ta thực sự liên hệ
với Chúa Phục Sinh, lúc đó chúng ta mới thực sự trở thành chúng ta. Liên hệ với
đức Kito và cùng đi lên. Đừng quên rằng, đối với Gioan địa vị “tôn vinh” của
đức Kito là thập giá, và sự “hướng lòng mình lên”, “lên thật cao” để liên hệ
với Người, buộc phải di hành cùng với đức Giesu bị đóng đanh trên thập giá. Đức
Kito ở bên hữu Chúa Cha thì không xa chúng ta lắm đâu. Nhưng phần lớn thì chúng
ta lại xa cách Người, mặc dù con đường liên kết chúng ta với Người thì luôn
luôn mở rộng. Con đường này không phải là vấn đề không gian di hành có tính
cách địa dư. Nó là “không gian di hành” của lòng mình, từ chiều kích tự cô lập
mình đến một chiều kích mới của thế giới mở rộng ôm lấy tình yêu Thiên
Chúa.”
ĐỨC KITO ĐANG ĐẾN RẤT GẦN
CHÚNG TA
Chỉ khi thể xác đức Giesu xa
cách khỏi khung cảnh lịch sử thì sự hiệp nhất tinh thần của Người với toàn thể
thế giới mới được trọn vẹn. Đức Giesu rời bỏ thế giới một ngày để sẵn sàng hiện
diện cho tất cả mọi dân tộc qua mọi thời đại. Người phải hóa giải mọi liên kết
của Người với bạn bè để sẵn sàng cho tất cả mọi người. Chúng ta di chuyển về
thiên đàng đến độ càng ngày chúng ta càng tới cận kề với Chúa Giesu.
Những lời giảng của chân phước John H. Newman đã linh hứng cho chúng ta trong
ngày lễ trọng này (PPS, vol.6, No. 10):
“Đức Kito đi về với chúa Cha
thì ngay lập tức là cả một nguồn sầu buồn, bởi vì Người vắng mặt, vắng cả niềm
vui, bởi vì nó liên quan đến sự hiện diện của Người. Trong chuyện giáo lý Phục
Sinh và Lên Trời của người lại nảy sinh ra những trái ngược về Kito giáo thường
được nói đến trong Kinh Thánh. Chúng ta buồn rầu, nhưng thực ra lại luôn luôn
vui mừng; như chẳng có gì cả nhưng thực ra lại có tất cả mọi sự. (2Cr 6:10).
Thực vậy, đây là tình trạng
hiện tại của chúng ta. Chúng ta mất chúa Kito rồi chúng ta lại tìm thấy Người.
Chúng ta không nhìn thấy Người nhưng chúng ta lại cảm thấy có Người. Chúng ta
ôm chân Người và nghe Người nói: “Đừng dụng vào ta.” Vậy là thế nào? Đó là:
Chúng ta đã mất một nhận định có ý thức và cảm quan về Người. Chúng ta không
thể nhìn về Người, nghe Người, đàm thoại với người, bước theo người từ chỗ này
đến chỗ kia. Nhưng chúng ta thưởng thức một thị giác thực sự thiêng liêng, nội
tâm, không phải là vật chất, một sở hữu chủ thực sự về Người. Một sở hữu chủ
thực sự hơn, hiện tại hơn là điều mà các tông đồ đã có được bằng sương bằng
thịt thực sự, dù là linh thiêng và vô hình.”
ĐỨC KITO LÀ LÝ DO ĐỂ CHÚNG TA
VUI MỪNG
Sau cùng, Biển Đức XVI đã
cho chúng ta lời khuyên là Chúa Phục Sinh không bao giờ bỏ chúng ta. Hãy coi
lại tập sách “Jesus of Nazareth –Tuần Thánh: Từ lúc đi vào Jerusalem đến
lúc Phục Sinh” trang 284-285.
“Vì chúa Giesu ở với chúa
Cha, Người không đi xa nhưng ở cận kề chúng ta. Bây giờ Người không còn ở một
chỗ đặc biệt nào trên thế giới như trước khi “Chúa về trời”. Bây giờ, qua quyền
lực của Người trên không gian, Người hiện diện và sẵn sàng cho tất cả mọi người
mọi sự -xuyên suốt lịch sử và trong mọi nơi mọi chốn. Một câu chuyện rất lý thú
trong Phúc Âm Mc 6:45-52 và những đoạn tương đồng diễn tả sự cận kề của đức
Giesu khi Người còn sống ở dương thế.
Sau khi đã biến bánh thành
nhiều, Chúa truyền cho các tông đồ xuống thuyền và đi về Bethsaida trước ở phía
bên kia bờ, còn người thì giải tán đám đông. Sau đó Người “đi lên núi” để cầu
nguyện. Trên thuyền chỉ có các môn đệ. Lúc đó gió bão nổi lên, sóng nước
cuồn cuộn làm các ông hoảng sợ vô cùng. Chúa lúc đó ở xa trên núi đang cầu
nguyện. Nhưng vì Người ở với Chúa Cha nên Người nhìn thấy các ông. Vì nhìn thấy
các ông nên Người đi trên mặt nước đến với các ông. Người vào thuyền với các
ông và làm cho tất cả mọi sự trở thành yên tình để các ông tiếp tục công việc.
Đây là hình ảnh một thời của
Giáo Hội –cũng như của mỗi người chúng ta. Chúa ở “trên núi” của Chúa Cha, do
đó Chúa nhìn thấy chúng ta, Chúa vào con thuyền cuộc sống của chúng ta bất cứ
lúc nào. Do đó chúng ta có thể luôn luôn kêu cầu Người. Chúng ta có thể luôn
luôn chắc chắn là Người nhìn thấy chúng ta và lắng nghe chúng ta. Vào một ngày
nào đó của chúng ta, con thuyền Giáo Hội phải chèo chống ngược giòng gió bão
lịch sử trên biển cả sóng to gió lớn, con thuyền gần như sắp chìm. Nhưng Chúa
hiện diện đâu đó, Người xuất hiện đúng lúc “Ta đi xa, ta sẽ trở lại với các
con”. Đó là đặc tính của Niềm Tin Kito giáo, lý do để chúng ta vui mừng.”
NTC