CHÚA NHẬT XIX-C THƯỜNG NIÊN
Kn 18:6-9; Dt 11:1-2, 8-9/11:1-2, 8-12; Lc 12: 32-48/12:35-40
Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh. MD
SÁCH KHÔN NGOAN
Gọi là Sách Khôn Ngoan vì vua Solomon là một trong những vị
vua khôn ngoan nhất của Israel. Sách đã được dùng làm sách giáo khoa cho giới
trẻ Israel từ năm 300 trước CN đến năm 200 AD, lúc đó họ đang theo văn hóa Hy
Lạp. Người Do Thái được biết đến nhờ nền văn hóa sáng ngời của Ai Cập, và có lẽ
sợ người ta coi những tập tục cổ truyền của mình thấp kém, không có giá trị nên
mới có sách Khôn Ngoan. Sách gồm những lời hay ý đẹp gọi là “khôn ngoan”,
những lời bàn về luân lý, triết học, những lời xin tha thứ về tôn giáo, khoa học
hay thuật nói và viết. Tác giả cố gắng giáo dục và xây dựng niềm tin Do Thái nơi
những người ngoại quốc sống chung quanh họ.
Bài đọc 1 hôm nay (Kn 18:6-9) lấy ở phần cuối của sách Khôn
Ngoan, phần cầu khẩn Thiên Chúa là đấng giải phóng dân Người. Một trong những
cao điểm của bản văn là vinh danh Thiên Chúa vì quyền lực hùng mạnh đã hủy giệt
những đứa con đầu lòng người Ai Cập, đồng thời giải phóng dân Người. Israel được
cứu vì “họ đợi chờ người công chính được cứu vớt” (c.7). Dân Ai Cập đã bị tiêu
giệt bởi vì không nghe lời Chúa. Dân Israel vì biết lắng nghe lời Chúa nên đã
được cứu vớt.
HÌNH ẢNH NIỀM TIN TÔN GIÁO
Thư thánh Phaolo gửi tín hữu Do Thái chương 11 đã dựa vào
những biến cố trong Cựu Ước để làm nổi bật những hình ảnh về Niềm Tin tôn giáo
rất vững chắc, không lùi bước trước bất cứ một chướng ngại nào.
Bài đọc 2 (Dt 11:1-2, 8-19) được diễn tả theo thứ tự thời
gian: câu 3-7 dựa trên 9 chương đầu của sách Khởi Nguyên; câu 8-22 dựa vào thời
kỳ các Tổ Phụ; câu 11: 23-31 dựa vào thời kỳ Mai Sen; câu 11:32-38 dựa vào lịch
sử sách Các Quan Phán, các Tiên Tri và các vị tử đạo Maccabe.
Thánh Phaolo đã diễn tả niềm tin do Tân Ước đưa ra một cách
rất bao quát nhưng không chú trọng đến định nghĩa thần học và kỹ thuật viết.
Ngoài ra vì nhu cầu của các tín hữu, ngài nhấn mạnh những điều mà niềm tin buộc
phải làm mà không nói đức tin là gì. Qua niềm tin, Thiên Chúa bảo đảm những ơn
phúc Người sẽ ban như hy vọng. Tin thì những điều Người đã hứa chắc chắn sẽ đến
(11:1). Vì tin tưởng vào tương lai như Chúa hứa, những nhân vật trong thư (Dt
11:3-38) chính là những người được Thiên Chúa điều động (11:2). Người Kito hữu
càng có lý do mạnh hơn để giữ vững niềm tin của mình, vì không giống như những
nhân vật trong Cựu Ước, họ nhận thấy những lời Chúa hứa đã được Thiên Chúa bắt
đầu thực hiện rồi (11:39-40).
Đức HY John Henry Newman đã nói về bức thư gửi tín hữu Do
Thái này: “ Vậy thì, một là phải có Niềm Tin, hai là phải chấp nhận lời hứa vì
niềm tin. Niềm Tin tự nó không liên hệ đến việc chấp nhận lời hứa.”
CHÚA GIÊSU TRỞ LẠI VINH QUANG
Toàn thể bài Tin Mừng hôm nay (Lc 12:32-48) cho thấy Thánh
Luca hiểu rõ về thời cánh chung và sự trở lại của Chúa Giêsu.Theo Luca thì điều
quan trọng là phải tin vào những lời giáo huấn của chúa Giêsu ở thời tiền quang
lâm.
Bài Tin Mừng phản ảnh những vấn nại của người Kito hữu thời
sơ khai. Họ tin rằng Chúa Giêsu sẽ trở lại vinh quang một ngày không xa nhưng
thực tế đã không xẩy ra sớm như vậy. Được viết khoảng hơn nửa thế kỷ sau khi
Chúa chết, Phúc Âm cần phải nói đến những ưu tư này để cộng đồng đừng nản chí
bởi vì họ đã chờ mong ngày Chúa trở lại từ lâu rồi.
Dụ ngôn những người đầy tớ trung thành nói lên vấn nại này.
Tư cách của người quản lý ra sao khi ông ta tin chắc rằng chủ sẽ trở về? Hình
ảnh trình bày trong Phúc Âm là hình ảnh một ông chủ trở về sau một thời gian xa
nhà.Thái độ của nhân viên, thợ thuyền thế nào khi ông chủ đi vắng? Sao lãng, thờ
ơ ! Những kẻ sao lãng sẽ bị bắt đang ngủ khi chủ về. Vì vậy cần phải có niềm tin
và trung thành với niềm tin ấy, tin chắc sẽ có phán xét và thưởng phạt công minh
ngày Chúa Kito trở lại.
Dù ngày Chúa trở lại có trì hoãn thì sứ điệp cũng đã rõ ràng:
Hãy sẵn sàng! Trung thành sẽ được thưởng tùy theo mức độ. Thiếu trung thành có
thể là thiếu niềm tin, dĩ nhiên sẽ bị phán xét. Bài Tin Mừng xác định rõ ràng
Nước Trời là mối ưu tư cuối cùng của chúng ta. Có được Nước Trời không phải do
tài giỏi khôn khéo của người đời. Nó là tặng phẩm do Thiên Chúa ban. Chúa Giêsu
đã xác định mức độ ưu tiên của nó: “Kho tàng của ngươi ở đâu thì lòng trí của
ngươi ở đó.”(Lc 12:34)
Chúa Giêsu đã nhắc đến những công tác ưu tiên của những vị
lãnh đạo trong Giáo Hội. Người đời thường coi quyền lực, tiền bạc, thành công,
đắc nhân tâm là ưu tiên. Người lãnh đạo đôi khi chọn quyền lực thay vì công lý;
quyền lực là mối quan tâm tột cùng. Những bài đọc hôm nay giúp chúng ta thẩm
định sự ưu tiên và giá trị của những ưu tư cuối cùng về Nước Trời của chúng ta.
Nhà lãnh đạo hơn bao giờ hết phải là đầy tớ khiêm nhường. Chúa Giêsu đã nói về
trách nhiệm của vị lãnh đạo như sau: Những ai được nhiều thì sẽ bị đòi nhiều;
những ai được trao phó nhiều thì bị đòi hỏi nhiều” (Lc 12: 48). Địa vị càng cao
thì đòi hỏi càng nhiều và trách nhiệm càng lớn.
NHỮNG ĐẦY TỚ TRUNG THÀNH MỚI CỦA GIÁO HỘI
Chúa Nhật 17 tháng 10 năm 2010, Biển Đức XVI đã phong thánh
cho 6 vị thánh mới tại Công Trường thánh Phêro. Đó là Thánh Stanislaw Soltys,
người Ba Lan, chết năm 1489; thánh Candida Maria Giêsu, người Y Pha Nho, qua đời
năm 1912; thánh Camilla Battista da Varano, người Ý, qua đời năm 1524 và thánh
Giulia Salzano, cũng người Ý, qua đời năm 1929; thánh Andre Bessette, người Gia
Nã Đại, qua đời năm 1937; và thánh Mary Thánh Giá MacKillop, người Úc, qua đời
năm 1909. Những vị thánh này chắc chắn có cuộc sống của người đầy tớ trung thành
mà Luca nói tới trong bài Phúc Âm hôm nay. Xin nêu lên cuộc sống đặc biệt của
thánh Mary MacKillop, vị thánh đầu tiên của Úc Đại Lợi.
THÁNH MARY THÁNH GIÁ MACKILLOP
Thánh nhân sinh năm 1842, cha mẹ là người Tô Cách Lan đến Úc
lập nghiệp diện di dân. Thánh Mary MacKillop đã để lại một di sản vĩ đại cho
nước Úc, nhất là hệ thống giáo dục Công Giáo với những thành tích của một Tu Hội
do bà lập ra ở Nam Úc năm 1866 khi mới 24 tuổi. Mary đã thiết lập một nhà dòng
nữ Những Chị Em Thánh Giuse Trái Tim Cực Thánh chuyên phục vụ người nghèo, đặc
biệt ở những vùng quê hẻo lánh. Các chị theo những nông dân, thợ hầm mỏ, công
nhân đường rầy vào sâu nơi những miền xa xôi vắng vẻ. Bất cứ họ làm việc cực
nhọc đau khổ thế nào, các chị cũng chia sẻ với họ niềm cơ cực ấy. Các chị đã đầu
tư mọi nghị lực vào những hoạt động xã hội dân sinh, lập những viện mồ côi cho
trẻ em không cha mẹ và những ngôi nhà làm nơi trú ngụ cho di dân và phụ nữ.
Mẹ Mary cương quyết bảo vệ những gì Mẹ tin đã đụng chạm với
những vị lãnh đạo tôn giáo thời đó. Sự căng thẳng liên hệ cả đến vấn đề giáo dục,
và kết quả Mẹ bị Giám Mục phụ tá sở tại rút phép thông công năm 1871. Giám mục
cáo buộc Mẹ là đã khuyến khích các trường học của mẹ không vâng lời. Việt rút
phép thông công này được giải 6 tháng sau và, lúc gần chết trên giường bệnh,
giám mục công nhận là mình đã sai lầm.
Năm 1883, Mẹ Mary lại một lần nữa đụng chạm với Giáo Hội. Một
giám mục khác yêu cầu Mẹ ra khỏi địa phận và Mary chuyển trụ sở nhà Mẹ về
Sydney, ở đó Mẹ qua đời vào ngày 8-8-1909. Trước khi qua đời, mọi người đủ mọi
thành phần đã coi Mẹ như một vị thánh sống rồi.
CỐ GẮNG ĐỂ THẤY CHÚA GIÊSU
Đặc tính nổi bật của Thánh Mary MacKillop là không bao giờ tỏ
vẻ cay đắng chống lại các bề trên trong Giáo Hội dù họ là những người phản đối
Mẹ rất mãnh liệt. Cử chỉ tha thứ của mẹ đã được bổ túc bằng những việc làm vượt
mức của tu hội. Trong một bài giảng ngày phong thánh cho Mẹ tại Úc năm 1995, Đức
Gioan Phaolo II đã nói về Mẹ như sau: “Với vẻ dịu hiền, sự can đảm và lòng trắc
ẩn, Mẹ đã là người loan báo Tin Mừng trong số những người “chiến đấu” đơn độc và
cư dân nơi nhà tranh đất vách, bùn lầy nước đọng. Mẹ Mary Thánh Giá biết rằng,
đằng sau tình trạng dốt nát, khốn khổ và tang thương mà Mẹ đã gặp còn có những
người, cả nam lẫn nữ có, thanh niên có thiếu nữ có, đang khao khát Thiên Chúa và
sự công chính. Mẹ biết, bởi vì mẹ chính là con trẻ thực sự của thời gian và
không gian: Con gái của người di dân, những người luôn luôn phải chiến đấu để
xây dựng cuộc sống cho chính mình nơi miền đất mới. Câu chuyện của Mẹ nhắc nhở
chúng ta phải hân hoan chào đón mọi người, tiếp cận với những người cô đơn,
những kẻ bị cướp đoạt và những người bất hạnh thiệt thòi. Cố gắng tìm kiếm vương
quốc Thiên Chúa và lẽ công chính của Người tức là cố gắng để thấy Chúa Kito nơi
kẻ xa lạ, để gặp Người nơi họ và giúp đỡ họ đi gặp Chúa nơi mỗi người chúng ta!”
ĐÔI LỜI KẾT: TỰ DO TRONG TANG THƯƠNG XÁO
TRỘN
Bài đọc sách Khôn Ngoan hôm nay đặt vấn đề cho chúng ta phải
suy nghĩ: Có thực trong những lúc chúng ta cảm thấy buồn nản nhất và nhiều
thách đố nhất của cuộc sống, chúng ta lại thấy có quá nhiều tự do không? Phải
chăng điều này đã nói lên cuộc hành trình anh hùng của thánh nữ Mary MacKillop?
Đã bao nhiêu lần đau khổ lại dẫn đưa chúng ta tới vui mừng và an ủi còn thắm
thiết hơn là những xáo trộn bên ngoài?
Cuộc đời của Thánh Nữ Mary MacKillop chính là hình ảnh sống
động diễn tả rõ ràng những bài Tin Mừng hôm nay, nhất là 2 câu: “Họ đã không
được hưởng những điều Chúa đã hứa nhưng từ xa họ đã trông thấy và đã chào đón
chúng và nhận biết mình là ngoại kiều hay khách lạ trên trái đất, vì những
người nói như vậy cho thấy họ là những người đang đi tìm quê hương” (Kn
11:13-14), và “Ai là người quản lý trung thành và khôn ngoan mà ông chủ sẽ giao
trách nhiệm coi sóc người làm trong nhà để phân phát thức ăn đúng giờ đúng lúc?
Thật là phúc đức cho đầy tớ nào làm như vậy khi ông chủ trở về? (Lc 12:42-43)
Đó là sứ điệp Chúa Giêsu Kito gửi cho mỗi chúng ta và muốn
chúng ta tuân giữ để được vào vương quốc của Người.
Fleming Island, Florida
August, 2019
NTC