CHÚA NHẬT XXIX B THƯỜNG NIÊN
Is 53: 10-11; Dt 4: 14-16; Mc 10: 35-45/10:42-45
Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD
“Con Người đến không phải
để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống mình làm giá cứu
chuộc muôn dân” (Mc 10:35-45)
***
Những bài đọc hôm nay kêu gọi
chúng ta hãy cầu nguyện cho các linh mục và những công tác mục vụ của họ.
Bài đọc 1 sách Isaiah nói về người
tôi tớ đã gánh chịu mọi đau khổ, phiền muộn, nhục nhã vì những bất công đổ lên
đầu họ. (Is 53:2-11). Bài đọc 2 nói về Chúa Kitô là thầy cả thượng tế, cũng là
con người nhưng đã chịu mọi thử thách như chúng ta trừ tội lỗi. Bài Phúc Âm thì
nói về “Con Người” ấy đã đến và hy sinh mạng sống mình để cúu chuộc muôn dân (Mc
10:35-45). Cả trong ba bài, lời Chúa đều làm nổi bật trọng điểm của chức vụ linh
mục và ý nghĩa của Phép Thánh Thể.
Theo Công Đồng Vatican 2 -sắc lệnh
về Tông Đồ Giáo Dân- thì giáo dân, dù không có chức thánh như các linh mục cũng
có thể làm công tác truyền giáo như các linh mục trong quyền hạn của mình và coi
mình như linh mục để thực thi Lời Chúa..
CHÚA GIESU LÀ
TÔI TỚ BÍ MẬT CỦA ISAIAH
Trong
bài đọc 1 sách tiên tri Isaiah (53:10-11), người “tôi tớ đau khổ” của
Isaiah là một hình ảnh “bí mật” không phải chỉ là dấu chỉ Tình Yêu Thiên
Chúa đối với loài người mà còn là đại diện chúng ta trước mặt Thiên Chúa.
Chỉ có Thiên Chúa mới định giá
được cái cao cả thực sự của người tôi tớ ấy. Bởi vì Người đã chịu đau khổ vì tội
lỗi của loài người, nên coi là kẻ tội lỗi, bị khinh khi hất hủi hầu hoàn thành
ước nguyện Thiên Chúa nên sẽ được Thiên Chúa thưởng công.
CHÚA GIESU LÀ
THƯỢNG TẾ SIÊU PHÀM
Trong thư gửi tín hữu Do Thái (Dt
4:14-16), thánh Phaolo đã gọi chúa Giêsu là thượng tế siêu phàm (c.14). Người đã
bị thử thách mọi mặt như chúng ta, chỉ trừ tội lỗi (c.15). Điều này được thể
hiện qua việc chúa Giêsu bị ma quỉ cám dỗ, không phải chỉ lúc khởi đầu (Dt 1:13)
mà trong suốt cuộc đời trần thế của người (Lc 22: 28). Hai đoạn thư này gửi tín
hữu Do Thái (Dt 4:16 và Dt 10: 19-22) có ý nghĩa tương tự như nhau cho thấy
thánh Phaolô khuyến khích chúng ta mạnh dạn bước lại gần Thiên Chúa nhờ công
nghiệp của Chúa Giêsu là thượng tế cao cả.
Cuộc sống chúa Giêsu được thể hiện
dưới hai hình thức khác nhau trong Cựu và Tân Ước. Trong Cựu Ước, Đức Giêsu được
gọi là “tôi tới bí mật” của Isaiah để sống và thực hành lời hứa của Thiên Chúa.
Trong Tân Ước vị “Thượng Tế Cao Cả” là Đức Giêsu, là con trẻ sinh ra ở
Bethlehem, bị đánh đập, xỉ vả, bị bêu rếu ở Jerusalem và chịu chết trên thập giá.
“Đây Là Người / Ecce Homo”. Người không khác gì
chúng ta, nhưng là đấng duy nhất đầy lòng yêu mến chúng ta, vì Người thấu hiểu
hết mọi yếu hèn, đau khổ và những cám dỗ mà chúng ta gặp phải (Dt 4:14-15).
Chúng ta nên tự hỏi: Chúng ta có
tử tế như Người không? Chúng ta có sống vì tha nhân không? Thế giới này, cộng
đồng này, giáo xứ này có bớt đi hận thù, bạo động, thêm thương yêu, tử tế, hiền
hoà, tha thứ và quảng đại hơn vì tha nhân không?
Trong Tông Huấn Rao Truyền Phúc Âm
Trong Thế Giới Ngày Nay (Evangelii Nuntiandi năm1975), Đức Phaolo VI đã nói: “Con
người thời nay họ thích nghe chứng nhân hơn là thầy dạy, và nếu họ lắng
nghe thầy dạy là vì thầy dạy cũng là chứng nhân”. Như vậy truyền đạo bằng
kinh nghiệm sống, gương sáng phải là châm ngôn của các mục tử.
Đừng để đến khi chúng ta cảm thấy
tâm hồn trống rỗng, công việc mục vụ bị thất bại chúng ta mới đấm ngực tự vấn:
Chúng ta có thực sự sống Lời Chúa không? Lời Chúa có thực sự nuôi dưỡng chúng ta
hàng ngày hơn cả cơm gạo và mọi sự ở trần gian này không? Chúng ta có yêu mến và
thực hành Lời Chúa không? Chúng ta có thấm nhuần Lời Chúa đến độ lời Chúa đã ghi
khắc thực sự trong cuộc sống của chúng ta, uốn nắn tư tưởng chúng ta, khiến có
sức thu hút và khuyến khích người khác làm theo không?
THƯỢNG TẾ
TRONG CỰU ƯỚC VÀ LINH MỤC TRONG TÂN ƯỚC
Cựu Ước không bao giờ đòi hỏi các
thượng tế phải hành động giống như moi người, trái lại họ luôn luôn cách biệt
với dân thường. Không một văn kiện nào cho biết thầy cả thượng tế phải sạch khỏi
mọi tội lỗi. Trong Cựu Ước, bất cứ một thái độ nào gọi là cảm thông với kẻ tội
lỗi đều coi là không xứng hợp với chức tư tế.
Không giống như những tư tế Levi,
trong Tân Ước cái chết của Chúa Giêsu chính là cái chết của Chúa vì chức linh
mục. Người là linh mục của cảm thông. Quyền lực của Chúa thu hút chúng ta vì
người đầy lòng trắc ẩn và khoan dung. Cuối cùng, vì chúng ta mà Chúa Giêsu giáng
trần. Người đến để phục vụ, chịu tất cả mọi thử thách như chúng ta, do đó Người
thấu hiểu tất cả những khó khan, gian khổ của chúng ta. Người cũng là con người
nên hiểu rõ chúng ta từ trong ra ngoài. Vì vậy Người có lòng trắc ẩn, cảm thông
sâu xa đối với chúng ta.
Bản tính người của linh mục ví như
người lái buôn, chỉ lo thu mua, luợm lặt, góp nhặt mọi sự về cho mình, trái lại
linh mục tính, giống như người tiêu thụ, chỉ biết cho đi và hy sinh xả thân mình
vì tha nhân. Như vậy, chẳng có gì phải thắc mắc là ơn gọi làm linh phải đối đầu
với hai thái cực trái ngược, với biết bao nhiêu thách đố ngổn ngang về tình,
tiền, chức quyền và danh vọng ….Nhưng, có gian khổ thì có vinh quang.
CÁC CON CÓ
UỐNG CHÉN ĐẮNG NÀY ĐƯỢC KHÔNG?
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa
Giêsu hỏi các môn đệ một câu có vẻ bí mật khó hiểu: “Các con có thể uống được
chén mà thầy uống không, chịu phép thanh tẩy như thầy chịu không? (Mc
10:38-40).
Câu ẩn dụ “Uống Chén Này” được
dùng trong cựu ước để chỉ sự chấp nhận số mệnh mà Thiên Chúa đã chỉ định. Trường
hợp Chúa Giêsu, câu này liên hệ đến việc Thiên Chúa phán xét tội lỗi loài người;
mà Chúa Giêsu, là người vô tội, lại phải đền tội cho những kẻ tội lỗi (Mc 14:24;
Isaiah 53:5). Phép thanh tẩy Chúa chịu ám chỉ Chúa bị đóng đanh trên thập giá và
chết để cứu chuộc nhân loại. Những đòi hỏi của hai ông Giacobê và Gioan xin được
hưởng vinh quang với Chúa (Mc 10:35-37) phải được hiểu là chia sẻ mọi đau khổ,
đắng cay, nhục mạ, chịu đựng tai ương trăm bề với chúa Giêsu (Mc 10:39). Còn
việc chỉ định chỗ ngồi trên nước trời là do quyền sắp đặt của Thiên Chúa (Mc
10:40).
Bất cứ việc gì mà các môn đệ làm
nhân danh quyền bính Chúa Giêsu thì phải được đổi thành công tác phục vụ, không
phải phục vụ cá nhân mình để vinh thân phì gia, tự cao tự đại (Mc 10:42-44), mà
là phục vụ tha nhân (Mc 10:45). Hành động phục vụ của chúa Giêsu là cuộc khổ nạn,
cái chết trên thập giá vì loài người (Mc 10:45).
Bài phúc âm đưa ra một kết luận,
là sứ điệp của chúa Giêsu: “Con Người đến không để được phục vụ mà để phục vụ,
hy sinh mạng sống mình để cứu chuộc muôn dân”.
Thực vậy, Chúa Giêsu đến thế gian
không phải để kiếm lợi lộc, mưu cầu danh giá, quyền cao chức trọng, nhiều tiền
lắm của cho riêng mình, mà để phục vụ loài người, đưa đến cái chết trên thập giá.
Cựu Ước không cắt nghĩa cách Thiên
Chúa “trả giá” cho dân Người. Nhưng cuộc khổ nạn, nỗi đau đớn khốn khổ, buồn
phiền và cái chết ê chề của Con Một Thiên Chúa đã làm nổi bật “cái giá phải trả”,
nhờ đó chúng ta mới được cứu rỗi với điều kiện phải biết hiến dâng chính thịt và
máu mình bằng cách này hay cách khác.
Các linh mục cũng cần phải đưa vai
gánh vác, chịu đựng tất cả mọi tội lỗi và khó khăn bất trắc của người đời bằng
chính máu thịt mình. Với cách thức đó, các ngài mới có được lòng trắc ẩn có thể
cảm nhận, chia sẻ nỗi đau đớn ấy trong xương thịt các ngài hầu biến nó thành một
phần thân thể của mình như chính chúa Giêsu đã làm. Thánh Phaolo đã viết trong
thư gửi cộng đồng tín hữu Corintô: “Thiên Chúa đã biến chúa Kitô là đấng
chẳng hề biết tội là gì, thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho
chúng ta trở nên người công chính của Chúa” (2Cr 5:21).
LINH MỤC LÀ
CHÚA KITO THỨ HAI
Linh mục là Chúa Kito thứ hai, là
người chăn chiên được giao phó những nhiệm vụ rất khó khăn và cơ cực nhưng cũng
oai phong trong những hoàn cảnh gian nan nên đòi hỏi phải cố gắng, xả thân, chấp
nhận đau thương. Các ngài được truyền chức thánh để tụ họp dân Chúa, rao truyền
Lời Chúa, làm Phép Rửa, mừng Lễ Bẻ Bánh và liên tục nói lời Tạ Ơn Thiên Chúa vì
những ân sủng Chúa ban.
Các ngài cũng được Chúa ủy thác để
giúp đỡ những người nghèo khó và người cần phải được giúp đỡ một cách quảng đại.
Công tác mục vụ này có đạt kết quả hay không là nhờ ở quyết tâm và những gương
sáng sống động của các ngài.
Tuy nhiên các ngài cũng phải chứng
tỏ là những đầy tớ bất xứng được sai đi để thi
hành công tác của Chúa Kitô. Ai
trong số các linh mục lại có thể xứng đáng với lời mời gọi cao cả ấy nhỉ ?
Là con người, các linh mục có thể
sai lầm, nhưng với tư cách linh mục và những đặc quyền Chúa ban, công việc các
ngài thi hành hàng ngày trên bàn thờ hay trong tòa giải tội thì tuyệt đối không
thể không có giá trị và mất hiệu quả do sự yếu đuối và tội lỗi của mình. Tín hữu
không thể bị mất ân sủng Chúa vì sự bất xứng của các linh mục, bởi vì chính chúa
Giêsu mới là đấng tế lễ, thanh tẩy, hòa giải và tha thứ. Linh mục chỉ là dụng cụ
của chúa Kitô mà thôi.
Chỉ khi nào những vị chăn chiên
tôi tớ bị khốn khổ đau thương thì lời Chúa mới thấm nhập lòng người , thúc đẩy
họ giúp đỡ thương yêu nhau. Chỉ khi nào các ngài để cho tim mình tan đi vỡ lại
trong niềm vui phụng sự dân Chúa thì lúc đó các ngài mới thực sự là những linh
mục có hiệu lực, những đấng chăn chiên tốt lành.
Lúc đó trái tim bị thương và tan
vỡ mới chính là trung tâm điểm của sứ mạng mục vụ và chăn dắt chiên thực sự của
Giáo Hội ngày nay. Không phải trái tim tan vỡ trong tình huống thất vọng, nhưng
là trái tim mở rộng ôm cả thế giới vào lòng để trìu mến, một trái tim tan vỡ có
khả năng dẫn tới niềm vui cuối cùng, bởi vì quí vị đã hiến dâng tất cả cho Thiên
Chúa và đặt toàn thể thế giới vào trong chính trái tim của quí vị.
Chúa Giêsu là linh mục toàn hảo.
Tim Người bừng cháy yêu thương, Người xả thân và hân hoan hiến trọn mình cho mọi
người. Người đã hy sinh mạng sống mình, chịu chết cho muôn dân. Người hạ mình
xuống làm tôi tớ, chịu đau khổ để cùng với những người anh em huynh đệ sống hiệp
nhất và nhiệt tình thông công với toàn thể gia đình nhân loại. “Con Người” đến
không phải để được phục vụ mà để phục vụ và hiến dâng thân mình hầu cứu chuộc
muôn dân, để ngày nay các linh mục cũng được thừa hưởng như vậy.
Cho dù những bài giảng có hùng
biện biết mấy, những bài viết luận lý, suy niệm có tuyệt vời đến đâu cũng không
thể so sánh hoặc thay thế cho tình yêu thương của các ngài đối với Đức Kito.
Tình thân huynh đệ giữa linh mục và chúa Giêsu sẽ như những sợi dây liên kết các
đồng nghiệp, đồng môn lại với nhau, có sức thu hút mọi người khiến họ có thể
nhận ra được vẻ cao quí, tươi đẹp và vĩ đại của Thiên Chúa.
Người linh mục không thể quên rằng
dân chúng / giáo dân sẽ say mê Chúa vì những gương sáng vị tha và hy sinh hết
mực của mình.
“Các con có uống được chén đắng
này cùng Thầy, chịu phép Thanh Tẩy mà Thầy sắp chịu không?” (Mc 10:38-40).
Có gian khổ mới có vinh quang.
Fleming Island, Florida
Oct 2018