SUY NIỆM THỨ 7 TUẦN THÁNH, NĂM A
Các bài đọc Lễ Vọng Phục Sinh: St 1:1-2:2, 22:1-18; Xh14:15-15:1; Is 54:5-14, 55:1-11; Br3:9-15, 3:32-4:4; Ed36:16-28; Rm6:3-11; Mt 28:1-10
Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD
Câu chuyện bi thương ngày thứ sáu tuần thánh không kết thúc với cái chết của chúa Giesu, nhưng sẽ được tiếp nối. Chúa Kito sống lại từ cõi chết và một trang sử mới của ơn cứu độ đã được viết. Đó là ngày mai, bởi vì chết không phải là hết. Việc thông báo Chúa Phục Sinh đã khiến những phụ nữ đạo đức biến chuyển từ buồn phiền thành hân hoan vui sướng vẫn còn vang động xuyên suốt cả Giáo Hội trong buổi tối vọng Phục Sinh này.
Giữa nhà thờ Mộ Thánh ở Jerusalem là ngôi mộ của chúa Giesu, đền Chúa Kito Phục Sinh. Người không ở trong đó. Người ở giữa chúng ta. Chung quanh ngôi mộ đó là những di tích của hơn 2000 năm trước đã gây ra biết bao nhiều là tranh cãi bất đồng ghê gớm, những hoang mang và suy đồi hiện vẫn còn tiếp tục cho đến ngày nay. Ngoài ra, đây là đền thờ rất quan trọng, một nơi thánh đối với những người Kito giáo.
Chúa Kito Phục Sinh là dấu chỉ cho thấy cuối cùng Thiên Chúa sẽ thắng. Tại đồi Calvary hay bất cứ nơi nào trong Giáo Hội, suy đồi xem ra vẫn còn quá ghê gớm. Đêm nay Chúa đã phá vỡ vòng vây của tử thần, chúng ta thực sự thấm nhuần ý nghĩa “cuối cùng Thiên Chúa đã toàn thắng”. Bản thân tôi biết chắc trong tâm can thân xác tôi điều đólà thực, bởi lẽ cách đồi Calvary chừng 70 feet có một ngôi mộ mà hiện nay là một ngôi mộ trống.
NHỮNG NGƯỜI PHỤ NỮ VÀ CHÚA PHỤC SINH
Chúng ta có thể rút ra được một vài bài hoc từ những người phụ nữ chạy đến thăm mộ Chúa vào buổi sáng Phục Sinh đầu tiên. Họ đã đại diện cho biết bao nhiêu là phụ nữ vô danh đầy lòng tin cậy mến và tận hiến, là một phần trong đám đông mà Chúa Giesu đã nói tới và thường lui tới nhà họ.
Họ là những người can đảm không sợ hãi dám bước tới gần Chúa và chạm vào áo Chúa. Họ cầu khẩn Chúa, họ đến nhà Chúa chẳng cần ai mời, họ đổ dầu thơm quí đắt tiện lên chân Chúa đã gây ra nhiều đàm tiếu không hay. Họ biết Chúa đã hứa với họ nên họ đón chào Chúa. Họ biết chính chúa Giesu chữa lành cho họ nên họ có sức mạnh và lòng can đảm để làm chứng cho Chúa. Và họ không biết sợ hãi là gì khi biểu lộ tình yêu vô biên của mình đối với Chúa.
Cuối cùng họ đã đứng dưới chân Thánh Giá, cạnh thân xác Chúa Giesu trong khi các ông chí nam nhi trốn lủi ở đâu hết vì sợ chính quyền.. Chính những người phụ nữ này đã rải hương thơm xuống đất nơi chôn xác Chúa và họ bàn tính làm sao để có thể đẩy được tảng đá lớn ra khỏi mồ Chúa. Họ đã tham dự sát nút việc sống chết của Chúa. Họ đã được Chúa ban thưởng vì lòng trung thành là những người đầu tiên nhận được Tin Mừng Chúa Phục Sinh.
NHỮNG NGƯỜI ĐÀN BÀ CỦA GIÁO HỘI
Bất cứ khi nào đọc và nghe những bài Tin Mừng mùa Phục Sinh, tôi không thể không nhớ đến những nữ tu đã một thời ảnh hưởng đến đời tôi lúc tuổi trẻ, đã giúp tôi can đảm trở thành người Kito hữu, một học sinh chăm chỉ và ngoan đạo. Tôi nhớ và biết ơn họ rất nhiều, những bà sơ Dòng Mến Thánh Giá Hanoi, sơ St Paul, sơ Bác Ái ở Saigon và Hoa Kỳ, sơ Chúa Chiên Lành ở Thái Lan….đã ghi lại trong trí tôi những dấu ấn khó quên về vẻ dịu hiền, sự cần cù thương người ít thấy có nơi những người bình thường ở ngoài đời.
Sơ Mến Thánh Giá Hanoi đã dạy cho tôi biết đọc biết viết những chữ A,B,C..đầu đời, khai thông tâm trí tôi cả đời lẫn đạo, trong gia đình ngoài xã hội, trong nhà thờ trước nhà Tạm Mình Thánh Chúa, bàn thờ Đức Mẹ, thánh Giuse và 14 đàng Thánh Giá. Tôi nhớ lại sự cần cù mẫn cán khiêm nhường đến tuyệt đối mà vẫn niềm nở vui tươi suốt năm này tháng nọ đầu tắt mặt tối trong nhà bếp lo phục vụ các chú chủng sinh, các cha giáo từ miếng cơm ngụm nước từ Lacordaire Hanoi đến Ngã Sáu Saigon. Mấy chục năm sau khi tôi đã ra trường y khoa, lúc có dịp đến thăm, các sơ cũng vẫn vui vẻ cần mẫn khiêm tốn như xưa, dù tuổi đời răng đã long tóc bạc trắng xóa. Các sơ vẫn nhớ và vẫn thương tôi như mẹ yêu con vậy. Có sơ đã chảy nước mắt khi nhìn tôi.
Tôi nhớ đến các sơ St Paul ở Hanoi và nhất là ở Saigon đã dạy dỗ con cháu của chúng tôi và bạn bè, nhất là đã hướng dẫn người yêu của tôi đến với Chúa để được trở thành một Kito hữu, con cái của đại gia đình Giáo Hội. Cung cách cử chỉ của các sơ đối với tụi tôi và mọi người vẫn luôn luôn niềm nở vui tươi hồi xưa cũng như hiện tại dù không phải là những sơ của hồi xa xưa.
Tôi cũng nhớ đến các sơ Bác Ái Saigon. Các sơ đã tận tâm giúp đỡ bệnh nhân ở các bệnh viện Bình Dân, Chợ Rẫy, Saigon, chợ Quán, Nguyễn văn Học, Hồng Bang…Lòng bác ái của các sơ thật tràn đầy không một bệnh nhân nào lại không muốn các sơ chăm sóc ủi an để được mau lành. Đặc biệt các sơ đã có những bưa ăn tuyệt với cho sinh viên y khoa tai cafeteria trường y khoa ở Cholon. Ngon sạch và rẻ cứ như Tây vậy khiến các đại học khác phải ganh và thèm. Ở Jacksonville Hoa Kỳ tôi lại có dịp làm việc với các sơ Bác Ái ở nhà thương St Vincent và các phòng mạch bác sĩ gia đình của St Vincent. Gương sáng của các sơ đã giúp cho đời sông thiêng liêng của tôi không ít.
Khi vợ chống chúng tôi vượt biển đến Thái Lan, trước khi đi Mỹ, ở Bangkok mấy bà sơ Chúa Chiên Lành người Mỹ và Pháp cũng đến thăm viếng và giúp đỡ chúng tôi một cách chân tình không thể tưởng tượng nổi. Chỉ có tình thương người, bác ai của Chúa Giesu mới có thể xui khiến các sơ hành động như vậy mà thôi. Các sơ làm mục vụ bằng hành động không cần lời nói.
Dù những đặc sủng của các sơ vẫn còn sống động nơi mọi cơ chế, mọi tổ chức từ thiện ở nhiều nơi khác nhau nhưng không có gì có thể thay thế được sự hiện diện của các sơ trong đờ sống của Giáo Hội và trong những câu chuyện cá nhân của chúng tôi. Đời sống của các sơ như những bình ngọc thach đầy ắp dầu thơm quí hiếm vẫn hàng ngày đổ ra trên các công tác phục vụ tha nhân một cách tích cực, bền bỉ và can đảm, đúng như những lời ngôn sứ đã nói, và trong sự hiện diện đón chờ ngày tận cùng. Hành dông của họ nhân danh Chúa Kito thì tràn đầy hy vọng, tích cực, can đảm và minh bạch rõ ràng. Niềm tin của các bà và các bà quyết định theo Chúa, cuối cùng quả là một vẻ đẹp hiếm có không hề thay đổi nói lên một cách hùng ồn ơn gọi của Giáo Hội.
Khi nghĩ đến ngày Chúa Phục Sinh đầu tiên, trong một khung cảnh kỳ dị giống như một mảnh vườn nằm bên ngoài tường thành Jerusalem, tôi không thể không nhớ đến những phụ nữ đầy niềm tin ấy đã để lại trong tôi sứ điệp Chúa Phục Sinh và còn kéo dài mãi cho đến tận cùng thế giới.
NTC