Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng
Lm. Lê Văn Quảng Psy.D.
Bài Viết Của
Lm. Lê Văn Quảng Psy.D.
NGƯỜI CON ÚT RA ĐI
ĐỨC KYTÔ PHỤC SINH
CHUYỆN MỘT NÀNG CÔNG NHÂN VIỆT NAM
NGƯỜI CHA ĐÍCH THẬT CÓ NGHĨA LÀ NHÂN HẬU VÀ QUẢNG ĐẠI
LẮNG NGHE
KHÔNG AI THÍCH NHẬN LỆNH
ĐỪNG LÀM MẤT MẶT NGƯỜI KHÁC
LẮNG NGHE NHIỀU, PHÀN NÀN ÍT (2)
LẮNG NGHE NHIỀU, PHÀN NÀN ÍT (1) - Bài 1
ĐỪNG PHÊ BÌNH, LÊN ÁN ĐỂ KHỎI BỊ LÊN ÁN (MT. 7,1-2)
TÌNH YÊU, MỘT NHU CẦU CĂN BẢN
CHÍNH NGÀI ĐÃ DẪN CON ĐI
HẠNH PHÚC GIA ĐÌNH
TIN LÀ THẦN DƯỢC
ANH HÙNG NGÃ NGỰA VÀ KHÚC QUANH CUỘC ĐỜI
MỤC VỤ CHO BỆNH NHÂN
KHÍCH LỆ : BÍ QUYẾT GIÁO DỤC CON TRẺ THÀNH CÔNG
QUÀ GIÁNG SINH NĂM NAY
SỐNG LÀ CHUẨN BỊ CHẾT
PHÚC CHO NGƯỜI ĐAU KHỔ
Tình Yêu và Phục Vụ
MÌNH VỚI TA TUY HAI MÀ MỘT. TA VỚI MÌNH TUY MỘT MÀ HAI
Giới Thiệu Bộ sách Tâm Lý Giáo Dục gồm 4 cuốn của Lm. Tiến sĩ Lê Văn Quảng.
NẾU TÔI KHÔNG THẤYTÔI KHÔNG TIN
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ - VÀ CON NGƯỜI NGÀY MAI (1)
THIÊN CHỨC LÀM CHA MẸ (6)
THIÊN CHỨC LÀM CHA MẸ (5)
THIÊN CHỨC LÀM CHA MẸ (4)
THIÊN CHỨC LÀM CHA MẸ (3) - NHỮNG PHƯƠNG CÁCH THÍCH HỢP ĐỂ ĐIỀU KHIỂN CON CÁI
THIÊN CHỨC LÀM CHA MẸ (2)
THIÊN CHỨC LÀM CHA MẸ (1)
QUAN NIỆM VỀ PHÁI TÍNH (4)
QUAN NIỆM VỀ PHÁI TÍNH (3)
QUAN NIỆM VỀ PHÁI TÍNH (2)
QUAN NIỆM VỀ PHÁI TÍNH
NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA HÔN NHÂN (7)
NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA HÔN NHÂN (6).
NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA HÔN NHÂN (5)
NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA HÔN NHÂN (4)
NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA HÔN NHÂN (3)
CUỘC CHIẾN TRƯỜNG KỲ GIỮA HAI PHÁI NAM VÀ NỮ

 

“CHIẾN TRANH VÀ CHIẾN TRANH” 

Mỗi khi gia đình có sự bất hòa, chúng ta thường hay nhắc đến lời nói danh tiếng của một nhân vật nào đó: “Người đàn ông có hai ngày hạnh phúc nhất trong đời. Một là ngày lấy vợ. Hai là ngày vợ chết”. Lý do? Vì không ai ham muốn chiến tranh. Cuôc chiến tranh lạnh kéo dài mãi khiến người ta cảm thấy cuộc đời bất hạnh và vì thế họ ao ước có hòa bình trong cuộc sống, khi người yêu của họ đã âm thầm ra đi.

Chỉ cần nhìn vào một số gia đình Việt Nam ở trên đất Mỹ, chúng ta cũng có thể thấy những gì đang xảy ra: Chiến tranh và Chiến tranh. Chính nó đã khiến hàng trăm, ngàn người lấy làm ân hận hối tiếc vì đã dại dột lấy nhau. Đi xa hơn, hãy nhìn vào những gia đình Việt Nam trên thế giới, hoặc hãy nhìn về quê hương Việt Nam yêu dấu của chúng ta trong thời buổi hiện tại, và chúng ta nhìn thấy gì ngay lúc nầy?

Hàng triệu người đau khổ do tình yêu, hàng triệu người bị quấy rầy bỡi căn bệnh ghen tương, hàng triệu người cảm thấy chán chường, bất hạnh với cuộc hôn nhân không có niềm vui, trống rỗng, cô đơn trong thanh vắng. Tình trạng nầy không phải chỉ riêng với những người Việt Nam mà với hầu hết mọi dân tộc trên toàn thế giới. Chính vì thế, nó không thể được cắt nghĩa là do sự không thích nghi của một vài cá nhân. Bất cứ một vấn đề nào liên quan đến một phần lớn dân chúng, chúng ta phải tìm một nguyên nhân sâu xa hơn hoặc do cách cấu trúc xã hội hoặc do môi trường không được may mắn, là những nguyên nhân chính thường mang lại ảnh hưởng trong những mực độ khác nhau. Vậy, cho dẫu là cá nhân người đàn ông hoặc người đàn bà hành động, nhưng họ biểu tượng cho phái họ. Những rắc rối trục trặc trong hôn nhân của ông Hưng cũng như sự xung khắc giữa cô Xuân Hương và bạn trai của cô, nếu đem so với sự trục trặc của hàng ngàn người đàn ông và đàn bà khác ta thấy có sự giống nhau, và vì thế trở nên một dấu hiệu có tính cách đặc biệt của một sự xung khắc chung giữa hai phái. Ngay cả những người phủ nhận sự hiện hữu của trận chiến giữa hai phái cũng không thể tránh khỏi một sự vương vấn. Những người khác thì ý thức về vấn đề đó nhưng lại ít nhận ra lý do thật cho cuộc chiến tranh. Phải chăng cuộc chiến đó là do sự khác biệt tâm lý và sinh học tự nhiên giữa nam và nữ không? Hay là nó được gây nên bỡi sự căng thẳng chung của đời sống xã hội hiện tại? 

Dường như có một sự hận thù tự nhiên giữa nam và nữ là nguyên cớ đã gây nên sự xung đột và chiến tranh ở bất cứ nơi nào có đàn ông và đàn bà. Si tình, ghen tương, và ngoại tình là những chuyện cổ như con người. Nhưng sự thường xảy ra và những tín hiệu cho thấy một sự khác biệt. Chúng ta có lý do để tin rằng trong quá khứ – chúng ta chỉ cần nói một hoặc hai trăm năm cách đây thôi – cả nam và nữ đều cảm thấy thỏa mãn và gần gũi với nhau hơn chúng ta cảm thấy ngay hôm nay. Ngày nay, sự không thỏa mãn về phái tính và sự không thích nghi trong cuộc sống hôn nhân thường xảy ra hơn bao giờ hết. Trên bề mặt xem như là những yếu tố nhân chủng và địa lý quyết định những khác biệt nầy. Vấn đề hôn nhân ở Âu châu khác với Á châu, Nam Mỹ không giống với Bắc Mỹ, Kitô giáo khác với Hồi giáo, Phật giáo khác với công giáo, nhưng nếu so sánh những khác biệt nầy, chúng ta thấy rằng một yếu tố quan trọng mà ở đâu chúng ta cũng đều gặp thấy trong những xung đột hôn nhân là: vị thế của người đàn bà trong những xã hội được kính trọng. Tiến xa hơn, tất cả những căng thẳng cũng như những trục trặc gia tăng đáng được cảnh báo trong vấn đề hôn nhân đều phù hợp với sự thay đổi trong tương quan xã hội của hai phái. 

VỊ THẾ XÃ HỘI CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ 

Ngày nay, ngay lúc chúng ta nhìn, vị thế xã hội của người phụ nữ đang thay đổi và chúng ta phải hiểu bản chất và chiều hướng của những thay đổi nầy để đánh giá một cách thích hợp. Rõ ràng là các bà không còn lệ thuộc vào các ông như trước nữa và các bà đang vui hưởng nhiều quyền lợi hơn trước. Nhiều ông cũng như nhiều bà tin vào sự thống trị của đàn ông đều nhìn sự độc lập của các bà như là nguyên nhân của mọi sự xáo trộn. Họ tin rằng hạnh phúc của hôn nhân sẽ trở lại, hòa bình giữa hai phái sẽ được khôi phục nếu các bà được phục hồi trở lại vị thế lệ thuộc của họ ngày xưa, không có sự tự do về xã hội, phái tính, nghề nghiệp mà ngày nay họ đang hưởng. Những người chủ trương dựa vào sự khác biệt hiển nhiên giữa hai phái, nhìn sự bình đẳng đang lớn dần trong hiện tại như một tai họa và không tự nhiên. Họ viện dẫn những khiếm khuyết về thể lý của các bà như: vóc dạng, bắp thịt, và bộ não nhỏ bé như một bằng chứng đủ cho thấy các bà như là những thuộc thể. Nhà chủng học Đức Waldeyer nói rằng: “Một sự so sánh về kích thước cho thấy đàn bà có bộ óc nhỏ hơn, yếu sức hơn, có nhiều nét trẻ con hơn trong đời sống thường ngày.” Vì thế, họ đi đến kết luận: tất cả những cố gắng thiết lập bình đẳng giữa hai phái và mở cho các bà tất cả những con đường hoạt động được nhiều ông ủng hộ là một sự sai lầm và sẽ thất bại. 

Tuy nhiên, lịch sử cho thấy quan niệm mặc cảm về sự thua kém của phái nữ thì không đúng. Những người chủ trương theo quan điểm trên đây không biết rằng các bà không luôn luôn là giới phụ thuộc mà nhiều người đã trở thành những rường cột chính của gia đình. 

BỐN QUYỀN LỢI CỦA PHÁI THỐNG TRỊ

Mặc cảm tự tôn của phái nầy trên phái kia có thể được phân biệt bỡi những đặc quyền. Nhờ những đặc quyền nầy, vị thế thống trị của một người được thiết lập trong cộng đồng bao gồm những quyền lợi chính trị, xã hội, kinh tế, và phái tính. Cho đến cách đây khoảng 100 năm, quyền lợi chính trị tuyệt đối nằm trong tay các ông. Đàn bà được nắm quyền lúc bấy giờ là một luật trừ và những luật trừ nầy chỉ xảy ra trong một số trường hợp đặc biệt mà thôi. Các bà không được nhận vào trong những văn phòng chính trị và hành chánh. 

Những quyền lợi xã hội phù hợp với quyền tối thượng chính trị. Các bà không có bất cứ quyền xã hội nào. Họ chỉ hưởng được quyền nầy từ vị thế của người chồng, người cha, hoặc người anh. Tình trạng xã hội của các bà thay đổi với tình trạng xã hội của các ông mà họ lệ thuộc vào. Các bà tự mình không thể có địa vị trong xã hội, nhưng nhờ hôn nhân các bà có thể vươn mình lên nhờ vào vị thế của các ông. 

Tình trạng kinh tế của các bà gắn liền với sự lệ thuộc vai trò xã hội của các bà. Không có sức mạnh kinh tế nào dành cho các bà. Các bà chỉ có thể làm việc cho các ông hoặc trong gia đình hoặc như người giúp việc trong nhà người khác. Các bà không thể thừa hưởng tài sản. Tiền kiếm được thuộc về gia chủ. Chỉ có chủ nhà mới có quyền giữ tài sản, làm giao kèo, kiện tụng, hay bị kiện. 

ƯU THẾ CỦA PHÁI NAM ĐANG MẤT DẦN 

Một sự thay đổi tận căn rễ suốt hàng trăm năm gần đây là ưu thế của phái nam đang dần dần biến mất. Vị thế của các bà tuy chậm nhưng đang từ từ tiến lên. Những quyền chính trị của phụ nữ đã bắt kịp với những quyền nam giới. Các bà có mọi quyền xã hôi và kinh tế. Họ vui hưởng tình trạng xã hội và làm mọi nghề nghiệp. Nhiều đàn ông ngày nay trở nên lệ thuộc vào vợ về kinh tế và xã hội. Khoảng giữa thế kỷ 20 bắt đầu phát triển quyền phụ nữ như một phần của sự chuyển hình về kinh tế và xã hội trong cấu trúc của xã hội chúng ta. Giống như kỷ nguyên của tư sản ảnh hưởng vị thế của các bà và kết thúc tình trạng mẫu hệ, một lần nữa sự thay đổi kinh tế ảnh hưởng tình trạng của các bà. Trong ảnh hưởng của chủ nghĩa tư bản, mỗi cá nhân có thể có đầy đủ quyền công dân cũng như những đặc quyền như quyền sở hữu một số tiền cần thiết. Cấu trúc xã hội mới đánh giá cá nhân trong từ ngữ Mỹ kim. Điều nầy dẫn tới sự kết thúc chế độ phong kiến và đưa đến sự thiết lập nhân quyền. 

Chủ nghĩa tự do cho mỗi cá nhân cơ hội công bằng để đạt được vị thế xã hội. Ý tưởng về “con người được sinh ra thì bình quyền” dẫn tới sự giải thoát và giải phóng khỏi những nhóm bị đàn áp trước đây. Công nhân, dân da màu, trẻ con, đàn bà bắt đầu được xem như là con người với tất cả những quyền lợi căn bản. Sau đó, đặc quyền dành cho người đàn ông bớt dần. Ở Âu châu, thế chiến thứ nhất đẩy mạnh sự phát triển nầy. Thay thế các ông, các bà đi vào làm những nghề nghiệp mà trước đây họ không được làm và dần dần họ có được nhận thức mới về xã hội. Với sự độc lập về kinh tế, họ bắt đầu phát triển cách vội vã. Tình trạng mới nầy đã khiến cho họ có tự do hơn trong cuộc sống xã hội cũng như trong những liên hệ phái tính với người khác phái. 

YÊU LÀ CHIẾN ĐẤU 

Vào thời mà người đàn bà bị khuất phục và coi thường, sự tranh chấp giữa hai phái có thể dễ hiểu trong từ ngữ một cuộc cách mạng của người bị áp bức chống lại bạo chúa của họ. Danh từ chiến tranh được dùng trong bất cứ ngôn ngữ nào để diễn tả sự liên hệ tình yêu. Nó phản chiếu chiến tranh muôn thuở. Một người xem ra đẹp và hấp dẫn là nguy hiểm. Sự tán tỉnh đầu tiên được gọi là chiến thuật. Người đàn bà là một pháo đài bị bao vây và cuối cùng bị chinh phục bỡi người đàn ông trong khi bà phải cố gắng kháng cự. Dưới sự tấn công, bà có thể suy yếu, và chấp nhận địch thủ của bà cách hoàn toàn được gọi là ngã gục. Nếu những từ ngữ nầy được dùng trong trào phúng, chúng cho thấy tinh thần chiến tranh thống trị trò chơi tình yêu. Sự chiến đấu để chiếm hữu một người khác phái mang đặc tính sự hiệp nhất giữa người mạnh hơn và người yếu hơn là kẻ bị chinh phục. 

Người ta tưởng rằng khi sự đàn áp của phái nầy đối với phái khác ngừng, sự căng thẳng giữa họ sẽ giảm một cách cân xứng. Tuy nhiên, thực tế không phải như vậy, và sự ngược lại thì đúng hơn. Vào lúc mà các bà phải vâng lời, họ không có sự chọn lựa và vì thế họ chấp nhận tình trạng của họ như một vấn đề đương nhiên. Chẳng hạn, trong những thế kỷ trước, không phải không thông thường xảy ra trong vài thôn làng nhỏ ở Đức là: một người chồng bị thống trị có thể nhận một chỉ thị từ những người láng giềng rằng: nếu ông không muốn hay không thể khuất phục được bà vợ, ông phải rời khỏi làng cùng với gia đình. Nếu bà thống trị chồng bà, thế đứng của những người đàn ông khác sẽ xem là rất nguy hiểm bỡi mẫu gương bà. Người đàn ông luôn được xem là người thống trị trong gia đình. Đó là quyền lời và bổn phận của người đàn ông.  

Trong thời buổi hiện tại, quan niệm người đàn ông phải thống trị và đàn bà phải vâng lời thì đang trở nên lỗi thời. Trong tình trạng mới, các bà nổi lên chống sự áp bức. Các bà đòi hỏi quyền lợi và sẵn sàng chiến đấu cho những quyền đó. Kết quả, sự liên hệ giữa hai phái đã trở nên căng thẳng hơn bao giờ hết. Cuộc chiến giữa hai phái đã đến chỗ bạo động và đe dọa cắt đứt mọi cộng tác và cảm thông giữa họ với nhau. 

(còn tiếp) 

Lm. Lê văn Quảng

Tác giả: Lm. Lê Văn Quảng Psy.D.

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!