Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng
Nhà Văn Hương Vĩnh
Bài Viết Của
Nhà Văn Hương Vĩnh
HÀNH TRÌNH VỀ MIỀN ĐẤT HỨA
LỄ HIỆN XUỐNG
LỄ THĂNG THIÊN
CHÚA LÀM GÌ Ở HỎA NGỤC
NHỮNG NGƯỜI XA LẠ
THANH LIÊM TRÍ THỨC
RỬA CHÂN
MỘT CÕI ĐI VỀ
NGƯỜI PHARISÊU VÀ NGƯỜI THU THUẾ
HÀNH TRÌNH CUỐI ĐỜI
TUỔI GIÀ
ƠN GỌI CỦA SONG THÂN NỮ THÁNH TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊSU
NGHỊCH TỬ VÀ HIẾU TỬ
NGƯỜI CHA ÂN TÌNH
NGƯỜI MẸ GIO LINH
TÌNH MẪU TỬ VÀ PHỤ TỬ
VỢ HIỀN
VIỄN KIẾN
BÌNH TĨNH VÀ THÔNG CẢM
SỰ THÀNH THẬT
ẢNH HƯỞNG MÔI TRUỜNG TRÊN ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH
GIA ĐÌNH LÀ GÌ?
TÓM LƯỢC PHÚC TRÌNH CHUNG KẾT THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC THẾ GIỚI THỨ XIV VỀ GIA ĐÌNH
BÀI GIẢNG CỦA ĐTC KẾT THÚC ĐẠI HỘI THẾ GIỚI CÁC GIA ĐÌNH LẦN THỨ VIII TẠI PHILADELPHIA
LỊCH TRÌNH ĐẠI HỘI THẾ GIỚI CÁC GIA ĐÌNH LẦN THỨ VIII - 2015 - TẠI PHILADELPHIA - USA
ĐẠI HỘI THẾ GIỚI CÁC GIA ĐÌNH LẦN THỨ VIII - 2015
XUÂN GIA ĐÌNH
ĐƯỜNG LỐI CỦA CHÚA
SAU BỐN THẬP NIÊN
TUYÊN NGÔN CỦA HÀN LÂM VIỆN CÔNG GIÁO PHÁP - “MỐI LIÊN HỆ HÔN NHÂN, GIA ĐÌNH, CHA MẸ, CON CÁI”
SAU BA THẬP NIÊN
AI LÊN NÚI CHÚA
ĐỨNG DẬY! TA ĐI NÀO! - “LEVEZ-VOUS! ALLONS!” (TỰ THUẬT CỦA ĐGH GIOAN PHAOLÔ II)
CÁI CHẾT LÀM RUNG CHUYỂN ĐỊA CẦU
NẮNG CHIỀU
Tác phẩm Đồng Hành Với Chúa - Bài suy niệm 25
NGƯỜI CHA ÂN TÌNH
XUÂN NẦY CON KHÔNG VỀ!
TÂM TÌNH CẢM TẠ
SAU BA THẬP NIÊN
DƯ ÂM ĐẠI HỘI THÁNH THỂ QUỐC TẾ THỨ 49 TẠI QUEBEC, CANADA

I.- ĐẠI HỘI THÁNH THỂ QUỐC TẾ  THỨ 49

 

 

1.- Canada Thánh Thể 

Đại hội Thánh Thể Quốc tế (ĐHTT) lần thứ 49 với chủ đề “Bí tích Thánh Thể là món quà Thiên Chúa ban để cho thế gian được sống”, được tổ chức tại Thành Phố Québec, tỉnh bang Québec (Canada), từ ngày 15-22/6/2008, nhằm tuyên xưng và đào sâu đức tin vào Chúa Giêsu Thánh Thể qua các buổi cử hành thánh lễ, tôn kính thờ lạy Thánh Thể trong 8 nhà nguyện thuộc khu vực Thành Phố Québec, học hỏi giáo lý về Thánh Thể, cũng như lắng nghe các chứng từ về Thánh Thể.

Năm 2008 cũng là năm kỷ niệm 400 trăm năm thành lập Thành Phố Québec. Canada vẫn được tiếng là “Canada Thánh Thể”, với lòng mộ mến Thánh Thể đặc biệt. 
 

Năm 1910, Canada đã được vinh dự tổ chức ÐHTT quốc tế lần đầu tiên, ở ngoài Âu Châu: đó là ÐHTT quốc tế lần thứ 21 tại Montréal. Trên bình diện quốc gia, cho tới năm 1965, tại Canada đã có tới 152 ÐHTT: cấp quốc gia (1), cấp tỉnh (1), cấp giáo phận (30), cấp vùng (99), cấp giáo xứ (21). Ngay tại Québec đã có ÐHTT quốc gia năm 1938, và 95 Ðại hội Thánh Thể khác nữa. 

2.- Thành quả Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế tại Québec 

Theo hảng thông tấn Zenit ngày 3-7-2008, trong cuộc họp báo hôm trước đó (ngày 2-7-2008), Đức Hồng Y Marc Ouellet, Tổng Giám Mục Québec, đã tổng kết thành quả Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế Québec và ngài cho biết Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế đã ghi đậm nét trong lịch sử Québec.

Đã có gần 12.000 người chính thức ghi danh tham dự, trong đó có 55 Tổng Giám Mục, 218 Giám Mục, gần 1300 Linh Mục, 160 Phó Tế, 180 chủng sinh, 1300 nữ tu và 150 tu huynh.

 Các phái đoàn tham dự thuộc 70 quốc gia trong đó có 22 nước Âu châu, 19 nước Phi châu, 10 nước Á châu và 3 nước Đại dương châu.

Các gia đình của tổng giáo phận Québéc đã tiếp rước 5000 khách hành hương và 1000 gia đình đã tham dự Đại Hội Thánh Thể như là nhân viên thiện nguyện.
 

Đã có 12.500 người tham dự tất cả mọi sinh hoạt của đại hội, 68% đến từ khắp nơi trên toàn quốc Canada, 5000 thuộc tỉnh bang Québec và 1500 thuộc tổng giáo phận Québec.

Mỗi ngày đã có 20.000 người thăm viếng thành phố triển lãm. Đã có 20.000 người tham dự cuộc kiệu Thánh Thể và trong Thánh lễ bế mạc, số người tham dự lên tới 60.000 dưới cơn mưa tầm tã và bài giảng của Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI được trực tiếp loan  truyền qua hệ thống vệ tinh đến ĐHTT.

Trong Đại Hội Thánh Thể được tổ chức lần đầu tiên năm 1881 chỉ có 300 tham dự viên, đa số là các vị giám đốc các phong trào Thánh Thể Âu châu. Trong 125 năm sau đó, các Đại Hội Thánh Thể đã thay đổi nhiều, và số người tham dự xê xích giữa 12 tới 15 ngàn. Trong các Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế mới đây số tín hữu tham dự có khi lên tới hàng trăm ngàn.
 

3.- Những chứng từ trong thời gian Đại Hội 

Điều quan trọng là những chứng từ trong thời gian Đại Hội đã có một dư âm sâu xa.  

Tuần San “The B.C. Catholic, Quyển LXXVIII, số 25 ngày 23-6-2008 của Tổng Giáo Phận Vancouver B.C. Canada, đã thuật lại hai chứng từ quan trọng của một linh mục là cha Nicolas Buttet và của một giáo dân là giáo sư Jean Vanier. Hai chứng từ nầy được hai phóng viên đài CNN ghi nhận.  

Ngoài ra, cần nhắc tới chứng từ của bà Nguyễn Thị Thu Hồng, người em gái út của ĐHY Tôi Tớ Chúa F.X. Nguyễn Văn Thuận, đối với Bí Tích Thánh Thể. 

II.- LINH MỤC NICOLAS BUTTET 

1.- Tiểu sử linh mục Nicolas Buttet

Cha Nicolas Buttet là vị sáng lập Eucharistein Fraternity (Huynh Đoàn Thánh Thể). Cha sinh năm 1961 ở Thuỵ Sĩ. Cha vốn là một luật sư tập sự và là cựu thành viên Quốc Hội Quận Hạt Valais. 

Cha đã tham gia Hội Đồng Giáo Hoàng về Công Lý và Hoà Bình ở Roma và năm 1992, cha đã lui về sống ẩn dật tại tu viện Notre-Dame du Scex, Valais.

Khi trở lại đời thường năm 1997, cha đã sáng lập Huynh Đoàn Thánh Thể  (Eucharistein Fraternity) ở Saint-Maurice-d'Agone, toạ lạc số 97 St. Maurice Thuỵ Sĩ. Đó là một trong nhiều tân cộng đoàn được phát sinh sau Công Đồng Vatican II.

Cộng đoàn nầy hiện có ba nhà: một nhà ở Epinassey trong thuở đất của Đan Viện Saint-Maurice, một nhà ở Bourguillon (Fribourg) và ngôi nhà thứ ba ở Pháp, tại làng La Martre, trên một thuở đất 115 mẫu tây được Đức Giám Mục Fréjus-Toulon hiến tặng.

Vào ngày 22/06/2003, Đức Cha Dominique Rey, giám mục giáo phận đã chính thức nhìn nhận Huynh Đoàn, được thành lập như một hiệp hội công của các tín hữu. Cũng vào ngày 22/06/2003, cha Nicolas được thụ phong linh mục và thầy Jean Python là một cộng sự viên thân cận được thụ phong phó tế.

Cộng đoàn là nơi tu hội của chừng 20 nam nữ tu sĩ, những thỉnh sinh và tập sinh. Họ sống đời tận hiến theo đường lối giản dị của Phúc Âm và hoàn toàn phó thác cho Chúa theo cảm hứng của Thánh Phan-xi-cô thành Assisi. Đời sống cộng đoàn đặt căn bản trên Chúa Kitô Thánh Thể, được cử hành trong hy tế của Thánh Lễ và được phụng thờ trong Bí Tích Thánh Thể.

Tu Hội cũng mời gọi những người trẻ đến chia sẻ kinh nghiệm trong vòng một năm nhằm suy tu, cầu nguyện và phục vụ theo chuyên môn riêng của họ. Họ cũng đón tiếp nhiều người thuộc giới trẻ nghiện rượu và nghiện ma tuý hay đang vật lộn với chứng suy thoái tinh thần trong một thời gian đổi mới cá nhân.

Ngoài việc phục vụ trong tư cách điều hợp viên của Tu Hội, cha Nicolas còn hướng dẫn Nhóm Dorothée và Thánh Nicolas de Flue mà cha là một diễn giả thường xuyên.

Thêm vào đó, năm 2004, cha còn ở trong lực lượng nòng cốt thành lập Viện Đại Học Philanthropos – một trung tâm nghiên cứu về nhân chủng học. Giáo sư của Viện không được trả thù lao nhưng được đánh giá cao bởi những đại học uy tín nhất ở Âu châu.

Cha Buttet cũng tham gia vào việc thành lập Ecophilos Foundation là một cơ quan của Viện Đại Học trên, nhằm mục đích xem xét một cách trung thực về con người khi hoạt động.

Cha đã xuất bản ba quyển sách về Thánh Thể: Yêu mến và làm cho người ta biết tình yêu (Aimer et faire connnaitre l’amour –  Nhà xuất bản Emmanuel). Đốt cháy dưới mặt trời của Chúa (Brulé au soleil de Dieu – Nhà xuất bản Cerf) và Thánh Thể ở nơi học đường các thánh (L’Eucharistie à l’école des saints – Nhà xuất bản Emmanuel).

2.- Chứng từ của cha Nicolas Buttet

Theo phóng viên Laura Ieraci của đài CNN, ghi nhận từ Thành Phố Québec, cuộc đời của cha Nicolas Buttet thật rạng rỡ. Trước kia cha là một nghị viên trẻ tuổi nhất của Nghị Viện Thuỵ Sĩ và là một người ở trong địa vị sẽ định hướng tương lai của đất nước Thuỵ Sĩ. Nhưng rồi cha đã buông bỏ tất cả.

Vào năm 1988, những vấn nạn xã hội và sự khổ đau của nhân loại mà cha phải chạm trán khi còn là một nhà làm luật đã đòi hỏi cha phải tìm kiếm những giải pháp đích thực là những giải pháp mà cha không thể cung ứng như là một chính trị gia.

Hành trình tìm kiếm của cha đã đưa dẫn cha tới việc khám phá Thánh Thể như là suối nguồn của chữa trị và hoán cải. Giờ đây cha là một linh mục, dâng hiến đời mình cho việc tôn thờ Thánh Thể và phục vụ kẻ khác.

Với 47 tuổi đời, cuối cùng cha Buttet đã sáng lập Huynh Đoàn Thánh Thể, chuyên lo việc tôn thờ Thánh Thể. Cha đã thuật lại câu chuyện đời mình hôm 17-6-2008, trong buổi họp khoáng đại của Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế lần thứ 49.

Theo cha, chủ đề của Đại Hội “Bí tích Thánh Thể là món quà Thiên Chúa ban để cho thế gian được sống” không chỉ đơn thuần là một khẩu hiệu mà còn hơn thế nữa. Cha đã tuyên bố trước một cử toạ nhiều ngàn người: “Thánh Thể là một thực tại!

Cha nói: “Chúng ta không luôn luôn phản chiếu Chúa Giêsu cho người khác, nhưng một khi chúng ta nhận ra Chúa Giêsu Kitô trong hình bánh, điều đó cho phép chúng ta nhận ra Chúa Giêsu trong anh em chị em chúng ta” cho dù trong những thành phần biến dạng nhất của xã hội loài người. Sự nhận chân như vậy sẽ đòi buộc các tín hữu phục vụ và tự hiến mỗi ngày như là quà tặng.

Cha thuật lại việc hoán cải và chữa trị của cha trong một hành trình xuyên suốt 15 năm, đưa dẫn cha đến việc lãnh chức linh mục năm 2003.

Chặng đầu tiên mà cha dừng chân sau khi rời bỏ chính trường là thành phố Turin, nước Ý mà ở đó cha đã làm thiện nguyện viên cho một cơ quan có tên gọi là “Ngôi Nhà Bé Nhỏ của Chúa Quan Phòng” – một bệnh xá chuyên lo săn sóc những người tàn tật về thể lý.

Sau khi trải qua một hành trình vất vả từ Thuỵ Sĩ, cha được một tu sĩ mời làm nhân viên của bệnh xá để săn sóc những người đến xin chửa trị về đêm. Cha đã vui vẻ nhận lời và khi chứng kiến một thời gian lâu dài rất nhiều người cần được tắm rửa, nên cha đã phụ giúp tắm rửa những cơ thể khập khiểng tàn tật và cha trở nên mệt mỏi rã rời trong công việc.

Khi xong việc, Cha vào nhà nguyện để cầu nguyện trước Thánh Thể. Cha cho biết chính ở đó, lần đầu tiên cha đã bắt đầu hiểu được sự hiện diện đích thực của Chúa Kitô trong Thánh Thể. Cha nhận ra rằng bánh Thánh Thể và những tấm thân mảnh khảnh, nằm liệt giường mà cha vừa tắm rửa cũng chính là thân thể Chúa Kitô.

Về sau cha đã làm thiện nguyện cho các “Thừa Sai Bác Ái” ở Calcutta, Ấn Độ, rồi cha đã trải qua năm năm sống ẩn dật trong một tu viện ở Thuỵ Sĩ. Một sự nhận thức sáng suốt đã đưa cha tới việc thành lập “Huynh Đoàn Thánh Thể (Eucharistein Fraternity). “Eucharistein là tiếng Hy-lạp có nghĩa là tạ ơn hay một sự cảm tạ hướng đến Thiên Chúa.

Cha cho biết nhiều người tìm được sức mạnh trong Thánh Thể để tiếp tục vượt qua những hoàn cảnh khó khăn. Cha thuật lại kinh nghiệm của cha đối với một cộng đoàn nhỏ bé ở vùng quê bên Trung quốc mà ở đó cha đã dâng Thánh lễ sau một chuồng trâu để chính quyền không để ý tới. Cha nói: “Người ta có thể thấy sự đói khát về Thánh Thể trong đôi mắt họ.

Cha Buttet đã thuật lại nhiều câu chuyện về những người trẻ đã chứng nghiệm sự hoán cải và chửa trị trước Thánh Thể. Nhiều người đã đến với tu viện của cha bên bờ tuyệt vọng, với chứng nghiện ngập trầm trọng hay những vết thương sâu đậm về tâm lý và tâm linh.

Sự loã lồ của Chúa Kitô là câu giải đáp cho những vụ tai tiếng của trần gian. Cha nói với các tham dự viên Đại Hội Thánh Thể như sau: “Chúa Kitô loã lồ trong máng cỏ, loã lồ trên cây thập giá và loã lồ trên bàn thờ nữa.

Cha nói thêm: “Để ra một ít thời giờ trước Mình Thánh Chúa cho phép người ta học hỏi trực tiếp từ Chúa Giêsu. Cách thức của Chúa Giêsu trở thành Thiên Chúa trong Thánh Thể tỏ rõ cho chúng ta cách thức làm người của Ngài.

III.- GIÁO SƯ JEAN VANIER

1.- Tiểu sử giáo sư Jean Vanier 

Cũng giống như phụ thân theo đuổi binh nghiệp, lúc lên 13 tuổi, trong thời Đệ Nhị Thế Chiến, giáo sư Jean Vanier theo học trường Cao Đẳng Hải Quân Hoàng Gia ở Dartmouth. Ông trở thành sĩ quan hải quân trên tàu chiến Vanguard của Anh quốc, rồi một ít năm sau, ông được thuyên chuyển sang hàng không mẫu hạm duy nhất của Canada là Magnificent.

Lúc bấy giờ giáo sư ở lứa tuổi đôi mươi và đã sinh sống qua nhiều quốc gia trong đó có nước Pháp và nước Anh. Vào năm 1950, ông từ chức khỏi ngành Hải Quân Hoàng Gia của Canada. Trong vòng 6 năm sau đó, ông trở nên một thành viên rồi giám đốc của cộng đoàn giáo dân ở gần kinh thành ánh sáng Paris là “Nước Sống” (“L’eau vive”).

Kế đó, giáo sư trải qua một năm ở Đan Viện Bellefontaine, một năm ở một trang trại và hai năm ở Fatima. Năm 1962, ông đạt được cấp bằng tiến sĩ triết lý và dạy học một thời gian ngắn ở Toronto.

Năm 1964, linh mục nổi tiếng là cha Thomas Philippe, dòng Đa-minh, khuyến khích giáo sư định cư ở Trosly, kế cận Paris, ở đó cha là linh hướng của một trung tâm dành cho những người khuyết tật.

Từ khi rời bỏ hải quân, giáo sư Jean Vanier đã suy tư rất nhiều và đã du lịch nhiều nơi. Giáo sư đã nhận thấy chính xác là phải thành lập một cộng đoàn giáo dân để sống và phục vụ những người nghèo bị xã hội bỏ rơi. Do đó ông đã mua một căn nhà hoang phế, đặt tên là “Cộng Đoàn Arche” và được khánh thành ngày 5-8-1964.

Khởi đầu từ cộng đoàn đầu tiên nầy, những cộng đoàn khác đã phát sinh ở Úc châu, Bỉ, Burkina Faso, Canada, Ivory Coast, Đan-mạch, Tây-ban-nha, Hoa-kỳ, Pháp, Haiti, Honduras, Ấn-độ, Ái-nhĩ-lan, Ý, Anh và Thuỵ-sĩ. Hiện nay có 103 cộng đoàn trên thế giới.

Năm 1968, tiếp theo một cuộc tĩnh tâm mà giáo sư rao giảng ở Merylake, tỉnh bang Ontario, đã phát sinh cộng đoàn “Đức Tin và Chia Sẻ” (“Faith and Sharing”), một cộng đoàn mà ở đó người ta gặp gỡ nhau trong một ngày mỗi tháng để cầu nguyện và ở đó mọi người được chào đón.

Năm 1971, cùng với chị Marie Héleine Matthieu, giáo sư Jean Vanier thành lập cộng đoàn “Đức Tin và Ánh Sáng” (“Faith and Light”), một phong trào qui tụ những người khuyết tật, cha mẹ họ và thân bằng quyến thuộc để có những thời gian chia sẻ, phụng vụ và cầu nguyện. Những cộng đoàn đó gặp gỡ nhau một hay hai lần mỗi tháng. Hiện nay có trên một ngàn cộng đoàn như thế trên thế giới.

Cho đến năm 1981, giáo sư Jean Vanier chịu trách nhiệm đối với cộng đoàn “Arche” ở Trosly-Breuil. Năm 1981, giáo sư đã nghỉ phép một năm và hết trách nhiệm đó. Ông tiếp tục định cư Trosly-Breuil, sinh sống và chia sẻ đời mình với những người khác ở trong một nhà của cộng đoàn. Giáo sư tiếp tục thăm viếng các cộng đoàn khắp trên thế giới và cũng thuyết trình nữa.

2.- Chứng từ của giáo sư Jean Vanier

Phóng viên của đài CNN là Deborah Gyapong đã ghi nhận chứng từ của giáo sư Jean Vanier từ Thành Phố Québec.

Vị sáng lập những cộng đoàn dành cho những người khuyết tật tâm thần cho biết những người nghèo và hạng cùng đinh đang kêu gào để được yêu thương và được quan hệ tình cảm.

Giáo sư Jean Vanier, vị sáng lập những cộng đoàn “Arche” trên thế giới và là tác giả của nhiều cuốn sách về lòng mẫn cảm và sự mỏng dòn của con người, đã phát biểu trong Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế ở Thành Phố Québec hôm 16-6-2008 là Kitô hữu được mời gọi nên giống Chúa Kitô, với con tim mở rộng cho hết mọi người nghèo và bất hạnh.

Giáo sư cho biết mở rộng lòng ra để có quan hệ tình cảm với những người ngoài lề xã hội thì thật khủng khiếp, bởi vì làm như thế sẽ đập phá bức tường ngăn cách con người với nhau và lấp đầy lỗ trống phân cách người giàu và kẻ nghèo.

Giáo sư nói: “Trong thế giới chan chứa nhiều độ lượng, nhưng phải có sự quan hệ tình cảm và lòng yêu thương.” Giáo sư còn nói thêm: “Để nên giống Chúa Giêsu, chúng ta phải rửa chân cho nhau.”

Giáo sư là một trong nhiều chứng tá giáo dân đã ngõ lời trước một cử toạ gồm những khách hành hương đến từ hơn 70 quốc gia khác nhau như sau: “Bằng nhiều cách khác nhau, Giáo Hội đã đánh mất người nghèo, bởi vì thiếu ơn gọi.

Giáo sư nói: “Chính phủ đã lấp đầy kẽ hở phân cách giàu nghèo, điều đó không đến nỗi tệ, nhưng điều mà người nghèo cần hơn bất cứ điều gì hết là có người nói với họ là tôi yêu anh, yêu chị.

Theo giáo sư: “Sự hiện diện của Chúa Giêsu là ở trong người nghèo và khi đón tiếp niềm nở người nghèo là người ta đón tiếp Chúa Giêsu.

Giáo sư cho biết thêm: “Trở nên giống Chúa Giêsu sẽ làm cho người ta nhu mì khiêm tốn, mẫn cảm và dấn thân và điều đó không phải thường tình cũng không đơn giản.

Giáo sư thối thúc những người hiện diện là nên bước ra khỏi “phe cánh” của mình khi tham gia phụng vụ và phải đón tiếp niềm nở những người nghèo, những người đui mù và những kẻ bị gạt ra ngoài lề xã hội.

Giáo sư nói: “Sứ vụ của Chúa Giêsu là sai mỗi người đi phục vụ người nghèo, để rồi qua mầu nhiệm Thánh Thể, họ biết là họ được yêu thương.

Giáo sư Jean Vanier cũng tỏ bày niềm hy vọng là hết mọi Kitô hữu được thánh tẩy sẽ có thể phân biệt minh bạch mầu nhiệm Chúa Giêu trong Thánh Thể “để tất cả họ có thể nên một ngõ hầu thế giới tin tưởng.

IV.- ĐỨC CỐ HỒNG Y NGUYỄN VĂN THUẬN

Trước khi trình bày phần chia sẻ của bà Nguyễn Thị Thu Hồng, người em gái út của ĐHY Tôi Tớ Chúa F.X. Nguyễn Văn Thuận, thiết tưởng rất hữu ích khi ôn lại chứng từ về Thánh Thể của Đức cố Hồng Y, qua hai tác phẩm của ngài là “Đường Hy Vọng” và “Năm Chiếc Bánh và Hai Con Cá”. Chính lòng sùng kính đối với Thánh Thể đã ảnh hưởng sâu xa đến đời sống lao tù của ngài.

1.- “Đường Hy Vọng”

Trong đề mục 15: “THÁNH LỄ”, Đức cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận đã nhấn mạnh hai điểm sau đây về Thánh Thể, phát sinh từ cuộc sống lao tù của ngài:

 -  Dù thiếu tất cả, dù mất tất cả, nhưng còn Thánh Thể là còn tất cả vì con có Chúa thiên đàng dưới đất. (Đoạn 363)

 -  Dù cô đơn nơi đèo heo hút gió, dù tăm tối trong ngục tù, con hãy hướng về các bàn thờ trên thế giới, nơi Chúa Giêsu đang tế lễ; con dâng và rước lễ thiêng liêng. An ủi và can đảm sẽ tràn ngập lòng con. (Đoạn 364)

2.- “Năm Chiếc Bánh và Hai Con Cá”

Qua tác phẩm trên đây, trong đề mục 4 “CHIẾC BÁNH THỨ TƯ: SỨC MẠNH ĐỘC NHẤT CỦA TÔI: PHÉP THÁNH THỂ”, người ta thấy Đức cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận đã sống trọn vẹn Bí Tích Thánh Thể như thế nào trong cuộc sống lao tù 13 năm của ngài, trong đó có 9 năm biệt giam.

Ngài cho biết: nhiều người đã hỏi ngài: “Làm sao cha kiếm ra rượu lễ, bánh lễ?”

Đây là câu trả lời: hôm sau lúc bị bắt, tôi được phép viết về nhà để xin đồ cần dùng…Hàng chữ đầu tiên tôi viết: “Xin gởi cho tôi ít rượu thuốc trị bệnh đường ruột”. Bên ngoài, giáo dân hiểu ngay. Hôm sau, ông trưởng ban chấp pháp cầm đến một ve nhỏ bên ngoài có dán giấy đề chữ: “thuốc trị bệnh đường ruột” (tức rượu nho) và bánh lễ thì xé nhỏ bỏ trong một cái lọ chống ẩm.

Và ngài bày tỏ cảm tưởng: không bao giờ tôi vui bằng hôm đó: từ đây mỗi ngày với ba giọt rượu và một giọt nước trong lòng bàn tay, tôi dâng thánh lễ.

Tuy nhiên cách dâng lễ mỗi nơi một khác. Ngài đã thuật lại như sau:

Dưới hầm tàu thuỷ chở tôi ra miền Bắc, ban đêm tôi ngồi giữa mấy bạn tù, bàn thờ là túi cói đựng đồ

Lúc ở trại Vĩnh Quang, tôi phải dâng lễ trong góc cửa ban sáng, lúc người ta đi tắm, sau giờ thể dục.

Lúc đã quen với thời khoá biểu của trại, tôi dâng lễ ban đêm, vì tù nhân được chia thành từng đội 50 người, ngủ chung trên một láng gỗ…Chúng tôi đã tự thu xếp để năm anh em Công giáo nằm quanh tôi. Đến 9 giờ rưỡi đêm, nghe tiếng kẻng là tắt đèn và mọi người phải nằm trong mùng muỗi cá nhân; tôi ngồi cúi sát xuống để dâng lễ thuộc lòng. Tôi đưa tay dưới mùng để chuyển Mình Thánh cho anh em chịu lễ. Chúng tôi nhặt giấy nylon bọc bao thuốc hút để làm những túi nhỏ đựng Mình Thánh.

……

Mỗi tuần, sáng thứ sáu, có một buổi học tập, tất cả 250 anh em phải tham dự. Đến lúc xả hơi, các bạn Công giáo thừa dịp đó mang các túi nylon đựng Mình Thánh đến chia cho bốn đội kia, mỗi người thay nhau mang trong túi áo một ngày.

Ai cũng biết có Chúa Giêsu Thánh Thể đang ở giữa trại tù với họ. Chính Ngài an ủi, xoa dịu những khổ đau thể xác và tinh thần; chính Ngài thêm can đảm chịu đựng cho họ. Ban đêm, họ thay phiên nhau làm giờ thánh. Sự hiện diện thinh lặng của Phép Thánh Thể biến đổi họ cách lạ lùng.

……

Không có gì cưỡng lại được tình yêu Chúa Giêsu. Đêm tối của ngục tù trở thánh ánh sáng, hạt giống đã đâm chồi dưới đất đang lúc dông tố phong ba. Những ơn trọng nầy do Chúa Giêsu Thánh Thể, chứ không phải do sức loài người.

Trong 9 năm biệt giam, ngài dâng lễ một mình lúc 3 giờ chiều, giờ Chúa Giêsu hấp hối trên Thánh giá.

……

Để kết luận, ĐHY viết:

Các bạn trẻ thân mến,

Mời các bạn nghe lời Đức Thánh Cha (Gioan Phaolô II):

Chúa Giêsu sống giữa chúng ta, trong phép Thánh Thể, giữa những sự bất trắc, những hoang mang trong cuộc đời mỗi ngày, các bạn hãy noi gương hai môn đệ trên đường về Emmau…Hãy cầu xin Chúa Giêsu, để dọc các nẻo đường về bao nhiêu xóm nhỏ Emmau của thời đại ta, Ngài ở lại với các bạn. Ngài phải là sức mạnh của các bạn, là trung tâm của các bạn, là hy vọng trường cửu của các bạn.” (Gioan Phaolô II, Sứ điệp NQTGT XII, số 7)

Lời kêu gọi trên đây của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong quá khứ chắc vẫn còn âm vang trong Ngày Quốc Tế Giới Trẻ XXIII đang diễn ra ở Sydney, Úc châu, từ ngày 15-20/7/2008 do Đức Thánh Cha đương kim là Bênêđitô XVI chủ toạ. 

V.- CHIA SẺ CỦA BÀ ELIZABETH NGUYỄN THỊ THU HỒNG 

Trên VietCatholic News (Thứ Sáu 20/06/2008 09:28), Anthony Lê đã trình bày phần chia sẻ của người em gái út của Đức cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận là bà Nguyễn thị Thu Hồng tại Đại Hội Thánh Thể Thế Giới thứ 49 như sau, căn cứ theo tin tức trên Zenit. org:  

 

Bà Elizabeth Nguyễn Thị Thu Hồng

Rất nhiều người đã đọc về đức tin của Đức Cố Hồng Y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận ở nơi Phép Thánh Thể qua những bài viết tự truyện của ngài. Thế nhưng lần này tại Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế, các tham dự viên lại biết được một khía cạnh khác về ngài.

 

Bà Elizabeth Nguyễn Thị Thu Hồng, em gái của Đức Cố Hồng Y, chính là một trong những thuyết trình viên tại Đại Hội Thánh Thể Thế Giới lần thứ 49, diễn ra tại thành phố Quebec ở Canada.

Bà đã dịch sang tiếng Anh và tiếng Pháp những bài viết của Anh mình và những lá thư mà Đức Cố Hồng Y đã viết cho gia đình trong suốt 13 năm tù đày tại Việt Nam. Ngài bị bắt vào ngày 15 tháng 8 năm 1975, 9 trong 13 năm tù, ngài hoàn toàn bị biệt giam. 

Bà Elizabeth nói:

 "Qua những bài viết của anh tôi, cụ thể nhất là qua những lá thư mà anh tôi viết từ trong ngục tù, một điều rõ ràng nổi trội lên đó là: cuộc đời của anh tôi được cắm rễ rất sâu vào sự kết hiệp tuyệt vời với Thiên Chúa hằng sống qua Phép Thánh Thể, và đó cũng chính là sức mạnh duy nhất của anh tôi. Đối với anh tôi, đó cũng chính là một lời nguyện hay nhất, và là cách tốt nhất để tạ ơn và ca tụng danh Thiên Chúa." 

Em gái của Đức Cố Hồng Y quả quyết rằng:  

"Chính đức tin không hề lay chuyển vào Phép Thánh Thể mới luôn là động lực hướng dẫn cuộc đời anh tôi, và đó mới chính là sức mạnh và của ăn trong cuộc hành trình dài nơi tù ngục. Anh tôi luôn kết thúc những lá thư bí mật đó gởi cho cha-mẹ của mình bằng những dòng chữ như: Mẹ và Cha kính yêu, đừng để cho con tim của Mẹ-Cha phải trĩu nặng đi vì nổi buồn. Mỗi ngày con sống kết hiệp với cả Giáo Hội hoàn vũ và với sự Hy Tế của Chúa Kitô. Mẹ-Cha hãy cầu nguyện cho con để con có được sự can đảm và sức mạnh để mãi tín trung với Giáo Hội và Phúc Âm, và để con thực thi ý định của Thiên Chúa." 

Lòng Sốt Mến 

Bà Elizabeth cho biết lời chứng thực của Anh trai Bà: 

"Chỉ ra cho tất cả chúng ta rằng: Chúa Kitô đã hiến sự hy tế của Ngài với lòng nhiệt thành sốt mến cao độ, và Ngài đã vâng phục Chúa Cha ngay trong chính giờ phút chịu nạn và bị đóng đinh, và thậm chí cho tới độ phải chết đi một cách nhục nhã trên cây thập giá, để mang lại cho Chúa Cha một nhân loại được cứu rỗi và một tạo vật được thanh tẩy. 

Trong tù ngục, với Phép Thánh Thể đang ngự giữa, những tù nhân Kitô Giáo và không phải Kitô Giáo đã từ từ nhận biết được ơn huệ để hiểu rằng mỗi một giờ phút hiện tại nơi cuộc sống của họ trong những điều kiện dã man nhất, họ vẫn có thể kết hiệp với sự hy tế cao cả của Chúa Giêsu, và tự nâng họ lên như là một hành động của việc long trọng tôn kính dành cho Thiên Chúa là Cha. Mỗi ngày cùng với họ, Đức cố Hồng Y Thuận luôn tự nhắc nhở chính mình và khuyến khích mọi người cầu nguyện rằng: Lạy Chúa, hãy cho chúng con có thể dâng hiến lên sự hy tế nơi Phép Thánh Thể với tình yêu, để chúng con chấp nhận mang lấy thánh giá, và để được đóng đinh vào đó nhằm tuyên xưng về danh Chúa, và để phục vụ cho tất cả anh-chị-em của chúng con." 

Và Bà Elizabeth kết luận rằng: 

"Tôi muốn kết thúc những dòng suy niệm này với những ý nghĩ dịu dàng được thâu lại trong ngày lễ Kinh Mân Côi vào ngày 7 tháng 10 năm 1976 ở tù ngục Phú Khánh, trong thời gian mà anh trai tôi bị biệt giam, đó là: 'Con vui mừng ở đây, trong xà liêm này, nơi mà những ngọn nấm trắng đang mọc lên trên tấm chiếu ngủ của con, bởi vì Ngài cũng có mặt ở đây với con, bởi vì Ngài muốn con sống ở đây với Ngài. Trong cuộc đời con đã nói rất nhiều rồi. Giờ đây con không nói nữa. Đến lượt Ngài hãy nói chuyện với con, hỡi Chúa Giêsu, con đang lắng nghe Ngài nói đây.' 

Cứ mỗi lần tôi đọc những lời này, tôi không thể nào có thể tưởng tượng được anh trai của tôi, đang ngồi trong ổ ngục tù đen tối, phải đối diện với sự trống vắng hoàn toàn, thế nhưng lại nhẹ nhàng mĩm cười như là anh ấy vẫn thường như vậy, thậm chí trong suốt những ngày cuối đời của anh, anh đã nắm giữ thật chặt và đầy yêu thương túi áo của anh là nơi mà Thiên Chúa của nước thiêng đàng đang ngự trị. 

Nguyện cho người cựu tù nhân này – người đã cảm nghiệm được sự hài hòa, tình yêu, và cuộc sống của nước thiêng đàng đến mức độ trọn vẹn nhất nơi sự hiu quạnh của ổ ngục tù, tiếp tục hướng dẫn tất cả chúng ta để chúng ta có thể trở nên giống với các môn đệ của làng Emmau xưa kia – những người lớn tiếng thốt lên rằng, 'Lạy Thiên Chúa, xin hãy ở lại với chúng con và dưỡng nuôi chúng con bằng chính mình Ngài.'"  

THAY LỜI KẾT: THÁNH LỄ NỐI DÀI

Trong một Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế cách đây trên hai thập niên, một chứng nhân đã đưa ra quan điểm phê phán khá nặng nề về Thánh Thể của một tín hữu Tin Lành như sau: “Nếu những tín hữu Công giáo tin có Chúa Giêsu ngự trong Thánh Thể thì hằng ngày họ sẽ tuôn đến để thờ lạy Ngài và không còn cảnh tượng hoang vắng như đang xảy ra hiện nay trong rất nhiều thánh đường ở Âu châu và Mỹ châu.”

Thoạt mới nghe qua chứng từ đó, người ta không khỏi bàng hoàng khi thấy các tín hữu Công giáo có thái độ thờ ơ và thiếu tin kính đối với Thánh Thể. Nhưng khi đi vào đời sống của những chứng nhân Thánh Thể trên đây như cha Nicolas Buttet, giáo sư Jean Vanier, Đức cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận và vô số những chứng nhân thầm lặng khác, người ta mới lãnh hội được chiều sâu đích thực của đời sống Thánh Thể nơi các tín hữu.

Đời sống Kitô hữu phải múc lấy nguồn mạch thiêng liêng từ nơi Thánh Thể mỗi ngày hay mỗi tuần để rồi trở về với cuộc sống đời thường, ngõ hẫu sống một “Thánh Lễ nối dài”.  

Trong chiều hướng đó, Giáo Hội bắt buộc các tín hữu phải tham dự Thánh Lễ ít nhất vào mỗi Chúa nhật để Thánh Thể luôn được hiện thực và tiếp nối trong cuộc sống thường nhật ngõ hầu “đời ta là một thánh lễ nối dài” trong những thuận cảnh cũng như nghịch cảnh, nhằm gặp gỡ Chúa Giêsu khắp mọi nẻo đường trần thế, như được trình bày qua “tâm tình chia sẻ” dưới đây của một bạn trẻ từ “Ðại Hội Giới Trẻ 117 tại NewYork” trước đây: 

Lạy Chúa Giêsu!

Xin cho con một tâm hồn theo hình ảnh tấm Bánh Thánh

Một tâm hồn trong trắng,

cố tránh cả những ô uế nhỏ mọn để luôn xứng đáng với Chúa.

Một tâm hồn khiêm hạ,

Tìm chiếm chổ nhỏ bé, nhưng luôn luôn muốn bày tỏ một tình yêu lớn lao,

Một tâm hồn đơn sơ,

Không biết đến phức tạp của ích kỷ và tìm hiến dâng mà không đòi lại.

Một tâm hồn lặng lẽ,

Hạnh phúc khi thấy sự quãng đại của mình không được người khác biết đến.

Một tâm hồn nghèo khó,

Chỉ làm giàu cho chính mình nhờ chiếm được chính Chúa.

Một tâm hồn hướng về tha nhân,

quan tâm đến những nhu cầu và ước muốn của họ.

Một tâm hồn luôn kết hiệp với Chúa

và múc lấy nguồn sống từ nơi Chúa.                 

(Vancouver B.C. Canada 19-7-2008)

Tác giả: Nhà Văn Hương Vĩnh

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!