Trần Xuân Thời
Nói đến sứ mệnh là nói đến trách nhiệm thiêng liêng mà Thiên
Chúa đã mật truyền cho mỗi giáo hữu khi được thánh tẩy bằng nước và ơn Thánh
Linh. Về thể chất, phép bí tích Rửa Tội cho phép chúng ta trở thành công dân
nước Chúa; về tinh thần, tâm hồn của chúng ta nghiễm nhiên trở thành đền thờ
nơi Chúa ngự.
Được nhập tịch vào nước Chúa là một ƠN HUỆ mà mỗi giáo hữu, dù ý
thức được hay không, được hưởng suốt cuộc đời vì như Chúa đã nói “Thầy sẽ ở với
chúng con cho đến ngày tận thế” (Mt 28:20). Khi nhận lãnh ân sủng Rửa tội,
chúng ta được giao phó một NGHĨA VỤ quan trọng “Chúng con phải đi khắp thế gian
rao giảng tin mừng cứu chuộc cho mọi loài thụ tạo ”. (Mk l6:15)
Chúa đã tuyển chọn chúng ta làm công dân nước Chúa và mời gọi
chúng ta vào làm vườn nho cho Ngài. Vườn nho đây là nhân loại mà chúng ta là
những thợ làm vườn. Nghĩa là chúng ta có sứ mệnh mang ánh sáng phúc âm đến cho
muôn dân thiên hạ để họ biết và thờ phượng Chúa. Làm như vậy, chúng ta đem “đạo
vào đời” nhằm mục đích thi hành sứ mệnh, tiếp nối công trình cứu chuộc mà Chúa
Giêsu đã thực hiện bằng cách tự hiến tế lễ mình trên cây Thập giá để chuộc tội
cho nhân loại.
Tiếp nối công trình cứu chuộc của Chúa là nhiệm vụ thiêng liêng
và cao cả của mỗi giáo hữu. Có lẽ trong cuộc sống hằng ngày, nhiều người chưa
am hiểu sứ mệnh cao trọng này và cứ đinh ninh rằng biết Chúa, kinh nguyện khuya
sớm, xưng tội, rước lễ là đã làm tròn nhiệm vụ cao quý của một giáo hữu.
Thật ra, biết đạo và giữ đạo như vậy, chúng ta đã làm bổn phận
căn bản và sơ khởi của người giáo hữu. Giữ đạo có khi vì tự ý, có khi vì luật
buộc, sợ phạm tội vì không tuân luật Hội Thánh. Nếu giữ đạo vì luật buộc thì
giữ đạo có tính cách thụ động, ngoài ra không biết gì đến công tác tông đồ giáo
dân. Phương cách giữ đạo này chưa thoát ra khỏi tình trạng mà Thánh Phaolô gọi
là giữ đạo “như trẻ em”, nghĩa là tưởng rằng sứ mệnh truyền giáo, sứ mệnh tông
đồ, là sứ mệnh của các Linh Mục và Tu sĩ nam, nữ.
Vì thế, biết đạo và giữ đạo chỉ là thực hiện nhiệm vụ căn bản
của một giáo hữu. Muốn trở thành người công giáo toàn diện, chúng ta cần phải
học đạo. Học đạo là phương thế duy nhất để am hiểu Thánh ý Chúa, mặc dù thời
gian và phương tiện thì có hạn mà sự học thì vô cùng. Có học rồi mới biết kiến
thức mình chưa đủ, càng học hỏi chúng ta càng thấy mình thiếu thốn. Lý do là
càng nghiên cứu học hỏi, chúng ta càng nhận thấy ý nghĩa của các lớp giáo lý
căn bản, các giới luật, điều răn và kinh nghĩa chỉ là những viên đá căn bản, có
tính cách cô đọng và có khi bất di bất dịch. Giới răn, và kinh nghĩa không bao
gồm hoặc thể hiện được đầy đủ sự biến chuyển của chủ trương đường lối của Giảo
Hội trong sứ mệnh truyền thông thánh ý của Chúa. Vì vậy cứ 50 năm hay 100 năm Hội
Thánh tổ chức Công Đồng để bổ túc và canh tân hướng tiến của Giáo hội.
Nhiều người vẫn chủ quan cho rằng mình đã biết hết giáo lý căn
bản và không cần học hỏi thêm khiến cho tâm hồn và trí tuệ mình bị phong toả,
hay bị tẩm liệm vào cách thế hành đạo theo phương thức có truyền. Họ chỉ biết
các bổn phận căn bản mà thiếu sự cập nhật hoá kiến thức về “Sứ mệnh rao
truyền Phúc Âm và Thánh hóa nhân loại, và đào tạo cho con người một lương tâm
Công Giáo đích thực để họ có thể đem tinh thần Phúc Âm thấm nhuần mọi người và
mọi sinh hoạt của đời sống”. (Apostolicam Actuositatem).
Vả lại con cái của thế gian khôn lanh hơn con cái của thiên
đàng, không nghiên cứu, học đạo thì làm sao có đủ kiến thức dùng làm hành trang
thực hiện công tác hành đạo mà Chúa đã uỷ nhiệm cho chúng ta: “Chúng
con hãy đi rao giảng Phúc Âm cho mọi loài thị tạo”.
“Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Phúc Âm” (1Cor
9:16) vì nhân thế thì đông mà người rao giảng thì ít “Lúa chín đầy đồng, mà
thiếu thợ gặt.”
Rao Giảng không phải chỉ là nhiệm vụ các vị thừa sai mà còn là
nhiệm vụ của mỗi giáo hữu.
Nếu mọi giáo hữu trong cuộc đời mình, thánh hoá được một người
để họ nhận biết ơn cứu độ và tôn thờ phượng Chúa thì chẳng bao lâu thế giới sẽ
được thánh tẩy. Đừng để Chúa phải nhắc nhở chúng ta “Tại sao các con đứng
đây suốt ngày mà chẳng làm gì hết?”
Vai trò của mỗi giáo dân trong công tác rao giảng Phúc Âm đã
được Chúa minh định là bao gồm ba vai trò hay chức vụ chính: Tư tế, Rao Giảng
và Vương Giả
Khi được rửa tội, chúng ta đã được rửa trong Chúa Kitô và được
mặc lấy chính Đức Kitô, và lắng nghe tiếng Chúa còn như văng vẳng bên tai “Con
là con yêu dấu rất đẹp lòng ta” (Lk 3:22).
Chúng ta đã được lột xác và trở thành con người mới, trở thành “Đền
thờ thiêng liêng nơi Chúa ngự”, và đồng thời Chúa “sai chúng ta đem tin
mừng cho kẻ nghèo khổ, loan tin giải phóng cho kẻ bị cầm tù, đem sự sáng cho kẻ
đui mù, đem tự do cho kẻ bị áp bức..”
Chúng ta đã được tham gia vào chức vụ Tư Tế vì ngày trước chỉ có Vua và
Tư Tế mới được xức dầu. Khi được xức dầu chúng ta đã được tham gia vào chức
năng Tư Tế. Tư Tế là trách vụ mà Chúa Giêsu đã dùng để tự hiến tế chính mình
trên cây thánh giá và còn tiếp tục hiến tế trong nghi lễ phép Thánh Thể hằng
ngày để vinh danh Đức Chúa Cha và tiếp tục công trình cứu rỗi nhân loại.
Là giáo dân, chúng ta thi hành trách vụ Tư Tế bằng cách
hiến dâng cách riêng những điều chúng ta nghĩ, những việc chúng ta làm, cách
sống đạo, hành đạo (action) hằng ngày. Tất cả những việc chúng ta làm trở thành
của lễ thiêng liêng làm đẹp lòng Chúa. “Như thế người giáo dân thanh hiến cho
Thiên Chúa chính cả trần gian này. Nhờ lòng phụng thờ Chúa khắp mọi nơi bằng
một đời sống thánh thiện.”
Trách vụ Rao Giảng đã uỷ nhiệm cho chúng ta năng cách làm chứng nhân của Chúa
trên thế gian này. Chúng ta hành động như men dậy từ bên trong, thánh hoá thế
giới bằng cách “đem ánh sáng Phúc Âm đến cho mọi người, bằng chứng tá của
một đời sống sáng chói Đức Tin, Đức Cậy và Đức Mến.”
Để thi hành, chức vụ rao giảng, chúng ta không những ôn lại hết
kinh nghĩa căn bản mà còn học hỏi (study) để quán triệt chủ trương đường lối
hay triết lý hành động của Giáo Hội. Chủ trương của Giáo hội không có tính cách
tĩnh như các giới răn mà có tính cách linh động, biến chuyển theo dấu chỉ của
thời gian (signs of time), theo đà tiến hoá của nhân loại về mọi khía cạnh sinh
hoạt như văn hoá, xã hội, kinh tế, chính trị… dựa trên những giá trị bất di bất
dịch của Kinh Thánh là mến Chúa và yêu người.
Chủ trương và đường lối thường được thể hiện trong các văn kiện,
các Hiến Chế hay Tông Huấn mà chúng ta có nhiệm vụ phải học hỏi, nghiên cứu để
trở thành những “viên đá sống động” xây dựng Giáo Hội.
Chúng ta có thể giữ đạo một cách tiêu cực, nghĩa là giữ các giới
răn Đức Chúa Trời và các luật điều Hội Thánh ... các giáo lý căn bản nghĩa là
đủ để gọi là “Giữ Đạo”. Nhưng giữ đạo như thế được Cộng Đồng Vatican II coi như
là giữ đạo một cách thụ động, chỉ biết lo cho bản thân mình được cứu rỗi mà lơ
là nhiệm vụ tông đồ giáo dân nhằm thánh hoá muôn dân, hoặc thiếu sự “hăng say”
vào làm Vườn nho cho Chúa.
Người giáo dân toàn diện phải đi từ thái độ Tu Thân, Tề Gia, Trị
Quốc đến sứ mệnh Bình Thiên Hạ.
Tu Thân là giai đoạn tiên khởi, hành xử nghĩa vụ công dân của
nước Chúa, biết đạo và giữ đạo. Tuân giữ các giáo lý căn bản trong cuộc sống
thường nhật, có thể được gọi là “mộ đạo” nhưng vẫn còn nằm trong tình trạng trì
trệ “dậm chân tại chổ”.
Chúng ta phải vượt ra khỏi giai đoạn tiên khởi này và tiến đến
giai đoạn thánh hoá cá nhân bằng cách nghiên cứu học hỏi các chủ trương đường
lối của Giáo Hội, các Hiến Chế, Tông Đồ Mục Vụ của Giáo Hội đế mở mang trí tuệ
hầu có đủ khả năng “mở miệng dạy kẻ mê muội” hoặc dấn thân vào “việc truyền
giảng giáo lý, trao đổi khả năng sư phạm trong việc đào tạo người Kitô hữu.”
Trong diễn tiến thánh hoá cá nhân hay tu thân, chúng ta phải tề
gia để biến gia đình trở nên gia đình Thánh Thiện. Chúng ta có nhiệm vụ giáo
huấn con cái để chuẩn bị cho chúng trở thành những giáo dân gương mẫu cho gia
đình, Cộng Đồng và Giáo Hội.
Tu thân để trở thành cá nhân sáng suốt sống giữa trần thế, chuẩn
bị dấn thân vào mọi nghĩa vụ và công tác của trần thế. Liên hệ gia đình là
nguồn gốc phát sinh những liên hệ xã hội. Trong được ấm, ngoài được êm.
Mỗi giáo dân có một vị thế thần
học ở trần thế. Cuộc sống của mỗi giáo hữu
không chỉ là một chuỗi những biến cố nhân sinh xã hội, mà còn phản ảnh một
“thực tại chuyên biệt thần học” giữa thế trần. Thần học ở đây bao hàm ý nghĩa
là mỗi giáọ hữu hiện hữu giữa thế trần với một sức sống thần bí đầy ơn gọi
thiêng liêng, và sứ mệnh cao cả mà Chúa đã ban cho mỗi giáo dân khi chịu phép
rửa tội. Ơn gọi thiêng liêng và thần bí này chỉ mỗi giáo dân tự chính mình cảm
nghiệm được nhân cách thiêng liêng và cao trọng mà Chúa đã mặc khải, với sự giúp
sức của Chúa Thánh Thần mà người ngoại đạo không linh cảm được. Tính cách thần
học về vị thế mỗi giáo hữu trong trần thế thôi thúc chúng ta:
Phải nên thánh trong mọi tác phong của mình.
Những lời chúng ta nói, những việc chúng ta làm đều phải thực
hiện với danh nghĩa Đức Giêsu Kitô. ” Whatever you do, do to the glory of God”.
Vị thế nghĩa vụ cá nhân thiêng liêng đến nổi chúng ta “không được để công
việc gia đình và trần thế lấn át đời sống thiêng liêng của mình.”
Chúng ta thường nghe câu chuyện một vị Thánh đi tìm hiểu mầu
nhiệm Đức Chúa Trời Ba Ngôi, gặp một em bé đang cố công múc nước biển đổ vào
cát, vị Thánh bảo cậu bé không nên làm việc vô ích vì nước sẽ thấm qua cát và
lại chảy ra biển. Cậu bé trả lời đổ nước vào cát vẫn có ích hơn là việc đi tìm
hiểu Đức Chúa Trời Ba Ngôi vì mầu nhiệm này vượt ra ngoài trí tuệ của con
người. Do đó, tu thân bằng cách học hỏi, cần phải được bồi dưỡng trí tuệ bằng
lời cầu nguyện, vì có những vấn đề vượt ra ngoài khả năng lãnh hội của trí tuệ
con người nếu không được Thánh Linh giúp sức hầu chúng ta có thể vững tâm và
được vũ trang tinh thần đầy đủ đế tiếp nối công trình của Chúa cứu thế nhằm:
“Cứu rỗi con người và canh tân trật tự thế giới.”
Sau khi tu luyện tinh thần, người “Quân Tử vụ bản” để tu thân và
tề gia. Trị Quốc là giai đoạn kế tục nhằm phát triển vai trò của người giáo
hữu, vượt ra ngoài bản thân và gia đình để phụng sự Cộng Đồng Dân Chúa. Cộng
Đồng Dân Chúa được thể hiện qua các Giáo Hội địa phương: Giáo phận và Giáo Xứ.
Giáo xứ là tiểu vũ trụ và Giáo Hội thế giới là đại vũ trụ. Về
phương diện vật lý, các tiểu vũ trụ kết hợp thành đại vũ trụ, nhưng trên bình
diện tinh thần, Giáo hội thế giới không phải là tổng số các Giáo xứ địa phương
hợp lại, mà chính Giáo Hội hoàn vũ thế hiện và hiện hữu trong các giáo xứ địa
phương và "Giáo hội địa phương được hình thành theo hình ảnh của Giáo
hội hoàn vũ”. Trong quan niệm này, chúng ta có thể nói mỗi giáo hữu là một
giáo hội.
Trong thời kỳ cách mạng Nga bùng nổ một số thánh đường bị phá
hủy và giáo hội địa phương bị giải tán. Một hôm, có một em bé sáng sớm hăm
hở đi đến thánh đường. Trên đường đi, em bé gặp một anh lính gác hỏi em đi đâu
mà sớm thế, em bảo đi đến nhà thờ. Người lính tuần canh trố mắt nhìn em mà bảo
nhà thờ đã bị phá hủy và giáo hội đã bị giải tán. Em bé lắc đầu nói với người
lính tuần canh “Ông lầm rồi giáo hội không thể bị giải tán, vì tôi là Giáo
Hội”. Trong lúc người lính tuần canh còn ngẩn ngơ vì câu trả lời có tính
cách xác quyết, em bé vẫn xăm xăm tiến đến vị trí ngôi thánh đường đổ nát.
Mỗi Giáo xứ là “một gia đình của Chúa, một cộng đoàn đầy tình
huynh đệ, chỉ có một linh hồn” (Lumen Gentium). Hay nói khác đi, Giáo xứ là
một Cộng Đồng Thánh Thể, có năng cách cử hành Bí Tích Thánh Thể, một Cộng Đồng
Đức Tin.
Đức Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục đã tuyên bố với hàng giáo sĩ Rôma:
“Ta tin tưởng là cơ cấu cổ kính của giáo xứ có một sứ mệnh khẩn thiết rất hợp
thời. Chính giáo xứ là cộng đồng tiên khởi của dân Chúa. Chính giáo xứ đã khai
trương đời sống phụng vụ và tập hợp dân Chúa . . . Giáo xứ có bổn phận phải bảo
tồn và nung nấu đức tin. Giáo xứ còn là trường dạy dỗ giáo lý cứu rỗi của Chúa
Kitô. Giáo xứ là nơi tích cực thực thi các công tác bác ái huynh đệ”.
Giáo xứ là một hình thức cộng đồng kiểu mẫu, mà mỗi giáo hữu có
nhiệm vụ cùng nhau góp ý kiến để cứu xét và giải quyết các vấn đề liên quan đến
giáo xứ. Giáo xứ là căn nhà mở rộng đón tiếp mỗi giáo hữu và phục vụ mỗi giáo
hữu, như là “giếng nước của thôn xóm” đế mọi người đến giải khát.
Giáo dân là nguồn mạch làm cho giáo xứ ngày càng thêm phong phú.
Vì mỗi giáo dân là một “hữu thể cá biệt không thay thế được”. Mỗi giáo
dân có sở trường và sở đoản, có những khả năng về nhiều khía cạnh khác nhau:
Người thì có lợi khẩu, người thì có óc quản trị; am hiểu tinh tường chủ trương
đường lối của Hội Thánh, người thì chuyên cần bếp núc, giữ sạch sẽ thánh đường,
người thì giỏi về thánh nhạc, báo chí... mỗi cá nhân chứa đựng nhiều kho tàng
phong phú.
Tuy nhiên phải hiểu rằng mỗi cá nhân là một tiểu vũ trụ, do đó,
đôi khi có sự dị biệt về tư tưởng và hành động. Là người giáo hữu chân chính,
chúng ta cần phải truyền thông cho nhau sự dị biệt trong tình yêu thương và
tương trợ.
Giáo hữu phải tạo nên thói quen, trình bày cho phong trào, cho
cộng đoàn quan điểm riêng của mình về cách thế quản trị và phát triển cộng
đoàn, để cùng nhau nghiên cứu và tìm ra phương thức hoà đồng trong tình yêu
Thiên Chúa.
Với tinh thần xây dựng và cởi mở chúng ta có thể giải quyết thỏa
đáng mọi nhu cầu chính đáng của giáo dân và của giáo xứ. Chỉ có cách này chúng
ta mới có thể được gọi là “một phần thân thể” của giáo xứ, hay là “phần thân
thể” của Chúa Giêsu, vì người là thân cây nho mà chúng ta là cành. Không sống
trọn lành theo Thánh ý Chúa, chẳng khác nào như cành nho khô “sẽ bị cắt bỏ,
ném vào lửa và đốt đi”.
Trong giáo xứ, mỗi người có nhiệm vụ nâng đỡ những người khác để
tương trợ và sự rao giảng đức tin ngày càng thêm trọn vẹn.
Người giáo dân phải tôn trọng, trong tình nghĩa phụ tử, đối với
vị chủ chăn, vị chủ chăn “là nguyên lý hiển hiện và là nền móng của sự hợp
nhất”
Sự kết hợp là yếu tố căn bản để thực thi trọn vẹn ân sủng của
Chúa. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ nhị đã nói: “Để xây dựng chắc chắn ngôi
nhà chung, chúng ta phải khước từ óc chia rẽ, bè phái; ngược lại chúng ta phải
tôn trọng và sẵn sàng cộng tác với nhau bằng một tâm hồn nhẫn nại, sáng suốt và
sẵn sàng hy sinh”.
Tinh thần kết hợp chỉ có thể phát triển được trong những tâm hồn
lành mạnh, có ý chí sáng suốt và quyết tâm làm lành, lánh dữ, mới thắng lướt
được những sự cám dỗ.
Cám dỗ thứ nhứt làm băng hoại tình đoàn kết là óc tự kiêu căng
và chủ quan, nghĩ mình luôn luôn tài giỏi và luôn luôn đúng mà đóng cửa tâm
hồn, không hề nghe, hoặc học hỏi được ý kiến của người khác, khiến cho công tác
phát triển bị trì trệ.
Cám dỗ thứ hai là ý chí lười biếng, không cầu tiến và không phấn
đấu để thắng sự chia rẻ, không chịu suy tư và lắng nghe nguyên nhân của các đề
nghị hay có tinh thần chống đối lại các sáng kiến, nghĩa là “thiếu ánh sáng
của sự thông hiệp”.
Thánh Phaolô cũng đã than “Ta nghe mỗi người trong anh em
nói: Tôi thuộc về Apôllô, còn tôi thuộc về Cepha, và tôi thuộc về Chúa Kitô,
thế thì Chúa Kitô bị chia năm sẻ bảy hay sao?” (Cor 1: 12-13).
Hay nói khác đi nhiệm thể của Chúa bị xâu xé. Thánh Phaolô trong
bức thư gửi tín hữu thành Côrintô đã nhắn nhủ “Nhân danh Thiên Chúa chúng ta là
Đức Giêsu Kitô, tôi nài xin toàn thể anh em hãy nhất tâm đừng chia rẽ, nhưng
hãy hợp nhất và đoàn kết với nhau trong tinh thần và trong tư tưởng”.
Sau giai đoạn tu thân, tề gia, trị quốc, chúng ta phải tiến đến
công tác bình thiên hạ, nghĩa là nỗ lực “làm cho ý định cứu độ của Thiên
Chúa ngày càng lan rộng tới tất cả mọi người, ở mọi nơi và mọi thời đại”.
(Lumen Gentium).
Hai nhiệm vụ chính mà người tín hữu giáo dân phải thực hiện đối
với nhân thế là:
1) Rao truyền Phúc Âm để Thánh hóa nhân loại, và đào tạo con
người một lương tâm Công Giáo đích thực để họ có thể đem tinh thần Phúc Âm thấm
nhuần mọi cộng đồng cũng như mọi lĩnh vực của đời sống.
2) Canh tân trật tự thế giới.
Hai nhiệm vụ này đòi hỏi người giáo hữu tinh thần tích cực, sáng
suốt, làm sáng tỏ cái chí nhân, chí thiện của mình, trao đổi kiến thức rộng rãi
trong sứ mệnh truyền bá Phúc Âm theo tinh thần mới vì
“Giáo hội không thể tránh né sứ mệnh thường trực của mình là
đem Phúc Âm đến cho từng triệu người cả nam lẫn nữ chưa nhận biết Chúa, đấng
cứu rỗi con người”vì chúng ta có sứ mệnh phải đi khắp thế giới để rao giảng
tin mừng, người giáo hữu cũng mang nặng sứ mệnh như những chiến sĩ ở tiền
tuyến.
Chúng ta phải luôn luôn sẵn sàng, chiến đấu với tội ác, võ trang
tinh thần với đức tin và triết lý hành động của Giáo hội, như các vị thiền sư
đắc đạo phải thụ huấn võ công thâm hậu trước khi xuống núi. Chúng ta phải dự
trữ dầu cho ngọn đuốc soi đường cho nhân thế “như những cô dâu khôn ngoan mang
theo dầu dự trữ để đón chàng rể quý”.
Chúng ta hoạt động khắp nơi giữa những người theo các tín ngưỡng
khác nhau. Thực trạng nầy đòi hỏi chúng ta sự hiểu biết tín điều của các tôn
giáo khác và tinh thần tế nhị, tương kính, mới có thể khơi mồi cho sự đối
thoại, từ đó mới có thể thông cảm và tạo cơ hội cải hoá được tha nhân. Muốn
vậy, chúng ta phải “nên thánh trong mọi tác phong của mình” và học hỏi
thêm Tông Huấn “Veritatis Splendor” ( Ánh Sáng Chân Lý) của ĐGH Gioan Phaolô đệ
Nhị, ban hành vào tháng 8/1993, có đoạn bàn về quan niệm của Giáo hội về thân
phận của những người ngoại giáo (pagans).
Cơ hội được cứu rỗi của Chúa dành cho mọi người kể cả dân ngoại.
Những người không phải vì lỗi của họ, không được biết Thiên Chúa hay Giáo hội
của Người, cũng có thể được cứu rỗi nếu họ thật lòng tìm kiếm Thiên Chúa và
thực thi Thiên mệnh được linh ứng qua biểu hiện của lương tâm chính trực.
“Those who without any fault do not know anything about
Christ or his Church, yet who search for God with a sincere heart and
under the influence of grace, try to put into effect the will of God as known
to them through the dictate of conscience… can obtain eternal
salvation”(Veritatis Splendor 3).
“Những ai vô tình không biết gì về Chúa
Kitô hay Giáo hội của Người, nhưng tìm kiếm Thiên Chúa với tấm lòng chân thành
và dưới sự tác động của ân sủng, cố gắng thực hiện ý muốn của Thiên Chúa như họ
biết qua sự mách bảo của lương tâm… có thể đạt được sự cứu rỗi đời đời”
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II vào đầu tháng 11 năm 1999, trong cuộc viếng
thăm Ấn Độ, đã công bố Tông Huấn: Giáo Hội tại Á Châu (Ecclesia In
Asia ) đã phát
biểu “ Giáo hội tỏ lòng cung kính và ngưỡng mộ tất cả truyền thống tinh thần
của các Tôn Giáo Á Châu và muốn dấn thân trong
cuộc đối thoại chân thành với các tín hữu của các tôn giáo. Những giá trị tôn
giáo mà các đạo giáo dân gian giảng dạy đang chờ đón sự viên mãn
trong Đức Giêsu Kitô”.
“Asia is also the cradle of the world's major
religions—Judaism, Christianity, Islam and Hinduism. It is the birthplace of
many other spiritual traditions such as Buddhism, Taoism, Confucianism,
Zoroastrianism, Jainism, Sikhism and Shintoism. Millions also espouse
traditional or tribal religions, with varying degrees of structured ritual and
formal religious teaching. The Church has the deepest respect for these traditions
and seeks to engage in sincere dialogue with their followers. The
religious values they teach await their fulfilment in Jesus Christ.
Tông huấn Veritatis Splendor và
Tông thư Ecclesia in Asia giúp chúng am hiểu thêm các phương cách cứu rỗi tiềm ẩn
trong tín lý “Ngoài Giáo hội, không có sự cứu rỗi- Extra
Ecclesiam, nulla salus” và “ No one can enter the Kingdom of God unless he is
first born of water and Spirit. (Jn 3:5).
Từ thuở tạo thiên lập địa, từ Đông
chí Tây, từ Nam chí Bắc, con ngươi đã tin vào một Đấng Tạo
Hóa toàn năng, là đệ nhất tác
nhân, (First agent) tạo nên muôn loài và vũ trụ. (St. Thomas Aquino, Tổng
Luận về Thần học- Summa Theologiae). Chúa nội tại
(immanent) ở trong vạn vật và trong nội tâm hay
lương tri của mỗi người nên trên bình
diện tự nhiên, Chúa
đã hiện hữu trong tâm trí họ rồi.
Với “Tình nhân loại hổ tương và bác ái
cộng đồng cố hữu của Công giáo được nới rộng. Đặc tính nầy đã gây ảnh hưởng lớn lao khiến cho dân chúng của các dân tộc dị
giáo và công dân La Mã đã trở lại Thiên
Chúa Giáo, kể cả Hoàng Đế La Mã
Constantine (306-337 AD) đã trở lại đạo, khiến cho Thiên Chúa Giáo trở thành quốc
giáo của Đế Quốc La Mã vào thế kỷ thử 4 sau Công nguyên. “It was the Christian spirit of
mutual love and communal charity that astonished and impressed the pagans and
the Romans”
Sự hiện hữu của các giáo dân trong các tổ chức văn hoá, kinh tế,
xã hội, chính trị…là bước khởi đầu cho công cuộc thánh hoá. Sự tham gia vào các
tổ chức phải đặt trên căn bản thánh thiện, nhằm mục đích phục vụ phúc lợi
chung, tránh vấn đề ủng hộ hay phản đối mù quáng. Không sinh hoạt vì phe phái
mà quên rằng thiên hạ đang nhìn mình như là một chi thể của giáo hội, xử thế
không đúng cách sẽ bị xem như “cành nho héo, sẽ bị thiên hạ bỏ vào lửa mà
đốt đi”. (Jn. 6:16)
Để hỗ trợ mọi giáo dân chu toàn trách vụ truyền bá Phúc Âm, Cộng
Đồng Vatican II “đã khuyến khích người Kitô hữu nên chu toàn công tác trần
thế một cách nhiệt tình, trung tín và vâng theo tinh thần Phúc Âm…”.
Nhiệm vụ cải tiến trật tự xã hội bao gồm trong triết lý xã
hội của Giáo Hội Công Giáo, nhằm quảng bá công bình, bác ái và phát triển, canh
tân mọi hoạt động về văn hoá, xã hội, kinh tế, chính trị thế giới như Đức Giáo
Hoàng Lêô thứ 13, ngày 15 tháng 5, năm 1891, đã hoạch định
qua Tông Huấn “ Rerum Novarum” mà ngày nay, đúng 134 năm sau, Đức Giáo
Hoàng Lêô 14 vừa được ấn phong vào tháng 5 năm 2025 sẽ tiếp tục hoằng
dương công tác canh tân xã hội cho nhân thế.
Do đó, không thể nói Công Giáo lơ là với lập trường chính trị,
mà Công Giáo là đạo nhập thế, hiện hữu trong mọi sinh hoạt của thế trần để mưu
cầu phúc lợi chung cho nhân loại.
Tóm lại, người tín hữu giáo dân phải thể hiện đức hạnh trong đời
sống cá nhân, đời sống gia đình, và trong công tác phụng sự Giáo Xứ, Giáo Hội.
Chúng ta có nhiệm vụ nêu cao tinh thần kết hợp, phát triển tình huynh đệ đại
đồng, xây dựng thế giới ngày càng hưng thịnh trong tự do, thanh bình và no ấm.
Chúng ta thực thi sứ mệnh cao cả mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho chúng ta là làm
cho ý định cứu độ của Thiên Chúa ngày càng lan tới tất cả mọi người, ở mọi nơi
và mọi thời đại.
Trần Xuân Thời
Cursillo 205, Marywood, Orange Diocese, CA, USA, 26 tháng 7, năm
1990