Trần Xuân Thời
Nói đến sứ mệnh là nói
đến trách nhiệm thiêng liêng mà Thiên Chúa đã mật truyền cho mỗi giáo hữu khi
được thánh tẩy bằng nước và ơn Thánh Linh. Về thể chất, phép bí tích Rửa Tội
cho phép chúng ta trở thành công dân nước Chúa; về tinh thần, tâm hồn của chúng
ta nghiễm nhiên trở thành đền thờ nơi Chúa ngự.
Được nhập tịch vào nước
Chúa là một ƠN HUỆ mà mỗi giáo hữu, dù ý thức được hay không, được hưởng suốt
cuộc đời vì như Chúa đã nói “Thầy sẽ ở với chúng con cho đến ngày tận thế” (Mt 28:20).
Khi nhận lãnh ân sủng Rửa tội, chúng ta được giao phó một NGHĨA VỤ quan trọng
“Chúng con phải đi khắp thế gian rao giảng tin mừng cứu chuộc cho muôn dân thiên
hạ”. (Mk l6:15)
Chúa đã tuyển chọn
chúng ta làm công dân nước Chúa và mời gọi chúng ta vào làm vườn nho cho Ngài.
Vườn nho đây là nhân loại mà chúng ta là những thợ làm vườn. Nghĩa là chúng ta
có sứ mệnh mang ánh sáng phúc âm đến cho muôn dân thiên hạ để họ biết và thờ
phượng Chúa. Làm như vậy, chúng ta đem “đạo vào đời” nhằm mục đích thi hành sứ
mệnh, tiếp nối công trình cứu chuộc mà Chúa Giêsu đã thực hiện bằng cách tự hiến
tế lễ mình trên cây Thập giá để chuộc tội cho nhân loại.
Tiếp nối công trình cứu
chuộc của Chúa là nhiệm vụ thiêng liêng và cao cả của mỗi giáo hữu. Có lẽ trong
cuộc sống hằng ngày, nhiều người chưa am hiểu sứ mệnh cao trọng này và cứ đinh ninh
rằng biết Chúa, kinh nguyện khuya sớm, xưng tội, rước lễ là đã làm tròn nhiệm vụ
cao quý của một giáo hữu.
Thật ra, biết đạo và giữ
đạo như vậy, chúng ta đã làm bổn phận căn bản và sơ khởi của người giáo hữu. Giữ
đạo có khi vì tự ý, có khi vì luật buộc, sợ phạm tội vì không tuân luật Hội
Thánh. Nếu giữ đạo vì luật buộc thì giữ đạo có tính cách thụ động, ngoài ra
không biết gì đến công tác tông đồ giáo dân. Phương cách giữ đạo này chưa thoát
ra khỏi tình trạng mà Thánh Phaolô gọi là giữ đạo “như trẻ em”, nghĩa là tưởng
rằng sứ mệnh truyền giáo, sứ mệnh tông đồ, là sứ mệnh của các Linh Mục và Tu sĩ
nam, nữ.
Vì thế, biết đạo và giữ
đạo chỉ là thực hiện nhiệm vụ căn bản của một giáo hữu. Muốn trở thành người
công giáo toàn diện, chúng ta cần phải học đạo. Học đạo là phương thế duy nhất
để am hiểu Thánh ý Chúa, mặc dù thời gian và phương tiện thì có hạn mà sự học
thì vô cùng. Có học rồi mới biết kiến thức mình chưa đủ, càng học hỏi chúng ta càng
thấy mình thiếu thốn. Lý do là càng nghiên cứu học hỏi, chúng ta càng nhận thấy
ý nghĩa của các lớp giáo lý căn bản, các giới luật, điều răn và kinh nghĩa chỉ
là những viên đá căn bản, có tính cách cô đọng và có khi bất di bất dịch. Giới
răn, và kinh nghĩa không bao gồm hoặc thể hiện được đầy đủ sự biến chuyển của
chủ trương đường lối của Giảo Hội trong sứ mệnh truyền thông thánh ý của Chúa.
Vì vậy cứ 50 năm hay 100 năm Hội Thánh tổ chức Công Đồng để bổ túc và canh tân
hướng tiến của Giáo hội.
Nhiều người vẫn chủ
quan cho rằng mình đã biết hết giáo lý căn bản và không cần học hỏi thêm khiến
cho tâm hồn và trí tuệ mình bị phong toả, hay bị tẩm liệm vào cách thế hành đạo
theo phương thức có truyền. Họ chỉ biết các bổn phận căn bản mà thiếu sự cập nhật
hoá kiến thức về “Sứ mệnh rao truyền Phúc
Âm và Thánh hóa nhân loại, và đào tạo cho con người một lương tâm Công Giáo
đích thực để họ có thể đem tinh thần Phúc Âm thấm nhuần mọi người và mọi sinh
hoạt của đời sống”. (Apostolican Actuosiatem).
Vả lại con cái của thế
gian khôn lanh hơn con cái của thiên đàng, không nghiên cứu, học đạo thì làm
sao có đủ kiến thức dùng làm hành trang thực hiện công tác hành đạo mà Chúa đã
uỷ nhiệm cho chúng ta: “Chúng con hãy đi
rao giảng Phúc Âm cho muôn dân thiên hạ”.
“Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Phúc Âm” (1Cor 9:16) vì nhân
thế thì đông mà người rao giảng thì ít “Lúa chín đầy đồng, mà thiếu thợ gặt.”
Rao Giảng không phải chỉ
là nhiệm vụ các vị thừa sai mà còn là nhiệm vụ của mỗi giáo hữu.
Nếu mọi giáo hữu trong
cuộc đời mình, thánh hoá được một người để họ nhận biết ơn cứu độ và tôn thờ
phượng Chúa thì chẳng bao lâu thế giới sẽ được thánh tẩy. Đừng để Chúa phải nhắc nhở chúng ta “Tại sao
các con đứng đây suốt ngày mà chẳng làm gì hết?”
Vai trò của mỗi giáo dân
trong công tác rao giảng Phúc Âm đã được Chúa minh định là bao gồm ba vai trò
hay chức vụ chính: Tư tế, Rao Giảng và Vuơng Giả
Khi được rửa tội, chúng
ta đã được rửa trong Chúa Kitô và được mặc lấy chính Đức Kitô, và lắng nghe tiếng
Chúa còn như văng vẳng bên tai “Con là
con yêu dấu rất đẹp lòng ta” (Lk 3:22).
Chúng ta đã được lột
xác và trở thành con người mới, trở thành “Đền
thờ thiêng liêng nơi Chúa ngự”, và đồng thời Chúa “sai chúng ta đem tin mừng cho kẻ nghèo khổ, loan tin giải phóng cho kẻ
bị cầm tù, đem sự sáng cho kẻ đui mù, đem tự do cho kẻ bị áp bức...”
Chúng ta đã được tham
gia vào chức vụ Tư Tế vì ngày trước chỉ có Vua và Tư Tế mới được xức dầu. Khi
được xức dầu chúng ta đã được tham gia vào chức vụ Tư Tế. Tư Tế là trách vụ mà
Chúa Giêsu đã dùng để tự hiến tế chính mình trên cây thánh giá và còn tiếp tục
hiến tế trong nghi lễ phép Thánh Thể hằng ngaỳ để vinh danh Đức Chúa Cha và tiếp
tục công trình cứu rổi nhân loại.
Là giáo dân, chúng ta thi hành trách vụ Tư Tế
bằng cách hiến dâng cách riêng những điều chúng ta nghĩ, những việc chúng ta
làm, cách sống đạo, hành đạo (action) hằng ngày. Tất cả những việc chúng ta làm
trở thành của lễ thiêng liêng làm đẹp lòng Chúa. “Như thế người giáo dân thanh
hiến cho Thiên Chúa chính cả trần gian này. Nhờ lòng phụng thờ Chúa khắp mọi
nơi bằng một đời sống thánh thiện.”
Trách vụ Rao Giảng đã uỷ
nhiệm cho chúng ta năng cách làm chứng nhân của Chúa trên thế gian này. Chúng
ta hành động như men dậy từ bên trong, thánh hoá thế giới bằng cách “đem ánh sáng Phúc Âm đến cho mọi người, bằng
chứng tá của một đời sống sáng chói Đức Tin, Đức Cậy và Đức Mến.”
Để thi hành, chức vụ
rao giảng, chúng ta không những ôn lại hết kinh nghĩa căn bản mà còn học hỏi (study)
để quán triệt chủ trương đường lối hay triết lý hành động của Giáo Hội. Chủ
trương của Giáo hội không có tính cách tĩnh như các giới răn mà có tính cách
linh động, biến chuyển theo dấu chỉ của thời gian (signs of time), theo đà tiến
hoá của nhân loại về mọi khía cạnh sinh hoạt như văn hoá, xã hội, kinh tế, chính
trị… dựa trên những giá trị bất di bất dịch của Kinh Thánh là mến Chúa và yêu
người.
Chủ trương và đường lối
thường được thể hiện trong các văn kiện, các Hiến Chế hay Tông Huấn mà chúng ta
có nhiệm vụ phải học hỏi, nghiên cứu để trở thành những “viên đá sống động” xây dựng Giáo Hội.
Chúng ta có thể giữ đạo
một cách tiêu cực, nghĩa là giữ các giới răn Đức Chúa Trời và các luật điều Hội
Thảnh ... các giáo lý căn bản nghĩa là đủ để gọi là “Giữ Đạo”. Nhưng giữ đạo
như thế được Cộng Đồng Vatican II coi như là giữ đạo một cách thụ động, chỉ biết
lo cho bản thân mình được cứu rỗi mà lơ là nhiệm vụ tông đồ giáo dân nhằm thánh
hoá muôn dân, hoặc thiếu sự “hăng say” vào làm Vườn nho cho Chúa.
Người giáo dân toàn diện
phải đi từ thái độ Tu Thân, Tề Gia, Trị Quốc đến sứ mệnh Bình Thiên Hạ.
Tu Thân là giai đoạn
tiên khởi, hành xử nghĩa vụ công dân Chúa, biết đạo và giữ đạo. Tuân giữ các
giáo lý căn bản trong cuộc sống thường nhật, có thể được gọi là “mộ đạo” nhưng
vẫn còn nằm trong tinh trạng trì trệ “dậm chân tại chổ”.
Chúng ta phải vượt ra
khỏi giai đoạn tiên khởi này và tiến đến giai đoạn thánh hoá cá nhân bằng cách
nghiên cứu học hỏi các chủ trương đường lối của Giáo Hội, các Hiến Chế, Tông Đồ
Mục Vụ của Giáo Hội đế mở mang trí tuệ hầu có đủ khả năng “mở miệng dạy kẻ mê
muội” hoặc dấn thân vào “việc truyền giảng giáo lý, trao đổi khả năng sư phạm
trong việc đào tạo người Kitô hữu.”
Trong diễn tiến thánh
hoá cá nhân hay tu thân, chúng ta phải tề gia để biến gia đình trở nên gia đình
Thánh Thiện. Chúng ta có nhiệm vụ giáo huấn con cái để chuẩn bị cho chúng trở
thành những giáo dân gương mẫu cho gia đình, Cộng Đồng và Giáo Hội.
Tu thân để trở thành cá
nhân sáng suốt sống giữa trần thế, chuẩn bị dấn thân vào mọi nghĩa vụ và công
tác của trần thế. Liên hệ gia đình là nguồn gốc phát sinh những liên hệ xã hội.
Trong được ấm, ngoài chắc phải được êm.
Mỗi giáo dân có một vị
thế thần học ở trần thế. Cuộc sống của mỗi giáo hữu không chỉ là một chuỗi những
biến cố nhân sinh xã hội, mà còn phản ảnh một “thực tại chuyên biệt thần học”
giữa thế trần. Thần học ở đây bao hàm ý nghĩa là mỗi giáọ hữu hiện hữu giữa thế
trần với một sức sống thần bí đầy ơn gọi thiêng liêng, và sứ mệnh cao cả mà
Chúa đã ban cho mỗi giáo dân khi chịu phép rửa tội. Ơn gọi thiêng liêng và thần
bí này chỉ mỗi giáo dân tự chính mình cảm nghiệm được nhân cách thiêng liêng và
cao trọng mà Chúa đã mặc khải, với sự giúp sức của Chúa Thánh Thần mà người ngoại
đạo không linh cảm được. Tính cách thần học về vị thế mỗi giáo hữu trong trần
thế thôi thúc chúng ta: Phải nên thánh
trong mọi tác phong của mình.
Những lời chúng ta nói,
những việc chúng ta làm đều phải thực hiện với danh nghĩa Đức Giêsu Kitô.” Whatever
you do, do to the glory of God”. Vị thế nghĩa vụ cá nhân thiêng liêng đến nổi
“không được để công việc gia đình và trần thế lấn át đời sống thiêng liêng của
mình.”
Chúng ta thường nghe
câu chuyện một vị Thánh đi tìm hiểu mầu nhiệm Đức Chúa Trời Ba Ngôi, gặp một em
bé đang cố công múc nước biển đổ vào cát, vị Thánh bảo cậu bé không nên làm việc
vô ích vì nước sẽ thấm qua cát và lại chảy ra biển. Cậu bé trả lời đổ nước vào
cát vẫn có ích hơn là việc đi tìm hiểu Đức Chúa Trời Ba Ngôi, vì mầu nhiệm này
vượt ra ngoài trí tuệ của con người. Do đó, tu thân bằng cách học hỏi, cần phải
được bồi dưỡng trí tuệ bằng lời cầu nguyện, vì có những vấn đề vượt ra ngoài khả
năng lãnh hội của trí tuệ con người nếu không được Thánh Linh giúp sức hầu
chúng ta có thể vững tâm và được vũ trang tinh thần đầy đủ đế tiếp nối công
trình của Chúa cửu thế nhằm:
“Cứu rỗi con người và canh tân trật tự thế giới.”
Sau khi tu luyện tinh
thần, người “Quân Tử vụ bản” để tu thân và tề gia. Trị Quốc là giai đoạn kế tục
nhằm phát triển vai trò của người giáo hữu, vượt ra ngoài bản thân và gia đình
để phụng sự Cộng Đồng Dân Chúa. Cộng Đồng Dân Chúa được thể hiện qua các Giáo Hội
địa phương, Giáo phận và Giáo Xứ.
Giáo xứ là tiểu vũ trụ
và Giáo Hội thế giới là đại vũ trụ. Về phương diện vật lý, các tiểu vũ trụ kết
hợp thành đại vũ trụ, nhưng trên bình diện tinh thần, Giáo hội thế giới không
phải là tổng số các Giáo xứ địa phương hợp lại, mà chính Giáo Hội hoàn vũ thế
hiện và hiện hữu trong các giáo xứ địa phương và "Giáo hội địa phương được hình thành theo hình ảnh của Giáo hội hoàn vũ”.
Trong quan niệm này, chúng ta có thể nói mỗi giáo hữu là một giáo hội.
Trong thời kỳ cách mạng
Nga bùng nổ một số thánh đường bị phá hủy và giáo hội địa phương bị giải tán. Một
hôm, có một em bé sáng sớm hăm hở đi đến thánh đường. Trên đường đi, em bé gặp
một anh lính gác hỏi em đi đâu mà sớm thế, em bảo đi đến nhà thờ. Người lính tuần
canh trố mắt nhìn em mà bảo nhà thờ đã bị phá hủy và giáo hội đã bị giải tán.
Em bé lắc đầu nói với người lính tuần canh “Ông
lầm rồi giáo hội không thể bị giải tán, vì tôi là Giáo Hội”. Trong lúc người
lính tuần canh còn ngẩn ngơ vì câu trả lời có tính cách xác quyết, em bé vẫn
xăm xăm tiến đến vị trí ngôi thánh đường đổ nát.
Mổi Giáo xứ là “một gia đình của Chúa, một cộng đoàn đầy tỉnh
huynh đệ, chỉ có một linh hồn” (Lumen Gentium). Hay nói khác đi, Giáo xứ là
một Cộng Đồng Thánh Thể, có năng cách cử hành Bí Tích Thánh Thể, một Cộng Đồng
Đức Tin.
Đức Giáo Hoàng Phao Lồ
Đệ Lục đã tuyên bố với hàng giáo sĩ Rôma: “Ta tin tưởng là cơ cấu cổ kính của
giáo xứ có một sứ mệnh khẩn thiết rất hợp thời. Chính giáo xứ là cộng đồng tiên
khởi của dân Chúa. Chính giáo xứ đã khai trương đời sống phụng vụ và tập hợp dân
Chúa . . . Giáo xứ có bổn phận phải bảo tồn và nung nấu đức tin. Giáo xứ còn là
trường dạy dỗ giáo lý cứu rỗi của Chúa Kitô. Giáo xứ là nơi tích cực thực thi cảc
công tác bác ái huynh đệ”.
Giáo xứ là một hình thức
cộng đồng kiểu mẫu, mà mỗi giáo hữu có nhiệm vụ cùng nhau góp ý kién để cứu xét
và giải quyết các vấn đề liên quan đến giáo xứ. Giáo xứ là căn nhà mở rộng đón
tiếp mỗi giáo hữu và phục vụ mỗi giáo hữu, như là “giếng nước của thôn xóm” đế
mọi người đến giải khát.
Giáo dân là nguồn mạch
làm cho giáo xứ ngày càng thêm phong phú. Vì mỗi giáo dân là một “hữu thể cá biệt
không thay thế được”. Mỗi giáo dân có sở
trường và sở đoản, có những khả năng về nhiếu khỉa cạnh khác nhau: Người thì có
lợi khẩu, người thì có óc quản trị; am hiểu tinh tường chủ trương đường lối của
Hội Thánh, người thì chuyên cần bếp núc, giữ sạch sẽ thánh đường, người thì giỏi
về thánh nhạc, báo chí... mỗi cá nhân chứa đựng nhiều kho tàng phong phú.
Tuy nhiên phải hiểu rằng
mỗi cá nhân là một tiểu vũ trụ, do đó, đôi khi có sự dị biệt về tư tưởng và
hành động. Là người giáo hữu chân chính, chúng ta cần phải truyền thông cho
nhau sự dị biệt trong tình yêu thương và tương trợ.
Giáo hữu phải tạo nên
thói quen, trình bày cho phong trào, cho cộng đoàn quan điểm riêng của mình về
cách thế quản trị và phát triển cộng đoàn, để cùng nhau nghiên cứu và tìm ra
phương thức hoà đồng trong tình yêu Thiên Chúa.
Với tinh thần xây dựng
và cởi mở chúng ta có thể giải quyết thoả đáng mọi nhu cầu chính đáng của giáo
dân và của giáo xứ. Chỉ có cách này chúng ta mới có thể được gọi là “một phần
thân thể” của giáo xứ, hay là “phần thân thể” của Chúa Giêsu, vì người là thân
cây nho mà chúng ta là cành. Không sống trọn lành theo Thánh ý Chúa, chẳng khác
nào như cành nho khô “sẽ bị cắt bỏ, ném
vào lửa và đốt đi”.
Trong giáo xứ, mỗi người
có nhiệm vụ nâng đỡ những người khác để tương trợ và sự rao giảng đức tin ngày
càng thêm trọn vẹn.
Người giáo dân phải tôn
trọng, trong tình nghĩa phụ tử, đối với vị chủ chăn, vị chủ chăn “là nguyên lý hiển hiện và là nền móng của sự
hợp nhất”
Sự kết hợp là yếu tố
căn bản để thực thi trọn vẹn ân sủng của Chúa. Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-Lồ Đệ
nhị đã nói: “Để xây dựng chắc chắn ngôi nhà chung, chúng ta phải khước từ óc
chia rẽ, bè phái; ngược lại chúng ta phải tôn trọng và sẵn sàng cộng tác với
nhau bằng một tâm hồn nhẫn nại, sáng suốt và sẵn sàng hy sinh”.
Tinh thần kết hợp chỉ
có thể phát triển được trong những tâm hồn lành mạnh, có ý chí sáng suốt và quyết
tâm làm lành, lánh dữ, mới thắng lướt được những sự cám dỗ.
Cám dỗ thứ nhứt làm
băng hoại tình đoàn kết là óc tự kiêu căng và chủ quan, nghĩ mình luôn luôn tài
giỏi và luôn luôn đúng mà đóng cửa tâm hồn, không hề nghe, hoặc học hỏi được ý
kiến của người khác, khiến cho công tác phát triển bị trì trệ.
Cám dỗ thứ hai là ý chí
lười biếng, không cầu tiến và không phấn đấu để thắng sự chia rẻ, không chịu
suy tư và lắng nghe nguyên nhân của các đề nghị hay có tinh thần chống đối lại
các sáng kiến, nghĩa là “thiếu ánh sáng của
sự thông hiệp”.
Thánh Phao-Lồ cũng đã
than “Ta nghe mỗỉ người trong anh em nói:
Tôi thuộc về Apôllô, còn tôi thuộc về Cepha, và tôi thuộc về Chúa Kitô, thế thì
Chúa Kitô bị chia năm sẻ bảy hay sao?” (Cor 1: 12-13).
Hay nói khác đi nhiệm
thể của Chúa bị xâu xé. Thánh Phao-Lồ trong bức thư gửi tín hữu thành Corintô
đã nhắn nhủ “Nhân danh Thiên Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô, tôi nài xin toàn
thể anh em hãy nhất tâm đừng chia rẽ, nhưng hãy hợp nhất và đoàn kết với nhau
trong tinh thần và trong tư tưởng”.
Sau giai đoạn tu thân,
tề gia, trị quốc, chúng ta phải tiến đến công tác bình thiên hạ, nghĩa là nỗ lực
“làm cho ý định cứu độ của Thiên Chúa
ngày càng lan rộng tới tất cả mọi người, ở mọi nơi và mọi thời đại”. (Lumen
Gentium).
Hai nhiệm vụ chính mà
người tín hữu giáo dân phải thực hiện đối với nhân thế là:
1) Rao truyền Phúc Âm để Thánh hoá nhân loại,
và đào tạo con người một lương tâm Công Giáo đích thực để họ có thể đem tinh thần
Phúc Âm thấm nhuần mọi cộng đồng cũng như mọi lãnh vực của đời sống.
2) Canh tân những trật tự thế giới.
Hai nhiệm vụ này đòi hỏi
người giáo hữu tinh thần tích cực, sáng suốt, làm sáng tỏ cái chí nhân, chí thiện
của mình, trao đổi kiến thức rộng rãi trong sứ mệnh truyền bá Phúc Âm theo tinh
thần mới vì
“Giáo hội không thể tránh né sứ mệnh thường trực của mình là đem Phúc Âm
đến cho từng triệu người cả nam lẫn nữ chưa nhận biết Chúa, đấng cứu rỗi con
người”vì chúng ta có sứ mệnh phải đi khắp thế giới để rao giảng tin mừng,
người giáo hữu cũng mang nặng sứ mệnh như những chiến sĩ ở tiền tuyến.
Chúng ta phải luôn luôn
sẵn sàng, chiến đấu với tội ác, võ trang tinh thần với đức tin và triết lý hành
động của Giáo hội, như các vị thiền sư đắc đạo phải thụ huấn võ công thâm hậu trước
khi xuống núi. Chúng ta phải dự trữ dầu cho ngọn đuốc soi đường cho nhân thế
“như những cô dâu khôn ngoan mang theo dầu dự trữ để đón chàng rễ quý”.
Chúng ta hoạt động khắp
nơi giữa những người theo các tín ngưởng khác nhau. Thực trạng nầy đòi hỏi
chúng ta sự hiểu biết tín điều của các tôn giáo khác và tinh thần tế nhị, tương
kính, mới có thể khơi mồi cho sự đối thoại, từ đó mới có thể thông cảm và tạo
cơ hội cải hoá được tha nhân. Muốn vậy, chúng ta phải “nên thánh trong mọi tác phong của mình” và học hỏi thêm Tông Huấn “Veritatis
Splendor” của ĐGH Gioan Phao Lổ đệ Nhị, tháng 8/1993, bàn về quan niệm của Giáo
hội về thân phận của những người ngoại giáo (pagans).
Cơ hội được cứu rỗi của
Chúa dành cho mọi người kể cả dân ngoại. Những người không phải vì lỗi của họ,
không được biết Thiên Chúa hay Giáo hội của Người cũng có thể được cứu rỗi nếu
họ thật lòng tìm kiếm Thiên Chúa và thực thi Thiên mệnh được linh ứng qua biểu
hiện của lương tâm chính trực. “Those who without any fault do not know
anything about Christ or his Church, yet who search for God with a sincere heart and under the influence
of grace, try to put into effect the will of God as known to them through the
dictate of conscience… can obtain eternal salvation”(Veritatis Splendor 3).
Đức Giáo Hoàng Gioan Phao Lồ II vào đầu
tháng 11 năm 1999, trong cuộc viếng thăm Ấn Độ, đã công bố Tông Huấn: Giáo
Hội tại Á Châu (Eccesiain
Asia ) đã phát biểu “ Giáo hội tỏ lòng cung kính và
ngưởng mộ tất cả truyền thống tinh thần của các Tôn Giáo Á Châu và muốn dấn thân trong cuộc đối thoại chân thành với các tín hữu
của các tôn giáo. Những giá trị tôn giáo mà các đạo giáo dân gian giảng dạy
đang chờ đón sự viên mãn trong Đức
Giêsu Kitô”. “Asia is also the cradle of the world's major
religions—Judaism, Christianity, Islam and Hinduism. It is the birthplace of
many other spiritual traditions such as Buddhism, Taoism, Confucianism,
Zoroastrianism, Jainism, Sikhism and Shintoism. Millions also espouse
traditional or tribal religions, with varying degrees of structured ritual and
formal religious teaching. The Church has the deepest respect for these traditions and
seeks to engage in sincere dialogue with their followers. The religious
values they teach await their fulfilment in Jesus Christ”.
Tông huấn Veritatis Splendor
và Tông thư Ecclesia in Asia giúp chúng am hiểu thêm các phương cách cứu rỗi tiềm ẩn trong tín lý “Ngoài Giáo hội, không có sự cứu rỗi- Extra Ecclesiam, nulla salus” và “No one can enter
the Kingdom of God unless he is first born of water and Spirit. (Jn 3:5).
Từ thuở tạo thiên lâp địa,
từ Đông chí Tây, từ Nam chí Bắc, con ngươi đã tin vào một Đấng Tạo Hóa toàn năng, là đệ nhất tác nhân, (First agent) tạo nên muôn loài và vũ trụ.
(St. Thomas Aquino, Tổng Luận về Thần học- Summa Theologia). Chúa nội tại (immanent) ở trong vạn vật và trong nội tâm hay lương tri của mỗi người nên trên bình diện tự nhiên, Chúa đã hiện hữu trong tâm trí họ rồi.
Với
“Tình nhân loại hổ tương và bác aí cộng đồng cố hữu của Công giáo được nới rộng. Đặc
tính nầy đã gây ảnh hường lớn lao khiến cho dân chúng của các dân tộc dị giáo và công dân La Mã đã trở lại
Thiên Chúa Giáo, kể cả Hoàng Đế La Mã Constantine (306-337 AD) đã trở lại đạo, khiến cho Thiên Chúa Giáo trở
thành quốc giáo của Đế Quốc La Mã vào thề kỷ thử 4 sau Công nguyên. “It was the Christian spirit of mutual love
and communal charity that astonished and impressed the pagans and the Romans”
Sự hiện hữu của các
giáo dân trong các tổ chức văn hoá, kinh tế, xã hội, chính trị…là bước khởi đầu
cho công cuộc thánh hoá. Sự tham gia vào các tổ chức phải đặt trên căn bản
thánh thiện, nhằm mục đích phục vụ phúc lợi chung, tránh vấn đề ủng hộ hay phản
đối mù quáng. Không sinh hoạt vì phe phái mà quên rằng thiên hạ đang nhìn mình
như là một chi thể của giáo hội, xử thế không đúng cách sẽ bị cọi như “cành nho héo, sẽ bị thiên hạ bỏ vào lửa mà đốt
đi”. (Jn. 6:16)
Để hỗ trợ mọi giáo dân chu
toàn trách vụ truyền bá Phúc Âm, Cộng Đồng Vatican II “đã khuyến khích người Kitô hữu nên chu toàn công tác trần thế một cách
nhiệt tình, trung tín và vâng theo tinh thần Phúc Âm…”.
Nhiệm vụ cải tiến trật tự xã hội bao gồm trong
triết lý xã hội của Giáo Hội Công Giáo, nhằm quảng bá công bình bác ái cho nhân
thế và phát triển, canh tân mọi hoạt động về văn hoá, xã hội, kinh tế và chính
trị quốc gia và thế giới.
Do đó, không thể nói Công
Giáo lơ là với lập trường chính trị, mà Công Giáo là đạo nhập thế, hiện hữu
trong mọi sinh hoạt của thế trần để mưu cầu phúc lợi chung cho nhân loại.
Tóm lại, người tín hữu
giáo dân phải thể hiện đức hạnh trong đời sống cá nhân, đời sống gia đình, và
trong công tác phụng sự Giáo Xứ, Giáo Hội.
Chúng ta có nhiệm vụ
nêu cao tinh thần kết hợp, phát triển tình huynh đệ đại đồng, xây dựng thế giới
ngày càng hưng thịnh trong tự do, thanh bình và no ấm.
Chúng ta thực thi sứ mệnh
cao cả mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho chúng ta là làm cho ý định cứu độ của Thiên
Chúa ngày càng lan tới tất cả mọi người, ở mọi nơi và mọi thời đại.
Trần Xuân Thời