Chúa Nhật XXIV
TN A 2020
Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, HKK
Lời mở
Tuần trước,
chúng ta đã bàn đến bổn phận sửa lỗi cho nhau vì mỗi người được tạo dựng theo
hình ảnh Thiên Chúa nên có nhân vị và là anh chị em của nhau. Tuần này, các bài
Thánh Kinh tập trung vào nhiệm vụ phải tha thứ những lỗi lầm, sai phạm của người
khác (x. Hc 27,30-28,7 và Mt 18,21-35) để “sống trọn vẹn cho Chúa” như thánh
Phaolô nhắc nhở (Rm 14,7-9). Tuy nhiên, chúng ta cần phải tìm hiểu xem việc “hết
lòng tha thứ cho anh em” theo Công giáo thật sự là gì để khỏi dẫn đến việc người
phạm lỗi lạm dụng lòng nhân từ và thương xót của con người cũng như của Thiên
Chúa.
1. Sự tha thứ trong đời sống con người
Tha thứ, theo định
nghĩa, là bỏ qua lỗi lầm của người khác, không trách cứ hoặc trừng phạt sai phạm
của họ (x. Từ điển Tiếng Việt 2013,
NXB Đà Nẵng, tr.1171; Từ điển Thần học
Công giáo, in lần II, 2019, mục từ Tha
thứ, tr.783).
Kinh nghiệm
trong đời sống cho ta thấy rằng: con người thường xuyên xúc phạm đến nhau, làm
thiệt hại cho nhau. Kể từ khi cắt đứt sự hoà hợp với Thiên Chúa là nguồn của mọi
ân huệ, con người luôn cảm thấy mình trần trụi, khổ đau. Vì thế, người ta muốn
dùng của cải vật chất và tài năng tinh thần để che giấu nỗi khốn cùng. Hơn nữa,
vì bị tham vọng và dục vọng che mờ lý trí và lương tâm, nên con người đã có nhiều
hành động sai trái, làm thiệt hại về vật chất như của cải, tiền bạc, cũng như về
tinh thần như danh dự, nghề nghiệp, tiếng tốt của nhau. Do đó, họ cần phải đền
trả cho nhau theo luật công bằng và cần được tha thứ cho nhau theo luật bác ái.
Tuy nhiên, nhiều
tín hữu Công giáo rất bối rối khi cho người khác vay nợ, mà lại không tha nợ
cho người vay như Kinh Lạy Cha thường đọc, nhất là khi biết Chúa Giêsu đã dạy phải
“hết lòng tha thứ cho anh em mình”
trong dụ ngôn Tin Mừng, vì nếu tha thứ như thế, mình sẽ bị thiệt thòi. Hơn nữa,
không ít người đã lạm dụng lòng tốt của người khác, đã vay nợ thật nhiều và hầu
như chẳng trả nợ cho ai. Họ cũng không quan tâm đến những tội lỗi xúc phạm nặng
nề đến Chúa và liên tục tái phạm, vì tự nhắc nhủ mình: “Chúa là Đấng giàu lòng
thương xót. Ngài luôn tha thứ mọi tội lỗi của con người” (x. Tv 103,3). Như thế,
lòng tin vào sự tha thứ trong các trường hợp này có chính đáng không?
Có những hành động
xúc phạm nặng nề đến danh dự, sự sống và làm người khác thiệt hại lớn lao, khiến
họ mất hết của cải, bị sỉ nhục, hiểu lầm đến nỗi phải bỏ nhà, bỏ xứ ra đi, hoặc
bị coi thường, bị phản bội trong đời sống hôn nhân, khiến cho người bị hại cảm
thấy không thể tha thứ vì vết thương lòng luôn đau xót khi nhớ đến lỗi lầm của
người khác. Có những người vợ, người chồng chỉ còn sống với nhau vì nghĩa, vì
con cái, chứ không vì tình, do tình yêu của họ không còn nữa. Vậy trong những
trường hợp như thế, làm sao người ta có thể tha thứ và tìm lại tình yêu thuở ban
đầu?
Mở rộng hơn, khi
một dân tộc bị một dân tộc khác dùng bạo lực để áp bức, xâm lăng, dùng những thủ
đoạn chính trị để lừa dối dư luận thế giới, dùng sức mạnh kinh tế để hãm hại
các nước nghèo khổ, người ta có phải tha thứ cho chính quyền hay cả dân tộc ấy
để chịu đựng những bất công không?
Trong lĩnh vực
tâm lý, có những người luôn bị dằn vặt về một hành động tội lỗi của mình trong
quá khứ; luôn ân hận về một việc tiêu cực nào đó của mình như phá thai, gây tai
nạn chết người, nên nghĩ rằng sai phạm đó không thể được Chúa tha thứ và họ
cũng không tha thứ cho chính mình. Cuộc sống của họ không còn niềm vui, lòng
tin và hạnh phúc. Vậy ta phải làm gì để giúp họ tha thứ cho chính mình và nhận
được sự tha thứ của Thiên Chúa?
Đấy là những vấn
đề ta thường gặp trong đời sống để xin Chúa Giêsu giúp ta hiểu được sự tha thứ chân
thành mà Người muốn ta thể hiện cho nhau.
2. Sự tha thứ chân thành
Chúa đã dạy
chúng ta khá nhiều về sự tha thứ qua kinh Lạy Cha (x. Mt 6,12), qua dụ ngôn Tin
Mừng hôm nay và nhất là qua chính cuộc đời của Người khi van xin Chúa Cha tha tội cho những kẻ đóng
đinh mình (x. Lc 23,34).
Giáo Hội cũng dạy
ta nhiều điều để có thể áp dụng trong đời sống cụ thể của từng người cũng như của
cộng đồng xã hội qua các tài liệu của Công đồng Vaticanô II (x. Gaudium et Spes, số 28), sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo, (x. các số
981, 982, 987, 1441, 1443, 1473, 1434, 1437, 1452, 2010, 2227, 2631, 2838-45);
sách Tóm lược Học thuyết Xã hội Công giáo
(x. các số 196, 492, 517, 518); sách Docat
(x. tr.125, 164, 256-257).
Tuy nhiên, chúng
ta cần tóm lại vài điểm cần thiết sau đây để có thể giải đáp những vấn đề chúng
ta đã nêu ở trên về sự tha thứ.
Trước hết, chúng
ta phải giữ công bằng với Chúa cũng như với anh chị em trước khi nói đến việc
tha thứ liên quan đến lĩnh vực bác ai.
Giáo Hội dạy
chúng ta rằng: “Tha thứ cho nhau không có
nghĩa là loại bỏ nhu cầu về công lý và càng không ngăn chặn con đường dẫn đến sự
thật. Ngược lại, công bằng và sự thật là những đòi hỏi cụ thể để có được sự hoà
giải” (x. TLHTXHCG, số 518).
Tha thứ dựa trên
công bằng. “Công bằng là có ước muốn kiên
định và vững chắc trả lại những gì mình mắc nợ với Chúa và tha nhân” (x. TLHTXHCG, số 518; GLHTCG, số 1807). Công bằng đối với Thiên Chúa là trả lại cho Ngài
sự tôn kính trọn vẹn và lòng biết ơn vì Ngài không mắc nợ gì ai, trong khi tất
cả những gì ta có đều do Ngài ban tặng. Đó là ý nghĩa dụ ngôn, khi chúng ta giống
như người đầy
tớ mắc nợ vua 10.000 nén vàng. Do đó, “yêu Chúa hết lòng, hết sức, hết linh hồn,
hết trí khôn” cũng chỉ là luật công bằng trong mối tương quan với Thiên Chúa.
Còn việc “yêu người như chính mình” cũng chỉ là luật công bằng trong mối tương
quan với tha nhân, vì người khác là anh chị em của ta trong đại gia đình Thiên
Chúa, là chi thể trong thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô.
Sự tha thứ còn
phải dựa trên sự thật, nghĩa là biết rõ về hoàn cảnh của người sai phạm, biết họ
thật lòng hối cải muốn sửa chữa lầm lỗi của mình và phải được định hướng bởi một
tình yêu trong sáng, quảng đại. Trong đại dịch Covid-19 hiện nay, nhiều chủ nhà
đòi người thuê mặt bằng hoặc người thuê nhà trọ phải trả đủ tiền thuê theo luật
công bằng, dù biết rõ người thuê không có khách hàng đến mua, bị cắt giảm việc
làm. Nhiều công nhân đòi chủ phải trả lương theo đúng hợp đồng đã ký kết, dù biết
rằng công ty không hoạt động hay xí nghiệp không sản xuất, kinh doanh. Đó là những
người không biết tha thứ dựa trên sự thật của đời sống.
Vì thế, đối với
những người lạm dụng lòng tốt của con người để gây ra những thiệt hại hay lạm dụng
lòng thương xót của Thiên Chúa để thường xuyên phạm tội, thì dù họ được con người
và Thiên Chúa tha thứ, thí dụ qua bí tích Hoà Giải, thì cũng phải nhớ rằng: “Sự
tha thứ không làm nhẹ đi tính cách nghiêm trọng của tội ác đã xảy ra và không
thể huỷ bỏ được điều đã xảy ra” (x. Docat,
số 277). Mỗi điều ác đức bất công đều ghi những điểm tối, vết bẩn vào bản chất
người thực hiện và họ phải tẩy rửa chúng bằng các việc tốt lành ở đời sống trần
thế, nếu không muốn phải thanh luyện ở đời sau. Vì thế, Bài đọc I nhắc nhở ta rằng:
“Hãy nhớ đến ngày tận số mà chấm dứt hận
thù, nhớ mình sẽ phải hao mòn và phải chết để trung thành giữ các điều răn”
(x. Hc 27,6).
Cuối cùng, đối với
những ai không tin vào lòng khoan dung tha thứ của Thiên Chúa, không thể tha thứ
cho người khác hay luôn dằn vặt vì tội ác của mình và cả đối với những dân tộc
bạo động, không có lòng khoan dung, Giáo hội Công giáo khuyên ta: “Hãy đưa Thiên Chúa vào cuộc” bằng cầu
nguyện (x. GLHTCG, số 1425, 2631,
2838-45; Docat, tr.125). “Khi có Thiên
Chúa hậu thuẫn, người ta có sức mạnh để tha thứ, làm những bước khởi đầu mới,
mà có thể nói dường như không thể thực hiện được về mặt con người” (x. Docat, số 277, tr.257). Lý do là vì
Thiên Chúa là Đấng toàn năng, không có gì mà Ngài không thể làm được, đồng thời
cũng là tình yêu để đổ tình yêu quảng đại vào lòng ta nhờ Thánh Thần Ngài ban
cho ta.
Lời kết
Hôm nay, hiểu được
tha thứ như thế, ta mới có thể “sống là sống
cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho Người” (x. Rm 14,8).