YÊU CHÚA YÊU NGƯỜI, HAI TRONG MỘT
Những ngày đầu
tháng mười một, tháng cầu cho những người đã qua đời, là thời gian thích hợp để
mọi tín hữu tập trung nhiều hơn vào nội tâm của mình, tự hỏi những câu hỏi căn
bản của cuộc sống đời này và tìm kiếm câu trả lời từ Chúa Kitô. Đôi khi chúng
ta quên mất mục đích sống của mình. Điều quan trọng bây giờ là phải quay trở lại,
đặt mọi thứ về đúng nơi của chúng. Đây là lý do tại sao câu trả lời của Chúa
Giêsu cho vị kinh sư là điều cần thiết đối với chúng ta. Đời sống Kitô hữu chỉ
có một điều: “Điều răn đứng đầu là:
…Ngươi phải yêu mến Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí
khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận
như chính mình” (Mc 12:29-31). Yêu mến Thiên Chúa bằng cách yêu thương người
lân cận và tình yêu dành cho người lân cận không thể tách rời khỏi tình yêu
dành cho Thiên Chúa.
1. Thiên Chúa là nguồn sức mạnh cho mọi hành động yêu
thương
Chúng ta thường bị
cám dỗ tách rời hai điều này. Thật vậy, chúng ta thường bị cám dỗ tin rằng
chúng ta có thể yêu thương mà không cần đến Thiên Chúa, rằng chỉ cần tử tế, quảng
đại với người khác là đủ, v.v. Chúng ta muốn sống một thứ tình yêu không có
Thiên Chúa, tách rời khỏi Ngài. Đó là lý do tại sao có những Kitô hữu không dành
thời gian để cầu nguyện, để suy niệm lời Chúa, dự lễ ngày Chúa nhật, xưng tội…
Chúng ta tự bào chữa cho mình bằng cách nói rằng chúng ta đang làm những việc tốt
lành, rằng chúng ta rất quảng đại, phục vụ hàng xóm của mình, tham gia những
chuyến thăm từ thiện.
Nhưng liệu nếu
chúng ta không múc lấy sức mạnh từ nguồn mạch là chính Thiên Chúa thì chúng ta
có thể phục vụ người lân cận bằng cả trái tim, yêu thương họ như chính mình và
như Chúa yêu họ không? Liệu lòng quảng đại của chúng ta có còn sức lực không
khi những người được chúng ta giúp đỡ tỏ ra vô ơn? Liệu chúng ta có còn sức mạnh
để yêu thương và phục vụ những người ghét chúng ta, những kẻ hủy hoại con cái,
cha mẹ, gia đình và xã hội của chúng ta không? Liệu chúng ta còn có thể cầu
nguyện cho những kẻ bách hại chúng ta, thật lòng mong cho họ có được những điều
tốt đẹp nhất không? Nếu chúng ta không gắn kết với Thiên Chúa, nếu lời Ngài
không đổi mới và tăng sức cho chúng ta mỗi ngày, làm sao chúng ta có thể mở
lòng ra làm điều tốt lành cho những người chống đối chúng ta, thậm chí không xứng
đáng vì đã làm hại chúng ta?
Nguồn mạch duy nhất
của tình yêu và sự sống đích thực là Thiên Chúa, như bài đọc thứ nhất nhắc nhở:
“Nghe đây, hỡi Israel! Chúa, Thiên Chúa
chúng ta, là Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết
dạ, hết sức anh em. Những lời này tôi truyền cho anh em hôm nay, anh em phải
ghi tạc vào lòng” (Đnl 6:4-6). Chính Ngài là Đấng tiếp thêm sức mạnh cho những
người vợ / chồng có thể chịu đựng và tiếp tục yêu thương, phục vụ người bạn đời
chưa đủ tận tụy chung thủy, quan tâm đến hạnh phúc của gia đình, của con cái,
vì: “Chúa là núi đá, là thành luỹ, là Đấng
giải thoát con; Thiên Chúa con thờ là núi đá cho con trú ẩn, là khiên mộc, là Đấng
cứu độ quyền năng, là thành trì bảo vệ” (Tv 18:3). Chính nơi Thiên Chúa, những
người lao động tìm thấy sức mạnh để làm tốt công việc của mình dù lương chưa
cao, dù tất cả những đồng nghiệp khác đều nản lòng. Người chủ xí nghiệp nào thấm
nhuần Lời Chúa: “Anh em biết đấy: ai làm
việc tốt, sẽ được Chúa trả công, bất luận nô lệ hay tự do. Người làm chủ cũng
hãy đối xử như thế với nô lệ. Đừng doạ nạt nữa: anh em biết rằng Chúa của họ
cũng là Chúa của anh em, Ngài ngự trên trời và không thiên vị ai” (Ep 6:
8-9) thì sẽ trân trọng công sức công nhân viên của mình, đối xử công bằng với họ.
Nếu chúng ta rời xa Thiên Chúa thì có nguy cơ tiền bạc, quyền lực, và thú vui ích
kỷ trở thành nguồn cơn khiến chúng ta áp bức, bắt những người khác làm nô lệ phục
vụ chúng ta. Chỉ nơi Thiên Chúa chúng ta mới tìm được nguồn sức mạnh vô tận để
hiến thân vì người khác: “Không có tình
yêu nào lớn hơn tình yêu của người hiến mạng sống mình cho những người mình yêu”
(Ga 15:13). Đấng tuyên bố như vậy đã tự mình tiến về Cuộc Khổ Nạn của Ngài và,
vì vâng phục Chúa Cha, Ngài đã hiến mạng sống mình trên Thập Giá cho tất cả mọi
người: “Chúa Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên
Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa,
nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm
nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng
lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Phil 2:6-11). Chỉ khi nào tiếp xúc
trực tiếp với tình yêu của Chúa Kitô, hiệp thông với cuộc khổ nạn và phục sinh
của Ngài, thì người ta mới kín múc được khả năng yêu thương như Chúa Kitô để sống
yêu thương, hiến thân và phục vụ đến mức độ bác ái tột cùng: “Ngài vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình
còn ở thế gian, và Ngài yêu thương họ đến cùng” ( Ga 13:1).
Vì vậy, chúng ta
hãy đi tìm gặp Thiên Chúa, xây đắp mối tương quan bền chặt với Thiên Chúa. Ngài
cần phải là đá tảng cho cuộc sống chúng ta tựa vào. Suy ngẫm Lời Ngài mỗi ngày,
coi đó là kim chỉ nam, giúp chúng ta có được sức mạnh để yêu thương và phục vụ
mọi người như Chúa Giêsu.
2. Yêu những người khác vì Chúa cũng yêu họ như yêu
chúng ta
Yêu Chúa và yêu người
khác! Không thể tách rời hai điếu đó. Chúng ta không thể yêu Chúa nhưng lại
ghét người khác, cãi vã với họ, từ chối biểu lộ tình thân với họ. Tin yêu Thiên
Chúa phải dẫn đến sự sống kết hiệp với Ngài. Điều này không thể chỉ đơn giản là
đọc những bài kinh có sẵn hoặc “đi xem lễ” ngày Chủ nhật chỉ “cho phải phép”. Phải
xem đến những hành động trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Yêu mến Thiên
Chúa là sống theo lời Ngài, là áp dụng các điều răn của Ngài vào cuộc sống của
chúng ta, và điều đó có nghĩa là sống tôn trọng người khác. Đây là quy luật
vàng của mọi đời sống Kitô hữu. Chính Chúa Giêsu công bố quy luật đó: “Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Israel, Chúa, Thiên Chúa chúng
ta, là Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng,
hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi” (Mc 12: 29-30).
Nhưng chúng ta hiểu
điều răn này của Thiên Chúa như thế nào? Chúng ta có biết yêu mến Thiên Chúa
nơi người khác không, vì: “Điều răn thứ
hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào
khác lớn hơn các điều răn đó” (Mc 12:31). Trong xã hội ngày nay của chúng
ta, nơi sự tiêu dùng và hưởng thụ là chuẩn mực, nơi người ta coi “sở hữu mọi thứ”
là một đẳng cấp, nơi người ta cố đạt được thành công, thu nhập tiền của càng
nhiều càng tốt bằng bất cứ cách nào, hoặc theo đuổi mọi thú vui cá nhân mà
không cần quan tâm đến người nào khác, ngay cả sẵn sàng quên đi một vài trách
nhiệm cộng đồng đơn giản. Bài Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta đọc lại cuộc đời
mình dưới ánh sáng của tình yêu đích thực mà chúng ta cần phải dành cho Thiên
Chúa và cho người khác. Thiên Chúa sẽ thay đổi chúng ta trong tình yêu chúng ta
dành cho nhau. Chúng ta có thể yêu người lân cận hay không là tùy thuộc vào việc
chúng ta có yêu Chúa hay không. Mối tương quan của chúng ta với người lân cận
có thể được đổi mới hoặc biến đổi nhờ tình yêu của Thiên Chúa.
Khi chúng ta nhìn
vào những gì Thiên Chúa làm cho chúng ta, cách nhìn của chúng ta về bản thân và
những người chung quanh được đổi mới. Lời Chúa cho thấy rằng chúng ta đã nhiều
lần quay lưng lại với Thiên Chúa, nhưng mỗi lần như vậy Thiên Chúa lại đề nghị chúng
ta quay lại trong tình yêu của Ngài. Thiên Chúa không yêu thương chỉ với những
lời nói có cánh mà không có hành động kèm theo. Con Thiên Chúa trở thành con
người, hiến mạng sống cho chúng ta trong cái chết và sự phục sinh, đem ơn cứu độ
vĩnh viễn cho nhân loại, trở nên vị tư tế chuyển cầu cho những ai đáp lại lời mời
gọi của Ngài. Bài đọc thứ hai hôm nay khẳng định: “Còn Chúa Giêsu, chính vì Ngài hằng sống muôn đời, nên phẩm vị tư tế của
Ngài tồn tại mãi mãi. Do đó, Ngài có thể đem ơn cứu độ vĩnh viễn cho những ai
nhờ Ngài mà tiến lại gần Thiên Chúa. Thật vậy, Ngài hằng sống để chuyển cầu cho
họ” (Hípri 7: 24-25). Vì vậy, chúng ta hãy nhìn vào Thiên Chúa, Đấng yêu
thương chúng ta qua Chúa Giêsu, và chúng ta hãy nhìn vào người lân cận của
chúng ta dưới ánh sáng tình yêu này của Thiên Chúa.
Vì vậy, khi chúng
ta nhìn vào người đang ở trước mặt chúng ta, ví dụ người hàng xóm của chúng ta,
chúng ta có thấy đó là người mà Con Thiên Chúa đã hiến mạng sống vì người đó
không? Dù cá nhân chúng ta nghĩ gì về người đó, nhưng nếu chúng ta nghĩ đến cái
giá lớn lao mà Chúa Giêsu đã trả để cứu người ấy, chúng ta sẽ có khả năng xem lại
sự phán xét thiếu căn cứ của mình.
Đây là mối liên kết
giữa tình yêu Thiên Chúa và tình yêu những người lân cận. Làm sao chúng ta có
thể không yêu những người mà Chúa yêu, mà Chúa biết người ấy rõ hơn chúng ta biết?
Nhà điêu khắc Michelangelo được cho là đã nhìn thấy bức tượng Pietà trong khối
đá cẩm thạch sần sùi. Thiên Chúa còn thấy rõ ràng hơn vẻ xinh đẹp trong những
người mà chúng ta coi như những tảng đá thô kệch. Chúng ta chỉ có được đôi mắt
của Ngài khi chúng ta được tình yêu của Ngài biến đổi. Khi không yêu thương người
lân cận, chúng ta như nói với Chúa Kitô hy sinh chết trên thập giá rằng người ấy
không đáng để Chúa cứu độ.
Người ta không cần
phải là một Kitô hữu mới có thể yêu thương. Tất nhiên rồi, nhưng niềm tin vào Thiên
Chúa, qua con người cụ thể của Chúa Giêsu, giúp chúng ta nhận ra những con người
quá bất toàn chung quanh chúng ta, không có gì đáng yêu, ngay cả kẻ thù của ta,
đều do Chúa dựng nên, mà vì yêu thương Ngài đã chết cho họ, không khác gì Ngài
đã chết cho chúng ta. Chính tình yêu vô cùng tận này đã thay đổi mối tương quan
của chúng ta với Chúa và với những người chung quanh! Và tình yêu đó biến đổi
các mối tương quan của chúng ta đến mức chúng ta muốn chia sẻ sự biến đổi này của
mình nhờ Chúa Kitô: “Phải, đó chính là vị
Thượng Tế mà chúng ta cần đến: một vị Thượng Tế thánh thiện, vẹn toàn, vô tội,
tách biệt khỏi đám tội nhân và được nâng cao vượt các tầng trời” (Hípri 7: 26).
Phêrô Phạm Văn Trung
Tác giả:
Phêrô Phạm Văn Trung
|