Đoạn Tin Mừng Chúa Nhật tuần
này, ngay sau bài giảng Tám Mối Phúc Thật của Chúa Nhật tuần trước, Chúa Giêsu
nói với các môn đệ: “Các con là muối cho đời… Các con
là ánh sáng thế gian” (Mt 5:13-14). Điều này làm cho chúng ta nghĩ đến
những người đang có mặt trước Chúa Giêsu khi Ngài nói những lời này. Họ là những
người đánh cá, những người đơn giản chỉ nghĩ đến những công việc mưu sinh cụ thể
mỗi ngày … Nhưng Chúa Giêsu nhìn họ bằng đôi mắt Thiên Chúa của Ngài, và quả
quyết của Ngài “Các con là muối cho đời… Các con là ánh sáng thế gian”
có thể được hiểu chính xác là kết quả của các Mối phúc. Ngài muốn nói rằng: Nếu
anh em có tinh thần khó nghèo, nếu anh em hiền lành, nếu anh em có tâm hồn
trong sạch, nếu anh em có lòng thương xót… anh em sẽ là muối và là ánh sáng thế
gian!
1. Các con là muối
cho đời.
Bách khoa từ điển Kinh
Thánh tiêu chuẩn quốc tế (The International Standard Bible Encyclopedia) cho biết:
“Nói chung, muối lấy ra từ Biển Chết bị nhiễm các khoáng chất khác nên muối
nguyên chất trong đó dễ bị tan ra, để lại một chất vô vị”. Vì vậy, điều dễ hiểu
là Chúa Giêsu mô tả những thứ còn lại đó “Nó
đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi”
(Mt 5: 13). Từ điển này cho biết thêm: “Dù tạp chất làm cho muối của Biển Chết
kém chất lượng hơn muối ở các biển khác, nhưng nó có thể rất dễ tìm ở dọc bờ biển.
Do đó, muối này là nguồn cung cấp chính cho xứ Palestin”. Muối là một nguồn tài
nguyên quý giá. Trên thực tế vào thời cổ đại, muối là một nhu cầu thiết yếu của
cuộc sống được nhiều nền văn hóa sử dụng làm gia vị, bảo quản, khử trùng, dùng
trong các nghi lễ, dùng để trả lương và là tiền tệ trao đổi. Những người du mục
ở Ethiopia hiện nay vẫn làm như vậy.
Để hiểu rõ hơn những hình ảnh
này, chúng ta nên ghi nhớ rằng Luật Do Thái quy định rằng phải rắc một ít muối
lên mọi lễ vật dâng lên Thiên Chúa, như một dấu hiệu của giao ước: “Khi đã làm lễ tạ tội xong, ngươi hãy tiến
dâng một con bò tơ toàn vẹn và một con cừu đực toàn vẹn lấy trong đàn chiên dê.
Ngươi hãy tiến dâng chúng trước nhan Chúa, các tư tế sẽ rắc muối lên trên chúng
và dâng chúng làm lễ toàn thiêu kính Chúa” (Êdêkiel 43; 23-24). Trong sách
Lêvi, chúng ta biết lý do tại sao muối được thêm vào của lễ: “Các ngươi phải bỏ muối vào mọi lễ phẩm các
ngươi dâng tiến; các ngươi không được để lễ phẩm các ngươi thiếu muối của giao
ước của Thiên Chúa xác ngươi; các ngươi phải dâng muối cùng với mọi lễ tiến của
các ngươi” (Lv 2: 13). Muối trong Kinh thánh là một mặt hàng có giá trị. Nó
có tầm quan trọng đối với người dân và lấy muối của mình để dâng cho Thiên Chúa
được coi là một sự hy sinh lớn lao. Đó là một trong những lý do Thiên Chúa yêu
cầu dâng muối trong một của lễ. Đó không chỉ là ý thích nhất thời. Việc đó mang
tính biểu tượng, cho thấy mối tương quan mà Thiên Chúa muốn có với dân Ngài và
cách Thiên Chúa muốn dân Ngài trở thành người bảo tồn trái đất: “Tất cả các phần trích dâng trong các của lễ
thánh mà con cái Israel dâng Chúa, Ta đều ban cho ngươi cũng như cho con trai
con gái ngươi, chiếu theo một quy luật vĩnh viễn. Đó là giao ước muối muôn đời
tồn tại trước nhan Chúa, cho ngươi và dòng dõi ngươi” (Ds 18: 19).
Muối được sử dụng làm chất
bảo quản, có nghĩa là nó rất quan trọng để làm cho mọi thứ tồn tại lâu hơn. Vì
vậy, khi nói, “giao ước bằng muối”, điều đó chỉ có nghĩa là giao ước đó là vĩnh
viễn và không thể bị phá vỡ, giống như muối bảo quản thực phẩm lâu dài. Trong
giao ước, Thiên Chúa và dân của Ngài trao đổi muối như một biểu tượng hữu hình
của lòng trung thành và tình bạn, để cho thấy bản chất lâu dài của thỏa thuận của
hai phía. Qua muối, Thiên Chúa bày tỏ mối quan hệ bất khả phân ly của Ngài với
những người Ngài yêu thương. Người Do Thái đã không quên các giao ước muối của
họ với Thiên Chúa. Cho đến ngày nay, vào mỗi thứ Sáu lúc mặt trời lặn, nhiều
người giữ đạo Do Thái vẫn chấm bánh mì của họ vào muối như một biểu lộ giữ giao
ước với Thiên Chúa.
2. Các con là ánh sáng thế gian.
Ánh sáng đối với Israel là
một biểu tượng của mặc khải thiên sai, chiến thắng bóng tối của ngoại giáo. Ánh
sáng và bóng tối được trình bày rõ ràng trong Kinh thánh. Bóng tối gợi lên kẻ
ác chống lại Thiên Chúa: “để giải thoát
con khỏi lối sống xấu xa, cứu con khỏi người nói những lời xằng bậy, khỏi những
kẻ bỏ đường ngay chính, đi vào nẻo tối tăm” (Châm ngôn 2:13), ám chỉ sự
phán xét: “Chúa phán với ông Môsê:
"Hãy giơ tay lên trời, cho bóng tối bao trùm đất Ai cập, bóng tối như sờ
thấy được." Ông Môsê giơ tay lên trời, và bóng tối dày đặc bao trùm cả đất
Ai cập trong ba ngày” (Xuất hành 10:21), và nhất là sự chết: “Trong mồ mả, ai nói về tình thương của Chúa?
Cõi âm ty, ai kể lại lòng thành tín của Ngài? Những kỳ công Chúa, nơi tối tăm
ai rõ? Đức công chính Ngài, chốn quên lãng ai hay?” (Tv 88:12 ). Ánh sáng
là tác phẩm đầu tiên của Đấng Tạo Hóa, thể hiện sự điều hành của Thiên Chúa
trong một thế giới không có ánh sáng, chỉ có bóng tối và hỗn loạn: “Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất.
Đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và thần khí
Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước. Thiên Chúa phán: "Phải có ánh
sáng." Liền có ánh sáng…Thiên Chúa phân rẽ ánh sáng và bóng tối. Thiên
Chúa gọi ánh sáng là "ngày", bóng tối là "đêm” (Stk 1: 1-5).
Trong hành động sáng tạo đầu tiên này, “Thiên
Chúa thấy ánh sáng là tốt lành” (St 1,3). Ánh sáng thường được sử dụng như một
ám chỉ về sự sống: “vì Ngài cứu mạng con
khỏi chết, lại ngăn ngừa kẻo phải hụt chân, để con bước đi trước mặt Ngài trong
ánh sáng dành cho kẻ sống” (Tv 56:14), về sự cứu rỗi: “Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người
sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi” (Isaia
9:1), về các điều răn: “Vì huấn lệnh là
ngọn đèn, lời dạy dỗ là ánh sáng, và lời quở trách bảo ban là đường dẫn tới sự
sống” (Châm ngôn 6:23 ), và về sự hiện diện thánh thiêng của Thiên Chúa: “Trong ba ngày, người ta không nhìn thấy nhau
và không ai rời chỗ mình được. Nhưng tất cả con cái Israel đều có ánh sáng tại
nơi họ ở” (Xuất hành 10:23).
Ánh sáng tượng trưng cho sự
tốt lành, đối lập với cái ác liên quan đến bóng tối, nên các tác giả Kinh thánh
hiểu Thiên Chúa là Ánh sáng tốt lành, là sự thánh thiện tối thượng. Ánh sáng biểu
thị sự hiện diện và ân huệ của Thiên Chúa: “Chúa
là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi, tôi còn sợ người nào?” (Tv 27:1), trái
ngược với sự xét xử của Thiên Chúa: “Ngày
của Chúa sẽ là gì cho các ngươi ? Ngày đó sẽ là tối tăm, chứ không phải ánh
sáng” (Amốt 5:18). Xuyên suốt Cựu Ước, ánh sáng thường xuyên được liên kết
với Thiên Chúa và lời của Ngài, với ơn cứu độ, với sự tốt lành, với sự thật, với
sự sống. Tân Ước cộng hưởng với những chủ đề này, do đó sự thánh thiện của Thiên
Chúa được trình bày theo cách: “Chỉ mình
Ngài là Đấng trường sinh bất tử, ngự trong ánh sáng siêu phàm, Đấng không một
người nào đã thấy hay có thể thấy” (1Tm 6:16). Thiên Chúa là sự sáng: “Ở nơi Ngài là sự sống, và sự sống là ánh
sáng cho nhân loại” (1 Gn 1:4) và là ánh sáng
vĩnh cửu: “Ngài không hề có sự thay đổi,
cũng không hề có sự chuyển vần khi tối khi sáng” (Gc 1:17) là Đấng xua tan
bóng tối: “Ánh sáng chiếu soi trong bóng
tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng” (1 Gn 1:5)
3. Muối cho đời và ánh sáng cho trần gian
Trong đôi mắt thần thiêng
của Chúa Giêsu, chúng ta cũng giống như muối và như ánh sáng.
Giống như muối, môn đệ của
Chúa Kitô cũng có sứ mạng:
• Gia tăng
chất lượng ‘hương vị” cuộc sống của người khác bằng cách khơi dậy những điều tốt
đẹp nơi họ.
• Bảo vệ ơn
gọi nên thánh qua tình yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Họ hy sinh và
tha thứ cho nhau. Họ giúp đỡ nhau hết lòng mà không mong nhận lại điều gì. Họ
không phán xét người khác và không nói xấu hay đố kỵ họ. Họ chấp nhận mọi người
cho dù những người ấy là ai.
• Giữ gìn
những người khác tinh sạch bằng cách kiên quyết bảo vệ sự thật trước đôi mắt của
Thiên Chúa. Họ không thể thuận theo những người mà họ biết là đang làm những điều
sai trái và tội lỗi; họ phải đứng vững trong những gì là sự thật, những gì là tốt
lành và những gì là đúng đắn, giúp người khác sửa mình trong tình yêu thương với
ơn của Chúa Thánh Thần.
Giống như ánh sáng, môn đệ
của Chúa Kitô phải:
• Tỏa sáng
rực rỡ. Trong Chúa Giêsu là ánh sáng thật của thế gian, họ được yêu cầu phản
chiếu ánh sáng đó cho những người khác qua lời nói và việc làm, qua lựa chọn và
lối sống, ngay cả qua thái độ của họ khi ở trước mặt người khác - dẹp bỏ những
đùa cợt dơ bẩn hoặc tục tĩu, trước mắt hoặc trên các phương tiện thông tin. Giống
như thành phố trên đỉnh núi và ánh sáng được nhìn thấy chứ không phải bị che đậy
dưới đáy thùng, mọi người phải thấy những hành động động tử tế, rộng lượng, tốt
bụng và yêu thương của họ.
Muối ướp mặn và ánh sáng tỏa
chiếu không phải dành cho chính chúng nhưng là dành cho mọi thứ chung quanh
chúng. Là muối và ánh sáng theo Lời kêu mời cùa Chúa Giêsu, môn đệ của Chúa
Kitô không sống qui về chính mình, nhưng là giúp ích cho người khác, dù vị mặn
và sự sáng từ cuộc sống của người Kitô hữu đích thực có thể gây ra những chống
đối như Chúa Giêsu đã từng nếm trải, vì chúng gây xót buốt cho những thói hư tật
xấu hoặc soi rõ và làm lộ ra những góc tối tăm trong tâm hồn của những người
chung quanh: “Người Pharisêu và kinh sư hỏi
Chúa Giêsu: "Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân,
cứ để tay ô uế mà dùng bữa” (Mc 7: 5-8). Người ta thậm chí còn bày mưu tìm
cớ giết Chúa Giêsu vì những lời thẳng thật và hành động tốt lành của Ngài nhưng
không theo lối nghĩ và cách sống của họ: “Chúa
Giêsu lại vào hội đường. Ở đó có một người bị bại tay. Họ rình xem Chúa Giêsu
có chữa người ấy ngày sabát không, để tố cáo Ngài. Chúa Giêsu bảo người bại
tay: "Anh trỗi dậy, ra giữa đây! " Rồi Ngài nói với họ: "Ngày
sabát, được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay giết đi? "
Nhưng họ làm thinh. Chúa Giêsu giận dữ rảo mắt nhìn họ, buồn khổ vì lòng họ
chai đá. Ngài bảo anh bại tay: "Anh giơ tay ra! " Người ấy giơ ra, và
tay liền trở lại bình thường. Ra khỏi đó, nhóm Pharisêu lập tức bàn tính với
phe Hêrôđê, để tìm cách giết Chúa Giêsu” (Mc 3: 1-6).
Vị mặn và ánh sáng nơi
Kitô hữu là bởi Chúa chứ không phải bởi họ. Kitô hữu là người đã được tẩy rửa khỏi
bóng tối tội lỗi và sự khô khan lạt lẽo trong tâm hồn, là môn đệ được sai đi và
được mời gọi trở thành một Tin Mừng sống động trong cuộc đời. Với một đời sống
thánh thiện, họ sẽ “thêm hương vị” cho những môi trường khác nhau, và giống như
muối, bảo vệ những môi trường ấy khỏi mục rữa; và họ sẽ tỏa ánh sáng của Chúa qua
cách sống bác ái chân thật. Nhưng nếu chính họ đánh mất hương vị này và không sống
như muối và ánh sáng, họ sẽ đánh mất giá trị của mình: “Quả thật, ai nấy sẽ được luyện bằng lửa như thể ướp bằng muối. Muối là
cái gì tốt. Nhưng muối mà hết mặn, thì anh em sẽ lấy gì ướp cho mặn lại? Anh em
hãy giữ muối trong lòng anh em, và sống hoà thuận với nhau” (Mc 9: 49). Ướp
mặn trần gian và mang lại ánh sáng cho thế giới này là sứ mệnh của Kitô hữu. Tỏa
sáng và tỏa hương không phải của riêng mình, mà là của Thiên Chúa, trong Chúa
Giêsu Kitô. Nếu một Kitô hữu tắt ánh sáng này và trở nên lạt vị, thì người ấy
chỉ là một môn đệ hữu danh vô thực.
Bây giờ tôi tự hỏi mình, tôi
muốn sống như thế nào? Là ngọn đèn đang tỏa sáng hay đã tắt ngấm? Là muối còn vị
mặn hay đã trở nên lạt lẽo? Chúng ta hãy như những ngọn đèn đang tỏa sáng và muối
ướp mặn cho đời! Đây là bản chất của Kitô hữu.
Phêrô Phạm Văn Trung.