Tình yêu là gì? Đó
là một câu hỏi lâu đời. Hơn nữa, lúc nào chúng ta cũng cảm thấy cần “yêu và được
yêu” – thông qua các phương tiện truyền thông của chúng ta, từ các linh mục của
chúng ta, từ Đức Thánh Cha của chúng ta. Nhưng tình yêu là gì? Câu trả lời của
chúng ta về tình yêu là gì có hệ quả vô cùng quan trọng. Đáng buồn thay, hầu hết
những người cổ vũ tình yêu đều quảng bá cho tình yêu giả tạo theo kiểu Satan.
Giáo lý định
nghĩa tình yêu là “Yêu là muốn điều thiện
cho người khác (T. Tôma Aquinô, Tổng Luận Thần Học 1-2, 26,4)” (GLCG số1766). Sự hiểu biết về tình yêu này được bổ sung bởi định
nghĩa của nhân đức đối thần về tình yêu (hay “đức mến”), “Đức mến là nhân đức đối thần, nhờ đó, chúng ta yêu mến Thiên Chúa trên
hết mọi sự vì chính Chúa, và vì yêu mến Thiên Chúa, chúng ta yêu mến người thân
cận như chính mình.”( GLCG số 1822). Đức mến, như Giáo hội định nghĩa một cách
chính thức trong giáo lý, mà chúng ta là những người Công giáo có bổn phận phải
đồng ý, như là ý nghĩa và sự thể hiện đầy
đủ và đích thực của tình yêu, chứ không hiểu như “sự xác quyết” về tội lỗi và bản
chất tội lỗi của một con người. Tình yêu không được định nghĩa như là sự chiếu
cố chấp thuận hoặc cho phép những người khác tham gia vào nhóm của mình.
Theo giáo huấn
không thể sai lầm, tình yêu đích thực là yêu mến Thiên Chúa và ước ao người
khác yêu mến Thiên Chúa. Do đó, điều này đòi hỏi chúng ta phải hiểu biết phần
nào đó về Thiên Chúa (Đấng là Chân lý, Khôn Ngoan và Tình yêu). Thiên Chúa là
Tác giả của Luật Luân Lý mà chúng ta phải tuân theo - với sự trợ giúp của các
bí tích và giáo huấn của Giáo hội. Thiên Chúa cũng là Đấng Thiện Hảo Tối Cao,
như Giáo Lý đã nói rõ, vì chúng ta phải
“yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi,
với tất cả trái tim ngươi, tất cả linh hồn ngươi, tất cả trí khôn ngươi” (Đnl
6, 5). Yêu những thứ vắng bóng Thiên Chúa, khi chúng trở thành đối tượng yêu quý
nhất cho tình cảm của chúng ta, là chúng ta rơi vào tội lỗi hay - nói đúng hơn
- là thờ ngẫu tượng. Hậu quả là sự nhầm lẫn này sẽ bén rễ và thống trị mọi thứ.
Thiên Chúa là Đấng
Tốt Lành Cao Cả nhất và Ngài thoả nguyện lòng khao khát của chúng ta, điều này
được Chúa Giêsu Kitô nhắc lại khi Ngài tóm tắt toàn bộ Lề Luật trong một điều:
yêu mến Thiên Chúa (và người lân cận: “Ngươi
phải yêu mến đồng loại như chính mình” (Lv 19, 18), trong đó Thiên Chúa được
nói đến trước). Điều đó cũng được Chúa Kitô bày tỏ bằng lối nói cường điệu hơn
khi Ngài nói rằng để trở thành môn đồ của Ngài, người ta phải từ bỏ cha mẹ và
anh chị em của mình: “Ai đến với tôi mà
không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì
không thể làm môn đệ tôi được” (Luca 14: 26). Có nghĩa là, nếu gia đình của
bạn ham mê trong tội lỗi, bạn phải tách mình ra khỏi cái nơi ô uế kéo bạn xuống
địa ngục đó và ôm lấy gia đình trên trời của bạn trong chuyến hành hương nhắm đến
hiệp nhất với Thiên Chúa.
Một phần của vấn đề
lòng mến của Kitô hữu ngày nay là Thuyết Phổ Độ [1]- chủ trương rằng Thiên Chúa
ban ơn cứu độ cho mọi người, bất kể họ có muốn hay không - đang lan tràn hung
hăng trong Giáo hội và trong tâm hồn Kitô hữu. Việc chấp nhận thuyết phổ độ này
một cách hiển nhiên, hoặc ngấm ngầm, dẫn đến sự hy vọng Thiên Chúa ban ơn cứu độ
cho mọi người bất kể họ muốn hay không muốn, gây hại cho sự hiểu biết của Kitô
hữu về tình yêu, vì yêu thương, như Giáo lý nói, là “mong muốn điều tốt lành
cho người khác”. Vậy thì, chúng ta sẽ chẳng đạt được ơn ích gì khi mong muốn
làm điều tốt lành cho người khác, vì rốt cuộc ai cũng đạt được mục đích vĩnh cửu
của linh hồn mình.
Yêu thương người
lân cận của bạn là mong muốn người ấy đến với Thiên Chúa. Tất nhiên, điều này
chỉ có hiệu quả nếu có một hỏa ngục đời đời và sự trầm luân đang chờ đợi những
linh hồn tội lỗi và ngoan cố, những người đã chọn của cải khác thay vì chọn Đấng
Thiện Hảo Tối Cao. Lại nữa, nếu một người chỉ nhắm đến chuyện vui hưởng Thiên
Chúa cho chính mình bằng mọi cách, thì không có gì bắt buộc người ấy phải “mong
muốn điều tốt lành cho người khác”. Nói một cách nghiêm túc, chúng ta không thể
yêu thương thực sự khi hiểu thuật ngữ này theo bất cứ lối hiểu nào.
Giáo lý khẳng định chính
thức sự tồn tại của hỏa ngục: “Chúng ta
không thể kết hiệp với Thiên Chúa, nếu không tự nguyện yêu mến Ngài. Nhưng
chúng ta không thể yêu mến Ngài, nếu chúng ta phạm tội trọng phản nghịch Ngài,
ngược lại lợi ích của người khác và chính mình: "Kẻ không yêu thương thì
còn ở trong sự chết. Phàm ai ghét anh em mình thì là kẻ sát nhân. Và anh em biết:
không một kẻ sát nhân nào có sự sống đời đời ở trong nó" (1Ga 3,15). Chúa
Giêsu cảnh cáo: chúng ta sẽ bị tách xa Ngài, nếu chúng ta bỏ qua không đáp ứng
những nhu cầu khẩn thiết của người nghèo và những người bé mọn là anh em của
Ngài (x. Mt 10,28). Chết mà còn mang tội trọng, không hối cải, không đón nhận
tình yêu nhân hậu của Chúa có nghĩa là phải xa cách Ngài đời đời, vì chính
chúng ta đã tự do lựa chọn. "Hỏa ngục" chính là tình trạng con người
dứt khoát tự loại trừ khỏi sự hiệp thông với Thiên Chúa và chư thánh” (GLCG
số1033-1037).
Trong khi người ta
có thể chơi trò chơi chữ như bất cứ nhà ngụy biện giỏi giang nào rằng Giáo hội
chưa bao giờ chính thức kết án bất kỳ ai xuống địa ngục (vì đó làm điều đó không
phải là sứ mệnh của Giáo hội), sức nặng của Kinh thánh và Tông Truyền không chỉ
khẳng định có hỏa ngục mà còn là một hỏa ngục rất đông người. Cả Thánh Phaolô và Thánh
Gioan đều đưa ra một danh sách dài những tội lỗi mà các Kitô hữu có thể phạm phải
khiến họ bị từ chối vào thiên đàng: “Những
việc do tính xác thịt gây ra thì ai cũng rõ, đó là: dâm bôn, ô uế, phóng đãng,
thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ,
bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy. Tôi bảo
trước cho mà biết, như tôi đã từng bảo: những kẻ làm các điều đó sẽ không được
thừa hưởng Nước Thiên Chúa.” (Galát 5,19-20), và “Anh em
đừng yêu thế gian và những gì ở trong thế gian. Kẻ nào yêu thế gian thì nơi kẻ ấy
không có lòng mến Chúa Cha, vì mọi sự trong thế gian như: dục vọng của tính xác
thịt, dục vọng của đôi mắt và thói cậy mình có của, tất cả những cái đó không
phát xuất từ Chúa Cha, nhưng phát xuất từ thế gian, mà thế gian đang qua đi
cùng với dục vọng của nó. Còn ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa thì tồn tại mãi
mãi” (1 Gioan 2,15-17).
Chúa Giêsu Kitô
cũng nói, bằng chính ngôn ngữ từ miệng Ngài, rằng nhiều người sẽ đến với Ngài
vào Ngày Phán xét và Ngài sẽ xua đuổi họ
đi: “Các anh đấy ư? Ta không biết các anh
từ đâu đến!’ Bấy giờ anh em mới nói: ‘Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt
ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi’. Nhưng
ông sẽ đáp lại: ‘Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi
tất cả những quân làm điều bất chính!” (Lc 13:24-27) và: “Con Người sẽ sai các thiên thần của Ngài tập
trung mọi kẻ làm gương mù gương xấu và mọi kẻ làm điều gian ác, mà tống ra khỏi
Nước của Ngài, rồi quăng chúng vào lò lửa; ở đó, chúng sẽ phải khóc lóc nghiến
răng” (Mt 13:41-42).
Giáo hội đã có lịch
sử lâu dài để giải thích và suy tư và đều khẳng định thực tế có hỏa ngục và sự trầm
luân đang chờ đợi những kẻ gian ác: “Hội
Thánh dạy rằng có hỏa ngục và án phạt đời đời. Ngay sau khi chết, linh hồn kẻ
còn mắc tội trọng sẽ xuống hỏa ngục chịu cực hình "lửa đời đời" (x.DS
76; 409; 411; 801; 858; 1002; 1351; 1575; SPF 12). Vì chỉ nơi Thiên Chúa, con
người mới tìm được sự sống và hạnh phúc hằng khao khát, nên cực hình chính của
hỏa ngục là đời đời bị tách khỏi Thiên Chúa. Những điều Kinh Thánh xác quyết và
Hội Thánh dạy về hỏa ngục là lời mời gọi con người phải có trách nhiệm sử dụng
tự do để đạt tới hạnh phúc đời đời; đồng thời thúc giục chúng ta ăn năn hối cải
: "Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường rộng thì đưa tới diệt
vong, mà nhiều người lại đi qua đó; còn cửa hẹp và đường hẹp thì đưa đến sự sống,
nhưng ít người tìm được lối ấy" (Mt 7,13-14) :396
"Vì không biết ngày và giờ, chúng ta phải theo lời Chúa dạy,
luôn tỉnh thức, để khi cuộc đời độc nhất của chúng ta ở trần gian chấm dứt,
chúng ta xứng đáng vào dự tiệc cưới với Ngài và được liệt vào số người được
chúc phúc (x.Mt 25,31-46), chứ không như những tôi tớ khốn nạn và lười biếng
(x.Mt 25,26) sẽ bị đẩy vào lửa đời đời (x.Mt 25,41), vào chốn tối tăm, nơi khóc
lóc và nghiến răng" (LG 48).”
(GLCG số1034-1036).
Với thực tế có tội
lỗi và hỏa ngục (là điều mà những người theo chủ nghĩa tự do đều phủ nhận hoặc
cố gắng che đậy), mệnh lệnh yêu thương càng khẩn thiết hơn. Những con sói đội lốt
trang phục Công giáo đưa ra một phiên bản tình yêu giả tạo theo kiểu Satan, dẫn
đưa tội nhân đến hỏa ngục khi chúng ôm họ và hôn họ trên đường đi, khiến họ cảm
thấy mình “được yêu”, nhưng kỳ thực họ đang đi trên con đường dẫn đến đớn đau
và khốn khổ đời đời. Đó không phải là tình yêu đích thực.
Những người chống lại
thứ yêu thương giả tạo đang thống trị tâm trí con người hiện đại và thần học
đương đại là những người thực sự yêu thương người khác. Chúng ta không mong muốn
nhìn thấy những linh hồn tan nát, khóc lóc, và bị tổn thương đang kêu gào xin được
hướng dẫn, bị sự tàn ác nhẫn tâm dẫn dắt đến hàm răng của sự trầm luân. Nhưng
đó chính xác là những gì bầy sói đang làm - chúng tàn nhẫn dẫn đưa những linh hồn
cần được chữa lành đến sự trầm luân nhân danh “tình yêu”.
Cách hiểu truyền thống
của Công giáo về Satan là: hắn là kẻ phá hỏng tầy đình. Satan không phải là
Thiên Chúa, vì vậy nó không thể sáng tạo, chữa lành hoặc cứu rỗi. Thay vào đó, nó
chỉ có thể làm hư hỏng.
Satan chỉ bắt chước
làm “nhái” theo Thiên Chúa nhưng lại phá hỏng những gì Thiên Chúa đã sáng tạo
ra. Do đó, Satan làm hỏng sự hiểu biết của chúng ta về tình yêu đích thực. Những
người tuyên bố rằng tình yêu là bất cứ điều gì khác trừ việc sẵn lòng vì lợi
ích của người khác, thì họ chẳng kém gì những đội quân đột kích của Satan, dù cố
ý hay vô tình. Những ai tuyên bố rằng tình yêu là dẫn đưa tội nhân đến với Thiên
Chúa vì lợi ích của tội nhân, giống như Chúa Kitô dẫn đưa tội nhân đến với Thiên
Chúa với điều kiện “Từ nay đừng phạm tội
nữa!” (Gioan 8:11 ) là những người thực sự yêu thương.
Trong một thế giới
ngập tràn ngôn ngữ của tình yêu, sự thật thánh thiện phải sàng lọc cỏ lùng
trong thời điểm bi thảm này. Nếu không như thế sẽ là chiến thắng của cái ác và
sự trầm luân của nhiều người. Hầu hết những người nói về tình yêu đều không biết
tình yêu đích thực là gì. Nếu Giáo Hội là một bệnh viện dã chiến, thì Giáo Hội
cũng phải trở về với thực tại tình yêu đích thực, là liều thuốc thực sự của tâm
hồn, vì không có sự chữa lành nào được hoàn tất nếu không có sự thánh hóa linh
hồn và kết hợp với Thiên Chúa qua Chúa Kitô. Vâng, chúng ta hãy quan tâm đến những
người tội lỗi, nhưng chúng ta hãy khát mong họ thoát khỏi tội lỗi và dẫn đưa họ
đến với Thiên Chúa để họ được chữa lành và yêu thương thực sự, là điều mà họ cần
đến.
Phêrô Phạm Văn
Trung chuyển ngữ,
theo Paul Krause, https://www.crisismagazine.com.
[1] Chú thích của người dịch - Universalism: Thuyết Phổ Độ, về cơ
bản, tin rằng mọi người đều được cứu độ. Sự chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu
sẽ cứu tất cả nhân loại. Không cần có sự ăn năn hối cải của cá nhân và không cần
tin vào Đức Kitô mới được vào Nước Trời. Những người theo Thuyết Phổ Độ chủ
trương một Giáo Hội có “sự tha thứ không cần sự ăn năn, có ơn cứu độ không cần
sự tái sinh... có một Nước Trời không có Hỏa Ngục.”