Đối với phần đông chúng ta,
phân đoạn Thánh Kinh này thật khó hiểu. Bởi nó được phát biểu bằng một ngôn ngữ
của một thế giới hoàn toàn xa lạ với chúng ta, có thể là ghê rợn và thô kệch
nữa: ăn thịt người, uống máu bạn. Nhưng chúng ta phải nhớ điều này, với thế
giới thời cổ, nó cũng khá quen thuộc.
Vào thời cổ, khi dâng sinh
tế, con vật ít khi được thiêu hủy trọn vẹn, dẫu là toàn thiêu, nhưng thường chỉ
được thiêu một phần tượng trưng nơi bàn thờ, tuy là toàn thể con vật được dâng
lên cho vị thần. Một phần thịt được chia cho các thầy tế lễ kể như thù lao của
họ, một phần khác được chia lại cho người dâng lễ tế, để người ấy tổ chức bữa
tiệc thiết đãi bạn bè mình ngay trong khuôn viên đền thờ. Trong bữa tiệc ấy vị
thần cũng được xem như một vị khách. Hơn nữa, khi thịt đã dâng cho thần rồi,
người ta cho rằng thần đã nhập vào đó, nên khi người ta ăn thịt ấy, là ăn chính
vị thần của mình.
Tuy vậy, người Do Thái không
phải thuộc thời thượng cổ, nên lời nói của Chúa, “nhai thịt người ta và uống
máu kẻ khác” vẫn là sống sượng.
Đoạn Tin Mừng này có thể nói
gồm bốn chi tiết :
1- Phản ứng.
Trước hết là phản ứng
của người Do thái về lời tuyên bố của Chúa Giêsu, khi Chúa nói thịt Ngài là của
ăn ban cho họ được sống muôn đời. Phản ứng của họ lần này có vẻ mạnh hơn trước.
Họ xô xát và tranh luận với nhau. Gioan ghi : "Họ tranh luận sôi nổi".
Lần trước, Chúa Giêsu nói Ngài là bánh từ trời, họ bảo ông từ đất thì có, vì bố
ông là Giuse, mẹ ông là Maria sờ sờ ra đó, chứ đâu phải từ trời. Lần này lại
dám nói bánh đó là thịt. Ai ăn thịt Ngài thì được sống. Người Do Thái đã hiểu
lời Chúa theo nghĩa đen: Là một người như họ, làm sao có thể lấy thịt mình cho
họ ăn? Giêsu đâu phải là Thoại Khanh (1) để lóc thịt đùi nấu canh cho mẹ chồng
khi chồng là Châu Tuấn đang bị đày đi sứ. Giêsu cũng chẳng phải là Giới Tử Thôi
(2) lấy thịt đùi mình nấu dâng Tấn Văn Công trên đường chạy nạn cạn lương.
2. Không cải chánh.
Trước phản ứng có vẻ dữ dội
của người Do thái, Chúa Giêsu vẫn không rút lời, không cải chính, nhưng còn giải
thích và khẳng định thêm: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời,
và tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết”, nghĩa là hiệu năng dinh
dưỡng mà thịt máu Chúa đem lại cho kẻ lãnh nhận, là sự sống muôn đời và sự phục
sinh từ trong cõi chết. Hơn xa “thực phẩm chức năng” mà có thời làm mưa gió tại
nước ta: bán rất đắt, nhiều người bỏ tiền triệu mua, xem như của ăn tiên phật.
Nhưng thất vọng. Làm sao bằng thần lương của Chúa được.
3- Tác động.
Chúa Giêsu cho biết của ăn
của uống này tác
động như thế nào. Của ăn vật chất chúng ta ăn thì biến thành thịt
máu ta. Chúng ta ăn thịt heo, thì thịt heo thành thịt máu 'ta', chứ không phải ta thành con lợn. Còn thịt máu Chúa mà chúng ta
ăn, chúng ta uống, lại đưa chúng ta vào một sự kết hiệp mật thiết với Ngài: “Ai
ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy”. Tức
là ngược lại: ta nên giống Chúa. Thánh Phaolô nói kiểu khác mà cũng một ý tưởng
: "Tôi sống, không phải tôi sống, mà
Chúa Kitô sống trong tôi" (Gl 3,20)
4- So sánh.
Cuối cùng, Chúa Giêsu nhắc
lại hiệu lực của manna cũ để so sánh với hiệu lực của manna mới: manna cũ,
những người ăn đã chết. Manna mới, những người ăn sẽ sống đời đời. Chính người
Do thái gợi ra câu chuyện manna, thì Chúa Giêsu lại dùng ngay câu chuyện ấy để
so sánh và mạc khải về bánh bởi trời đích thực, bánh ban sự sống muôn đời. Ăn
Chúa, tức kết hợp làm một với Chúa, trở nên như Chúa, mà Chúa hằng sống đời
đời, nên ta cũng đời đời hằng sống.
Ngày nay không ai thắc mắc
như người Do Thái xưa, vì không thấy thịt sống, máu tươi ở đâu cả, mà chỉ thấy
có bánh và rượu. Nhưng đó đích thực là Thịt và Máu Chúa thật, ẩn dưới hình thức
rượu và bánh, chứ không phải bánh 'tượng
trưng' cho Thịt, rượu 'tượng trưng' cho Máu đâu. Ai ăn bánh này, sẽ nên một
với Chúa, và kết hợp với nhau. Ai cũng có một phần đều nhau, ai cũng thoả mãn.
Một lần kia, có một người
thương gia giàu có. Trong nhà ông còn có người con trai ông vừa mới lập gia
đình và vợ anh. Người con trai có tấm lòng nhân hậu và ân cần làm việc bác ái,
giúp đỡ người nghèo.
Ít lâu sau, người vợ trẻ
sinh một bé trai. Để ăn mừng, ông nội của bé chuẩn bị một bữa tiệc lớn. Gần đến
ngày tổ chức bữa tiệc, người con hỏi:
“Thưa
cha, xin cha cho con biết, cha định sắp xếp chỗ ngồi cho khách như thế nào? Nếu
cha theo đúng tục lệ xếp người giàu ngồi ở đầu bàn và người nghèo ở cuối cùng,
gần bếp, điều ấy sẽ làm con khổ tâm. Cha biết rất rõ con yêu thương người nghèo
như thế nào. Vì đây là tiệc mừng của con, xin cha cho con tôn vinh những người
không có danh phận. Xin cha hứa với con cha sẽ xếp người nghèo ở đầu bàn và
người giàu ở cuối bàn, gần khói bếp”.
Cha của anh lắng nghe chăm
chú và đáp lại: “Con ơi, khó mà thay đổi thế gian. Con thử nghĩ xem: Tại sao
người nghèo đến dự tiệc? Bởi vì họ đói và muốn ăn thức ăn ngon. Tại sao người
giàu đến dự tiệc? Để được vinh dự. Họ đến không phải để ăn, bởi vì nhà họ có
đầy đủ.
“Bây giờ con hãy tưởng tượng
điều gì sẽ xảy ra khi xếp người nghèo ở đầu bàn. Họ ngồi đó, cảm thấy rất e dè
như mọi con mắt đang nhìn mình, và vì thế họ thẹn thùng không dám ăn cho thật
no. Và thế là họ không thưởng thức trọn vẹn những món họ ăn. Con không nghĩ, vì
quyền lợi của họ, tốt hơn nên xếp cho họ ngồi chỗ không ai để ý đến, ở đó họ có
thể ăn uống thỏa thuê mà không phải xấu hổ đó sao?
“Còn nữa, giả sử cha làm
theo điều con yêu cầu và xếp người giàu ngồi ở cửa ra vào. Con không nghĩ họ sẽ
cảm thấy bị xúc phạm sao? Họ không đến để ăn mà vì vinh dự. Và phải chăng con
không cho họ điều mà họ muốn sao?"
Vậy là cứ xếp theo lối cũ,
bữa ăn làm cho ai cũng thoả mãn.
Vào thời các tông đồ, có bữa
ăn agape trước “bữa ăn của Chúa” (thánh lễ bây giờ). Người giàu mang đồ ăn đến
để say sưa, người nghèo đói meo không có gì (x. 1Cr 11, 17tt). Bữa ăn agape đã
biến mất sau đó, để rồi nay dự “bữa ăn của Chúa” ai nấy đều thoả mãn, vì ai
cũng như ai, một miếng bánh nhỏ, nhưng gói giá trị to là chính Thân Thể Chúa.
Khi đưa Mình Thánh cho một
người đau liệt gần chết, tôi đọc đoạn Lời Chúa này, “Ai ăn Thịt Ta sẽ được sống
muôn đời,” tôi thấy những giọt lệ lăn trên mắt người liệt. Lúc đó ta mới thấy
giá trị của bánh hằng sống là thịt của Chúa. Lúc gần chết mới thấy ý nghĩa bánh
sự sống.
tt Anphong Nguyễn Công Minh,
ofm
(có
dùng một gợi ý của cha Hàm)
________________________