QUÀ TẶNG TIN MỪNG
Chúa Nhật XIII Thường Niên B
Kính mời theo dõi video tại đây :
https://bit.ly/35UcSA3
Đã
bao nhiêu lần, chúng ta đọc trong các thiệp tang: “Trong niềm tin vào Chúa Kitô
Phục Sinh, gia đình tang quyến chúng tôi xin kính báo: Ông/Bà... được Chúa gọi
về...”
Hoặc là: “Gia đình chúng tôi vô
cùng thương tiếc báo tin:
Ông/Bà... vừa được Chúa gọi
về...”
Có
phải thật sự Chúa gọi người này về hay không?
Nếu người chết là một người trẻ hoặc một em bé đang tràn đầy sức sống,
chúng ta cũng cho là Chúa gọi về hay sao ? Đáng lẽ phải nói “đã
về nhà Cha”
hoặc “đã
an nghỉ trong Chúa”,
để Chúa khỏi bị trách oan!
Đã bao nhiêu lần, chúng ta hát thánh
vịnh 125 do cha Kim Long phổ nhạc: “Khi
Chúa thương gọi tôi về, hồn tôi hân hoan như trong một giấc mơ”. Trong
thánh vịnh 125, dân Do Thái ca tụng và tạ ơn Chúa
vì Ngài dẫn đưa họ trở về Đất Hứa sau bao nhiêu năm lưu
đày: “Khi Chúa dẫn tù nhân Sion trở về, ta
tưởng mình như giữa giấc mơ. Vang vang ngoài miệng câu cười nói, rộn rã trên
môi khúc nhạc mừng... Việc Chúa làm cho ta, ôi vĩ đại! ta thấy mình chan chứa
một niềm vui.” (c. 1-2.4). Thánh vịnh 125 thuộc
thể loại “Ca khúc lên Đền”,
là một bài ca vui mừng và tạ ơn Thiên Chúa.
Người Do Thái thường hát thánh vịnh này trước ngày lễ sabát và các ngày lễ của
họ. Tại sao chúng ta lại
“dám” hát thánh vịnh này trong thánh lễ an táng? Thật là bất cẩn và vô tâm khi
tang quyến đang buồn sầu khóc than!
Đã bao nhiêu lần, chúng ta nghe những
lời an ủi như thế này trong các đám tang: “Anh/Chị vui lòng chấp
nhận thánh ý Chúa...”, hoặc là: “chấp
nhận những thử thách Chúa gửi tới...”
Không! Chúa không gọi ai cả ! Chúa
không muốn ai chết sớm cả! Chúa không thử thách và phạt ai cả! Chúa không muốn
điều xấu cho ai và làm hại ai cả! Chúa không muốn cái chết của bất kỳ
ai, ngay cả kẻ tội lỗi! (Ed 18, 21-23) Chính Chúa Giêsu đã khóc
trước cái chết của người bạn là Ladarô cơ mà! (Ga 11, 34)
Chúng ta hãy đọc lại câu đầu tiên của
bài đọc I, (CN13 TN- B), trích từ sách Khôn Ngoan: “Thiên
Chúa không làm ra cái chết, chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong”. Thật
quá rõ ràng ! Chúa tạo dựng con người và muôn loài muôn vật. Và Chúa muốn
tôn trọng sự tự do và độc lập của mọi thụ tạo. Mà
mọi loài thụ tạo đều phải tuân theo quy luật tự nhiên: sinh ra, lớn lên và chết
đi. Như thế, bệnh tật, tai nạn, thiên tai... không đến từ Thiên Chúa!
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại hai phép
lạ: người phụ nữ bị băng huyết suốt mười hai năm được chữa lành, và con gái của
ông trưởng hội đường Giaia được sống lại. Trong cả hai trường hợp, Chúa Giêsu
ban ơn chữa lành và ơn cứu độ cho họ. Tại sao vậy? Bởi vì, người
phụ nữ và cha của đứa bé đã không bỏ cuộc. Bởi
vì cả hai người này không bao giờ nghĩ, và không bao giờ nói : “Đó là
thánh ý Chúa... Đến giờ Chúa gọi nó về, mình phải chấp nhận thôi!”
Người phụ nữ bị băng huyết đau khổ rất
nhiều, không chỉ vì bệnh tật của mình, mà còn vì bị loại trừ khỏi mọi đời sống
xã hội. Tuy nhiên, bà không cam chịu, thậm chí bất chấp mọi sự ngăn cấm, dị
nghị mà dám lách qua đám đông, tiến đến phía sau Chúa Giêsu. Chắc chắn là đức
tin của bà đang ở mức độ thấp nhất vì bà nghĩ Chúa Giêsu chỉ là một người chữa
bệnh, môt thầy lang mà thôi.
Chúa đến để đồng hành với chúng ta trên
con đường riêng của mỗi người. Ngài vào trong lôgích của chúng ta, ngay cả
những lôgích lệch lạc, để dẫn chúng ta đi xa hơn. Chúa
muốn người phụ nữ được chữa lành này không đứng ở sau lưng Ngài nữa, mà đối
diện và đối thoại với Ngài. Chúng ta không ăn trộm
tình yêu của Chúa, chúng ta đón nhận tình yêu ấy trong đức tin.
Người phụ nữ phải công khai nói những gì đã xảy ra với mình. Sau đó, và chỉ khi
đó, Chúa Giêsu mới có thể nói bà: “Này con, lòng tin của
con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh”. Không
những bà được chữa bệnh, mà còn được cứu, vì bà vừa chuyển tình
trạng sợ hãi và mê tín sang niềm tin đích thật, đó là niềm tin tuyệt đối vào Ngài
là Đấng Ban Sự Sống.
Còn về con gái của ông trưởng hội đường
Giaia, ông không còn gì để mất. Ông ta làm điều mà bất cứ ai trong trường hợp
như ông cũng sẽ làm như vậy, đó là chạy đến với vị lương y đang đi ngang qua
đó. Chúa Giêsu là phương sách cuối cùng, khi mọi người đã bỏ cuộc chống lại
bệnh tật. Nhưng ông ta không chịu bỏ cuộc. Chúa Giêsu nói với ông ta: “Ông
đừng sợ, chỉ cần tin thôi”. Ông ta chỉ xin một dấu hiệu ma
thuật (đặt tay), nhưng Chúa Chúa Giêsu còn làm nhiều hơn nữa: Ngài cầm lấy tay
cô bé đã chết và cho nó sống lại.
Sứ Điệp của Tin Mừng hôm nay gởi đến
chúng ta ba bài học:
- Trước tiên, về việc chữa lành bệnh cho
người phụ nữ, Tin Mừng cho chúng ta biết rằng có một đám rất đông đang chen lấn
để được nhìn thấy Chúa Giêsu. Nhiều người đã chạm được vào Ngài, nhưng chỉ có
một người được chữa lành. Trong Thánh Lễ, chúng ta đón nhận Mình Thánh Chúa
Kitô, nhưng có lẽ chúng ta không biết mình cần được chữa lành đến mức nào. Điều
quan trọng, không chỉ ở việc đón nhận Chúa Kitô, mà còn là đức tin của chúng ta
đặt trong cử chỉ này.
- Thứ hai, nhờ
đức tin của ông Giaia mà Chúa Giêsu đã làm cho con gái ông sống lại. Mỗi người
chúng ta cần đến đức tin của người khác. Điều này cho chúng ta ý thức về sự
liên đới của chúng ta. Nhiều lúc, khi cái chết đến gần, một số
tín hữu sợ hãi và khó chấp nhận tin vào sự sống vĩnh cửu, vào Thiên Chúa của sự
sống. Do đó, chúng ta phải dựa vào đức tin của những người khác,
của những người thân cận với họ và dựa vào đức tin của Giáo Hội.
- Cuối cùng, trước những đau khổ của con
người, Thiên Chúa không im lặng hoặc dửng dưng. Nơi Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã
sống và chia sẻ những đau khổ của con người. Hơn nữa, Ngài khơi lên trong chúng
ta một niềm hy vọng lớn lao rằng đau khổ và cái chết không phải là cùng tận,
như lời thánh Phaolô: “Cho dầu là sự chết hay sự sống,... hiện
tại hay tương lai,... không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên
Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta.” (Rm
8, 38-39)
Lm. Giuse Vũ Thái Hòa
Hẹn gặp lại