ƠN GỌI KITÔ HỮU
Ơn
gọi của Kitô hữu là những người được Chúa chọn qua bí
tích Thánh Tẩy để làm môn đệ Chúa. Trước hết ta phải xác định mình được Chúa Giêsu
chọn, gọi, chỉ có môn đệ Chúa là do chính Chúa chọn: „Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm
cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá“ (Mc 1,17); Khi chọn
môn đệ, Chúa Giêsu không theo tiêu chuẩn thế gian là chọn những người tài giỏi,
giàu có, tiếng tăm nổi trội v.v… Chúa Giêsu chỉ chọn những con người yếu đuối,
bất toàn của một thụ tạo để biến đổi họ nên tốt lành, nên nhân hậu, hầu làm
vinh danh Thiên Chúa Cha. Chúa chọn những người lao động chài lưới, ít học như
Simon, Andre, Giacôbê…, người thu thuế, như Matthêu (Mc 2,14b), Dakêu ( Lc
19,5-6).
Chúa chọn những người riêng làm linh mục, là
men là muối cho Ngài như các tông đồ tiên khởi. Ơn gọi linh mục được coi là một
ơn gọi cao cả, họ mang trong mình Chúa Giêsu hiện diện thiêng liêng vô hình. Họ
là hiện thân Giêsu giữa đời trên mọi nẻo đường, mọi văn hóa của mọi dân tộc.
Để trở thành người của Thiên
Chúa, họ phải luôn luôn ở trong tình yêu của Đức Giêsu, dù họ vẫn còn nhiều khuyết
điểm của con người trần gian. Họ là thợ gặt thánh thiện phản ánh dung mạo Chúa
Giêsu, biết thắp lên ngọn lửa tin yêu trong trái tim con người. Lòng Thương Xót
của Chúa Cha đồng hành với họ trong mọi lúc, trên mọi nẻo đường. Đây không phải
là một sự nghiệp, chức linh mục Công Giáo rất quý giá, là người được Chúa Giêsu
xức dầu, được Hội Thánh Công Giáo chăm sóc để các ngài chăm sóc những con chiên
của Chúa Giêsu.
Xã hội thời Chúa Giêsu, phụ nữ
bị rẻ rúng, bị khinh thường, Chúa yêu thương nâng họ lên, cho họ được giúp đỡ cộng
đoàn các môn đệ của Ngài trên đường đi rao giảng: „Cùng đi với Người, có nhóm Mười
Hai và mấy người phụ nữ đã được Người trừ quỷ và chữa bệnh. Đó là bà Maria gọi
là Maria Magdala, người được giải thoát khỏi bẩy quỷ, bà Gio-an-na, vơi ông
Khu-da quản lý của vua Hê-rô-dê, bà Su-san-na và nhiều bà khác nữa. Các bà đã lấy
của cải của mình mà giúp đỡ Đức Giêsu và các môn đệ“ (Lc 8,1b-3).
Làm môn đệ Chúa Giêsu, trước hết chúng ta phải xác nhận “Thầy
là Đấng Kitô“ (Mc 8,29b) và đặt lòng tin tuyệt đối phó thác vào Thầy
như anh mù được Chúa chữa cho sáng mắt: „Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh“ (Mc
10,52a), Làm môn đệ Chúa Giêsu là sẵn sàng yêu tha nhân bằng tình yêu tự
hiến, vô điều kiện, vô giới hạn „Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu
thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Không có tình yêu nào cao quý hơn
tình yêu của người hy sinh tính mạng vì bạn hữu“ (Ga 15,12-13). Làm môn
đệ Chúa Giêsu thì phải nên giống Ngài, từ bỏ mọi sự, của cải vật chất, từ bỏ
cái tôi để sống khiết tịnh vì Nước Trời.(x. Mt 19,11-12), để đi sâu vào trong mầu nhiệm Vượt Qua của
Chúa Giêsu, (x. Pl 3,8-11), vào cuộc hành trình từ cõi chết đến sự sống của Người. Theo Chúa là vác
thập giá mình mà theo con đường của Chúa, „Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác
thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai
liều mất mạng sống vì tôi và vì Tin Mừng
thì sẽ cứu được mạng sống ấy“ (Mc 9,34b).
Với những
Kitô hữu được gọi sống đời sống hôn nhân, khi nhận bí tích hôn phối đã có lời thề hứa „Tôi xin nhận (…) làm vợ/chồng và hứa sẽ giữ
lòng chung thủy với em/anh khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi bệnh hoạn
cũng như khi khỏe mạnh, để yêu thương và tôn trọng em/anh mọi ngày suốt đời tôi“.
Những lời giao ước trong bí tích này lâu dần bị quên lãng trong cuộc sống thường
ngày, bận rộn với đời sống cơm áo gạo tiền và bổn phận chăm sóc dạy dỗ con cái,
vì thế thường xảy ra những bất đồng, nếu cả hai không đặt tình yêu người bạn đời
trong tình yêu Chúa thì rất dễ đổ vỡ. Không yêu đủ thì không thể bao dung, tha
thứ cho nhau. Trong đời sống gia đình: người vợ chỉ sống cho chồng và con, người
chồng chỉ sống cho vợ và con. Con cái chỉ sống cho cha mẹ thì là một gia đình
lý tưởng và sống đúng theo bí tích hôn nhân mà mình đã thề hứa. Chứng tỏ gia
đình này sống Lời Chúa, Ngài hiện diện từng giây phút trong gia đình. “Hôn nhân không
phải là một bí tích hai vợ chồng lãnh nhận, cho bằng là một bí tích hai người
phải trở nên” (jacque
Philippe).
Dạ vâng, tình yêu của người vợ,
người chồng sống đời hôn nhân phải được luôn luôn nhìn lại mình dưới ánh sáng
Chúa Thánh Thần, vì cả hai đều đã là những thụ tạo mới trong Đức Kitô, để làm mới
tình yêu, khám phá nhau, nhận ra những khuyết điểm của nhau để yêu thương hơn,
cảm thông hơn, đón nhận nhau hơn về những thiếu sót, và những hạn hẹp của nhau.
Để sống được như vậy mỗi người hãy hy sinh cho nhau, bao dung tha thứ cho nhau
và dành thời giờ cho nhau. Khi gặp khốn khó cả hai hãy đọc lại những kỷ niệm
yêu thương thuở ban đầu thì mới có thêm sức mạnh mà vác người bạn đời của mình. Cả hai phải trưởng thành trong đức tin hầu có thể giáo dục,
sửa trị, hướng dẫn con cái trong tình yêu của Chúa Kitô.
Hội Thánh được kêu gọi tất cả Kitô hữu hãy
nên thánh, dù sống trong vị trí nào, giám mục, linh mục, phó tế, các cặp vợ chồng,
người độc thân, người lao động, kẻ nghèo, người giàu, kẻ bịnh, người khỏe. „Ý muốn
của Thiên Chúa là anh em nên thánh“ (1Tx 4,3a). Nên thánh là sống làm
chứng nhân cho sự trọn lành, nhờ ơn Chúa Thánh Thần, chúng ta phải thích nghi với
đời sống đức tin, đức cậy, đức mến trong đấng bậc của mình, tùy theo sức lực, tuổi
tác, khả năng, công việc, bổn phận trong môi trường sống. “Anh em hãy vui mừng luôn mãi và
cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh, anh em hãy làm như vậy,
đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Kitô Giêsu“ (1Tx 5,16-18).
Chúng ta hãy học
Chúa Giêsu: „Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, (…),
Người sẽ thêm cho“ (Mt 6,33) nghị lực và can đảm sống tâm hồn nghèo khó,
hiền lành, trong sạch, khao khát công chính, xây dựng hòa bình và vì Thầy mà bị
bách hại.
Lạy Chúa Thánh
Thần, xin giúp chúng con biết sống đẹp ơn gọi, để chúng con can đảm làm chứng
nhân cho Chúa bằng cách sống: „anh em hãy yêu thương nhau nhau Thầy yêu
thương anh em“. Amen.
Elisabeth Nguyễn
Tác giả:
Elisabeth Nguyễn
|