LỄ CÁC LINH HỒN
Kn 3, 1-9; Rm 5, 5-11; Ga 6, 37-40
Ngôi thánh đường nhỏ bé của giáo xứ tôi nằm cạnh nghĩa trang bé nhỏ của giáo xứ.
Đứng bên đây thánh đường ngó bên kia thánh đường là những người thân thương
trong giáo xứ đã ra đi trước chúng tôi. Không chỉ có nghĩa trang nhỏ bé này
nhưng đâu đó ở các nghĩa trang và thậm chí đâu đó và tro cốt của ông bà cha mẹ
của chúng ta vì có thể có những người xưa đã khuất nhưng không tìm thấy dấu vết
bởi chiến chinh.
Nhìn những nấm mộ đó, nơi những người thân của ta nằm đó, ta lại nhớ đến phận
người. Phận người vẫn không thể nào thoát khỏi cái định mệnh của kiếp người :
sinh - lão - bệnh - tử. Phận người là thế đó như theo kiểu cách nói của cố nhạc
sĩ họ Trịnh :
Con chim ở đậu cành tre,
Con cá ở trọ trong khe nước nguồn.
Tôi nay ở trọ trần gian
Trăm năm về trốn xa xăm cuối trời
Sương kia ở đậu miền xa
Con sáo ở trọ bao la đất trời
Nhân gian về trọ nhiều nơi
Bâng khuâng vì những đôi môi rất hồng
Mây kia ở đậu từng không
Mưa nắng ở trọ bên trong mắt người
Tim em người trọ là tôi
Mai kia về trốn xa xôi cũng...gần
Mây kia ở đậu từng không
Mưa nắng ở trọ bên trong mắt người
Môi xinh nở đậu người xinh
Đi đứng ở trọ đôi chân Thúy Kiều
Xin cho về trọ gần nhau
Mai kia dù có ra sao cũng đành
Trăm năm ở đậu ngàn năm
Đêm tối ở trọ chung quanh nỗi buồn
Ơ hay là một vòng sinh
Tôi như người bỗng lênh đênh giữa đời
Phận người là thế, ở trọ để rồi cuộc đời khép lại sau cái chết.
Sau cái chết, tùy niềm tin của tôn giáo và gần hơn nữa là niềm tin của mỗi người
khác nhau. Với niềm tin Kitô giáo thì cái chết chỉ là khép lại cuộc sống trần
gian để bước vào vương quốc vĩnh cửu.
Với Trịnh Công Sơn thì : “Người chết nối linh thiêng vào đời”.
Không biết rõ tác giả định nói gì ? Chắc chắn phải có một ý nghĩa thâm sâu . Tuy
không hiểu hết ý nghĩa của nó, nhưng nó giúp ta suy nghĩ : người chết nối linh
thiêng vào đời vì thực tại cái chết là một thực tế đặt con người đứng trước một
cái gì huyền bí, đáng sợ, và khi đứng trước thi hài người chết, ai ai cũng phải
đối diện với cái ý nghĩ này : nay người, mai ta. Và: nay tôi, mai anh. Tôi
chết, anh còn sống, nhưng còn sống đối với anh chỉ là “chưa chết”. Anh chỉ được
“triển hạn”, chứ không bao giờ được “miễn trừ”.
Với những ý nghĩ như vậy mà chúng ta thường im lặng, trầm mặc đứng trước người
chết, nhất là đứng trước thi hài một người thân yêu của mình. Chúng ta im lặng,
trầm mặc và buồn sầu, không chỉ vì người thân yêu không còn nữa, mà còn vì nghĩ
đến cái chết sẽ xẩy ra cho mình. Người chết như mang theo phần nào chính chúng
ta. Trong người chết, nhất là những người ruột thịt máu mủ của chúng ta, một
phần ruột thịt máu mủ của chúng ta đã ra đi.
“Người chết nối linh thiêng vào đời” là như vậy. Nghĩa là người chết đặt chúng
ta đối diện với một thực tại khác, một thế giới của sự im lặng, huyền bí, một
thế giới của sự tôn nghiêm, đáng kính, đáng sợ… Vì sợ người chết, sợ sự chết,
nên người ta dù muốn hay không cũng phải nghĩ đến cái chết của mình, phải chuẩn
bị cho cái chết không thể tránh được.
Có câu ngạn ngữ :”Cái chết ở trước mặt người già và sau lưng người trẻ”. Đây là
tâm lý chung cho mọi người vì người già dễ cảm thấy mình gần đất xa trời hơn
người trẻ.
Tuy thế, nhiều khi người già cũng như người trẻ đều “tham sinh úy tử” nên ít khi
nghĩ đến cái chết, nhưng khi thần chết đến thì người ta cảm thấy đã quá muộn. Vì
thế, ông Henri Bordeaux nói : "Phần đông người ta chỉ mở mắt một lần, mà lần ấy
lại là chính lúc tắt thở, nhưng người ta vội bóp mắt lại ngay”.
Đồng quan điểm với ông Henri Bordeaux, ông John C. Collins nói : "Người chết mở
mắt cho người sống”, cũng có nghĩa là người sống bóp mắt người chết.
Ông Stephen Leacock nói : "Lạ lùng thay cái chuỗi đời người : còn nhỏ thì ước
được lớn lên. Lớn lên rồi, ước đến tuổi trưởng thành. Đến tuổi trưởng thành rồi,
ước được một tổ ấm. Được tổ ấm rồi, ước làm ông nội nghỉ ngơi. Được nghỉ ngơi
rồi lại nuối tiếc quãng đời quá khứ và cảm thấy một luồng gió lạnh đang rì rầm
thổi tới. Nhưng khi ý thức được rằng đời sống chính là ở hiện tại, ở trong ngày
hôm nay, thì đã quá muộn rồi”.
Khi ta nhìn thấy những nấm mồ ở nghĩa trang như muốn nhắc nhở ta : hôm nay phiên
tôi, ngày mai đến phiên anh. “Hôm nay” là một ngày nhất định, rõ ràng, tại đây
và lúc này, ai cũng phải công nhận rằng người thân yêu của chúng ta đã ra đi về
đời sau, và lát nữa sẽ được chôn vùi trong lòng đất.
Nhưng còn chữ “Ngày mai” là một ngày bất định, mông lung, mờ mịt không biết bao
giờ mới đến như người ta nói : "Sinh hữu hạn, tử bất kỳ” (Tục ngữ). Đây là điều
bắt buộc chúng ta phải động não vì nó liên quan đến số phận đời đời của chúng ta.
Theo tâm lý chung, người đời ai cũng “tham sinh úy tử” (ham sống sợ chết). Người
ta cũng nhận xét rằng : các cụ già thường sợ chết hơn các thanh thiếu niên. Nhưng
có một điều thực tế : không bao giờ người ta thấy mình sống lâu cả. Dẫu đã tóc
bạc da đồi mồi, đi không vững, đứng không ngay, cũng còn thấy như mới bước chân
vào đời ngày hôm qua vậy :
Nhớ từ năm trước vẫn thơ ngây,
Thoát chốc mà già đã tới ngay
(Nguyễn Khuyến)
Dù cuộc sống cứ mãi trôi nhưng rồi thi thoảng ta phải dừng lại lại để bình tĩnh
đứng ra ngoài cuộc đời bề bộn, ra ngoài cái Tôi chủ quan, mà quan sát và ý thức nhận
định một cách khách quan :
Tại sao tôi sống ?
Sống để làm gì ?
Chết rồi, ra sao ?
Phải tìm ra ý nghĩa của cuộc sống. Có người không biết tại sao mình sống, rồi sẽ
ra sao ! Cho nên họ có cái nhìn bi quan về cuộc sống bởi vì họ không tìm ra
được lẽ sống.
Lẽ sống của người Ki tô hữu ngày hôm nay được làm rõ trong tất cả các bài đọc.
Với tất cả lẽ sống đó, niềm tin đó ta lại hân hoan sống trong trần gian này với
niềm vui, với niềm tin và hy vọng một ngày kia ta cũng sẽ đoàn tụ với cha ông
chúng ta trên thiên đàng nơi mà Chúa đã dọn sẵn cho những ai mà Thiên Chúa Cha
trao cho Chúa Giêsu.
Cuộc đời này rất ngắn và rất vội, Giáo Hội dành ra tháng 11 này cách đặc biệt để
ta có dịp báo hiếu, cầu nguyện cho ông bà cha mẹ, những người đã khuất trước
chúng ta. Và, cũng nhắc nhớ phận người của mỗi người chúng ta. Ngày nào đó, ta
cũng phải trở về với tro bụi trong quy luật hạn hữu của con người nhưng chuyện
cần thiết và quan trọng nhất là sống làm sao để mai ngày được ơn cứu độ.
Sống ở đời, giàu hay nghèo, sang hay hèn, đại gia hay tiểu gia không phải là vấn
đề. Không phải là vấn đề bởi lẽ ta thấy dù giàu hay nghèo, sang hay hèn đó khi
nhắm mắt lìa đời chỉ có vài mét đất như nhau mà thôi. Vì thế, chuyện cần và đủ
cho cuộc đời của mỗi người đó là sau khi chết ta có được một chỗ trong cung lòng
Thiên Chúa hay không ?
Với phận con người mỏng dòn và yếu đuối để rồi ta lại cứ tiếp tục cầu nguyện.
Cầu nguyện cho những người đã khuất và cầu nguyện cho chính bản thân chúng ta để
ngày mỗi ngày ta biết trút bỏ những gì không là cần thiết, những gì làm vướng
víu không để ta thanh thoát về với Chúa. Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta
để chúng ta tiếp tục tin tưởng, cầu nguyện và tín thác những người thân của ta
trong tay Chúa cũng như cuộc đời của ta trong tay Chúa vậy.