Bình an là một ân huệ cao quý mà Thiên
Chúa tặng ban cho nhân loại. Vì, bình an vừa là trạng thái hạnh phúc sống động
lại vừa mang dấu ấn của Chúa Thánh Linh. Thật vậy, khi Chúa Giêsu phục sinh,
Ngài chỉ ban cho các tông đồ một “món quà” duy nhất là “Bình an cho anh em”. (Ga 20,19.20.26)
Như thế, bình an là cái mà nhân loại
luôn luôn khao khát và mong ước đạt đến, thế nhưng nhân loại sẽ không bao giờ
đạt được nếu không có Đấng Phục sinh ban bình an. Thánh Luca đã thuật lại : khi
Đức Giêsu hiện ra với hai môn đệ trên đường Emmau với dáng vẻ một lữ khách,
nhưng rất bình an, bình an đến độ bình thường nên hai môn đệ không nhận ra
Ngài. Khi Chúa lên tiếng hỏi họ : « Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về
chuyện gì vậy ? » (Lc 24,17). Chưa được câu trả lời thì Chúa đã bị trách là
người đứng ngoài cuộc : « Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Giêrusalem mà
không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa nay » (Lc24,18). Vì
là khách nên bàng quang, nên không hay biết chuyện gì, chuyện cả thế gian đều
biết riêng chỉ có mình ông là không biết… và vì là khách nên hai môn đệ mới mời
Đức Giêsu ở lại: « Mời ông ở lại…» (Lc24, 28).
Cũng vậy, Thánh Gioan tường thuật, khi
bà Maria Macdala đến mồ Chúa, không thấy Chúa, bà khóc lóc ; nhưng khi Chúa
đứng trước mặt thì bà lại tưởng là người làm vườn (Ga 20,15). Với Maria, Đức
Giêsu chẳng những bình thường mà còn rất tầm thường nữa, bình thường như một
người làm vườn và tầm thường như một người lấy cắp xác người chết : « Thưa ông,
nếu ông đã đem Người đi thì xin nói cho tôi biết ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem
Người về. » (Ga20, 15).
Đức Giêsu, không vì là Đấng ban bình an
nên Ngài phải bình an. Nhưng vì Ngài đã yêu đến cùng, yêu đến không còn giữ lại
cho riêng mình một khoảng cách, một sự khác biệt nào đó để người khác có thể
nhận diện. Ngài trở nên bình thường như một lữ khách, như người làm vườn và tầm
thường như một người lấy cắp xác. Tuy nhiên, dung mạo của Đức Giêsu dù là bình
thường đến tầm thường đi nữa, nhưng chỉ những ai nhìn ở góc độ tình yêu thì mới
có thể nhận ra Ngài. Thật thế, hai môn đệ trên đường Emmau không nhận ra Chúa
qua giọng nói, hình dáng, quần áo… mà nhận ra Chúa cầm bánh, dâng lời chúc tụng
và bẻ ra trao cho họ (Lc24, 30-31). Còn Maria chỉ nghe Chúa gọi “Maria” là đã nhận
ra Thầy. Trong tình yêu có những bí mật thật dễ thương là thế.
Nếu Đức Giêssu được xem là một lữ khách
bình an, thì hai môn đệ của Ngài là những lữ khách không bình an. Hai môn đệ
trên đường trở về quê hương với sự thất vọng đến chán chường, thất vọng vì cho
rằng những quyết định của mình là sai
lầm, có lẽ các ông tiếc nuối vì đã bỏ công lao, sức khoẻ, thời gian đã qua để
đi theo một con người và hy vọng người ấy sẽ khôi phục Israel, hy vọng mình sẽ
có một chỗ đứng trong vương quốc ấy. Maria cũng thế, chắc hẳn tuyệt vọng lắm,
vì chỉ còn cái xác của Thầy thôi mà cũng bị lấy cắp. So với các tông đồ; Maria
đơn giản hơn nhiều, bà không hy vọng Thầy khôi phục Israel hay trông đợi Thầy
làm việc gì lớn lao vĩ đại, bà cũng không tranh giành chỗ ngồi bên hữu và bên
tả Thầy như hai anh em con ông Giêbêđê. Đối với Maria; đơn giản chỉ là tình
yêu. Tuy nhiên với bà, tình yêu đối với Chúa Giêsu có phần trở nên ích kỉ, có
phần như sở hữu Chúa cho riêng mình, đành rằng bà rất yêu Chúa. Vì thế, Chúa
trong tâm trí bà là do bà vẽ nên - một hình ảnh có phần chủ quan mà bà đã yêu
thương. Hơn thế, bà muốn giữ mãi tình yêu đó, muốn Chúa ở mãi trong cuộc đời bà
theo cách thức của bà, theo một khuôn mẫu bà vạch sẵn… Nhưng Chúa Giêsu là con
người cho mọi người và tình yêu của Ngài được dành cho tất cả nhân loại chứ
không của riêng ai. Vì Chúa Giêsu không như bà nghĩ, cho nên, dung mạo Chúa
Phục sinh đứng trước bà vừa thân thương nhưng lại vừa xa lạ là thế.
Thế thì, các tông đồ, mỗi người suy nghĩ
và muốn Chúa thực hiện chương trình cứu độ của Cha theo cách riêng của mình,
nên khi không được như ý thì các ông lại không bình an.
Người lữ khách trong bài hát “LỮ KHÁCH
BÌNH AN” của tôi là một lữ khách mang dấu ấn của người con được Thiên Chúa yêu
thương. Người lữ khách này không đi trên đường về Emmau như hai môn đệ, cũng
không trên đường ra mộ Chúa như Maria… mà đang lữ hành trong thân phận làm
người, làm con Thiên Chúa của mình, người lữ khách ấy đang lữ hành trên con
đường trần gian và đang tiến về miền đất yêu thương vĩnh cửu.
Khi viết bài hát này, hơn bao giờ hết
tôi đã cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa và cảm nghiệm rất sâu sắc thân
phận làm người của mình, một người con đã ngụp lặn trong thân phận bất toàn và
đã cảm nghiệm hơn bao giờ hết nỗi bất lực ấy. Với những ước muốn rất là con
người, rất ư tầm thường mà tôi đã viết lên ca khúc; không chỉ cho chính mình,
mà cho cả anh chị em đang sống xung quanh, những người cùng đang chia sẻ thân
phận làm người và làm con Thiên Chúa với mình và khao khát “BÌNH AN”.
Cũng như hai môn đệ, Maria và các tông
đồ… Người lữ khách ấy là tôi, là anh, là nhân loại đang khắc khoải trong cảm
giác không bình an của mình. Không bình an vì nhiều nguyên do; với hai môn đệ
và các tông đồ, rào cản cho sự bình an là nỗi thất vọng cho một dự tính nhằm vào
vương quốc Israel, nhắm vào quyền hành, vào vị thế… rào cản của Maria là một
tình yêu không ban phát. Còn tôi, anh và nhân loại… chắc hẳn mỗi người có một
vị thế khác nhau trong xã hội, trong Giáo hội nên chắc chắn mỗi người có những
rào cản khác nhau khiến chúng ta không bình an.
Ca khúc thể hiện những cụm từ : tiền
tài, danh vọng, kiêu căng, ganh tị và đau khổ… xem ra rất quen thuộc và rất tầm
thường ấy nhưng lại là rào cản khó vượt cho những ai khao khát sống bình an.
Đặt tâm trạng vào bài hát, sẽ cảm nghiệm những tranh giành ảnh hưởng lên nhau
đều bắt nguồn từ mưu lợi; là sức mạnh, là tiếng nói có thế giá của con người,
của chế độ. Nó có sức chi phối, thậm chí đè bẹp lên vị thế và nhân phẩm của
người khác, khiến Thiên Chúa không còn là nguồn bình an, mà trớ trêu thay, trở
thành rào cản cho những toan tính của chúng ta.
Những toan tính ấy chắc chắn sẽ chi
phối, sẽ biến thái tình cảm : “ganh ghét, giận hờn, so đo…”, là những ngôn từ
thể hiện bản chất rất là con người của lữ khách. Nhưng lữ khách của tôi ý thức
được những điều ấy không đẹp lòng Chúa, cũng chẳng hợp lòng nhau. Có thể thành
công của người này lại là thất bại của người khác, hạnh phúc của mình có khi là
đau khổ của những anh chị em khác. Vì thế, lữ khách của tôi tìm về nguồn xuất
phát của sự bình an là Thiên Chúa. Phó thác như Chúa Giêsu đã phó thác vào tay
Cha, yêu thương như Chúa Giêsu đã yêu thương, và tha thứ như Chúa Giêsu đã tha
thứ… tôi nhận thức rằng, tự bản chất “BÌNH AN” của Thiên Chúa và toan tính của
thế nhân sẽ loại trừ nhau. “Bình an” phủ định danh vọng, tiền tài, ganh ghét, giận
hờn, kiêu căng hay đau khổ; chúng sẽ không tồn tại bên nhau. Tuy nhiên, vì là
con người nên “cỏ lùng và lúa” vẫn phải sống chung trong một ruộng của chủ cho
đến ngày tận thế.
Còn tôi, là một dân đen, tôi không có
tham vọng khôi phục “vương quốc” hay đạt được một vị trí nào đó trong xã hội
hay trong Giáo hội… Vì thế, rào cản làm cho tôi không bình an chắc hẳn không
phải là tiền tài, vì tôi không có nhiều tiền đến nỗi phải chi phối cuộc sống
của người khác, cũng không phải là danh vọng, thế giá, vì tôi có “danh” đâu mà
“vọng”, cũng chẳng có vị thế để đứng trên “giá”. Có thể, với tôi là một kiến
thức giới hạn, vì có kiến thức là có suy tính, đúng sai, khoa học… và rồi trong
tình yêu tôi cũng sẽ phán đoán đúng sai, cách khoa học như thế với Thiên Chúa,
với anh chị em quanh tôi. Trong khi thước đo tình yêu là con tim mà con tim thì
không cần kiểm chứng bằng khoa học, cũng như thể việc bái ái không cần phán
đoán đúng hay sai… Điều mà xem ra rất nghịch lý nhưng lại rất hợp lý đối với
tình bác ái, với tình yêu thương…
Điều chắc chắn là Chúa không bảo tôi –
trong xã hội nầy, hôm nay – yêu đồng loại mà không cần có kiến thức. Nếu như
bình an và tính toán loại trừ nhau, thì kiến thức và con tim tồn tại song song
bên nhau. Con tim cần có lý trí để thể hiện tình yêu cách phải lẽ. Tình yêu và
lý trí bổ sung cho nhau, dung hoà lẫn nhau để tạo lòng bác ái, và để từ đó
những lời nói xoa dịu những vết thương lòng, để từ đó phát sinh nghĩa cử, vì
như Thánh Giacôbê đã nói : “Đức tin không hành động là đức tin chết”.
Xã hội hôm nay có thể nói là một xã hội
điện toán, cho nên con người hôm nay là những con người có tính toán; tính như
thế nào để có thể tiện lợi, đạt hiệu quả cao nhưng phải rất “nhanh như điện”.
Tôi cũng vậy, dù muốn dù không cũng phải sống trong dòng chảy ấy. Và vì thế,
trong cuộc sống thay vì tôi phải nằm trong chương trình của Thiên Chúa, phải là
công cụ để Chúa điều khiển cho công trình cứu độ của Ngài, phải là người để
được Thiên Chúa yêu thương, thì tôi lại đặt Thiên Chúa vào trong chương trình
của tôi, vào sự sắp xếp của tôi, tôi chỉ dành riêng cho Chúa một góc trong tâm
hồn và một khoảng thời gian giới hạn để gặp gỡ. Nhưng khoảng thời gian gặp gỡ
ấy mấy khi được trọn vẹn và ở bên Ngài như ở bên một người xa lạ.
Bài hát “LỮ KHÁCH BÌNH AN” thấm đậm tâm
hồn tôi, vì những tính toán xem ra rất nhỏ nhoi ấy lại là rào cản rất lớn cho
bước chân tôi đến với Chúa, đến với với tha nhân. Lời của ai đó làm tôi nhớ mãi
: « Đừng thấy nhỏ nhoi mà tưởng trong nó thứ gì cũng nhỏ ». Thật vậy, tội nhỏ
mà tôi thường gọi là tội nhẹ, cũng như những tật xấu cỏn con mà tôi xem thường,
thật ra, có sức công phá mãnh liệt, và nếu không lưu tâm sẽ có thể làm tôi quỵ
ngã bất cứ lúc nào.
Lời bài hát như vừa là một lời thầm
nguyện cầu, như vừa khắc khoải sâu lắng từ trong cõi thâm sâu của tâm hồn, như
vừa là một bài học nhắc nhở tôi luôn ở lại trong tình yêu của Thiên Chúa là
suối nguồn bình an. Nơi ấy, tôi học được bài học phó thác, yêu thương; tôi hiểu
được Thiên Chúa sẽ hoàn tất công trình cứu độ của Ngài trên sự yếu đuối, bất
toàn của tôi và của anh chị em sống bên tôi.
Xin mời Bạn cùng với tôi, chúng ta hãy
bắt đầu nhón gót để làm người “LỮ KHÁCH” bước đi trong “BÌNH AN” cuộc đời.
Xin mở link youtube dưới đây để nghe bài hát LỮ
KHÁCH BÌNH AN qua giọng hát của nam danh ca Phan Đinh Tùng, và diễn ảnh do Trúc
Tiên thực hiện.
https://www.youtube.com/watch?v=8JMb6HTO1lA
Văn Duy Tùng