Tháng
Tám năm ngoái tôi về Việt Nam nhân ngày
giỗ đúng 4 năm của Mẹ
tôi nơi
căn nhà cũ, nơi
tôi đã cất tiếng
khóc chào đời. Nhìn lại căn nhà sau bao năm xa cách, đột nhiên ký ức và những kỷ
niệm lại trở về, nhất là hình ảnh ốm yếu, gầy guộc của Mẹ.
Với tấm thân gầy guộc ấy, tưởng
chừng Mẹ
không thể lao động được. Thế
mà thương đàn con, Mẹ
tôi đã phi thường
vượt lên tất cả sự ốm yếu để gầy dựng cơ ngơi và nuôi bảy anh chị em chúng tôi
khôn lớn bằng ý chí và sự chịu khó, kiên
nhẫn, tần tảo suốt cả cuộc đời cùng với Cha tôi, vươn
lên trong mọi hoàn cảnh để cho anh chị em chúng tôi có ngày hôm nay.
Tình
thương của
Mẹ
vượt lên tất cả để bươn chải giữa cuộc
đời dâu bể mà không hề đắn đo hay ngần ngại vất vả. Lưng Mẹ tôi như oằn xuống
cùng năm tháng bởi gánh nặng của cuộc đời và của đàn con, nhưng
tình thương
của Mẹ
thì luôn êm đềm
và dịu dàng,
mặc dù
đời sống vật chất
nhà tôi
lúc bấy giờ cũng khó khăn.
Mẹ nuôi con qua những
đoạn trường chông gai và
thiếu thốn,
nhưng uốn nắn, giáo dục và
dạy dỗ anh chị em chúng tôi biết thế
nào là đạo làm người, biết kính trên
nhường dưới, biết nhân lễ nghĩa trí tín, tam tòng tứ đức, sống
hữu ích cho gia đình,
cho xã hội, cho quê hương và đất nước. Thương con, Mẹ chăm chỉ làm việc, dang
rộng đôi tay bao bọc, chở che và mang đến cho anh chị em chúng tôi những gì tốt
đẹp nhất mà Mẹ có thể làm được, thậm chí Mẹ như loài chim bồ nông, sẵn sàng lấy
thân mình để làm mồi cho con mỗi khi mùa đông băng giá.
Mẹ lấy Cha tôi là cháu đích tôn
trong một gia đình đạo Phật rất lễ nghi và giàu có thời bấy giờ. Vì niềm tin và
tình yêu, Cha tôi trở lại đạo để được làm phép hôn phối với Mẹ tôi trong nhà thờ.
Dòng họ Văn chúng tôi ít người lắm. Mấy thế hệ các đời trước bị nhà vua tìm cách
tru di tam tộc chỉ vì nhiều người họ Văn đời xưa làm quan trong các triều đại
vua chúa ngoài Bắc, và mỗi lần đổi ngôi thì cả vua cũng như các quan triều đình
bị sát hại và bị diệt. Họ chúng tôi phải trốn vào Đằng Trong và vì sự sống còn,
nhiều người họ Văn ở các thế hệ trước phải thay tên đổi họ, phần nhiều là lấy họ
Nguyễn và đó là một trong những lí do họ Nguyễn đông đảo trên toàn lãnh thổ Việt
Nam. Ngày nay, nhân số dòng họ Văn của chúng tôi vẫn chỉ đếm trên đầu ngón tay.
(Theo gia phả tại Họ Văn Tự Đường- Huyện Quỳnh Lưu, Tỉnh Nghệ An hôm nay)
Sinh trưởng trong gia đình quí
phái và giàu có như thế, tất nhiên Cha tôi từ buổi lọt lòng đã được nuông chiều
"cưng như cưng trứng, hứng như hứng hoa".
Là cháu đích tôn nên Cha tôi
được ông cố tôi thuê đến 2 thầy dạy về ở trong nhà năm này qua năm nọ từ khi còn
rất bé cho đến khi khôn lớn. Một thầy dạy chữ Nho và một thầy dạy về văn hóa,
nhất là về Khổng Học. Vì thế, Cha tôi sau này đúng là một nhà Hiền Nho hơn là
người xông xáo, xoay xở, bươn chải vật chất ngoài đời bởi đã ảnh hưởng nề nếp
giáo dục trong một gia phong như thế. Cuộc đời Cha tôi chưa bao giờ sát sanh dù
một con kiến đang bò trên chân huống chi là lấy huyết con gà con vịt. Vì thế đến
khi vào lứa tuổi trưởng thành, ông cố đã nhờ nhiều người mai mối đi thăm dò mục
đích là tìm người thiếu nữ nề nếp, đảm đang về làm vợ cho Cha tôi. Ông cố lo xa
vì hơn ai hết, ông biết rõ cháu trai đích tôn của ông lành quá, lối sống, cách
nghĩ như một vị chân tu thì sẽ không bao giờ tranh giành trong đời sống nên phải
cần một người vợ giỏi giang, nhanh nhẹn, biết chịu thương chịu khó để thay chồng
gánh vác gia đình và nuôi nấng con cái sau này. Hơn nữa ông cố cũng cần một
người cháu dâu đích tôn biết hiếu đạo, biết phụng dưỡng và tin tưởng để ông bà
cố để lại cơ ngơi và sự nghiệp, đất đai, ruộng vườn, nhất là biết lo hương khói,
cúng, kỵ, chạp giỗ khi ông và bà đã nằm xuống.
Các cô gái cùng trang lứa với
Cha tôi được giới thiệu liên tục. Cuối cùng cũng chọn được một cô gái mà ông cố
tôi ưng ý sau khi tìm hiểu tông tích và "lý lịch" cặn kẽ. Thiếu nữ đó chính là
Mẹ tôi. Ông cố tôi rất hài lòng tuy không môn đăng họ đối, và mặc dù nhà ông
ngoại tôi ở một làng cũng rất xa xôi.
Tôi nghe kể lại rằng đám cưới
cha mẹ tôi được tổ chức rất trọng thể. Vì là cháu đích tôn, lại danh gia vọng
tộc nên ông cố cho hạ rất nhiều trầu bò thết đãi quan viên hai họ lẫn bà con
làng xóm no say những ba ngày.
Sau khi dựng vợ gã chồng cho Cha
tôi xong thì tiếp đó lại có những năm biến động kinh hoàng của đất nước : nào là
cải cách ruộng đất, nào là thù trong, giặc ngoài, rồi nạn đói hoành hành...
Trong lo lắng sợ hãi, ông cố tôi qua đời và, họa vô đơn chí, chưa đầy một năm
sau đó thì ông nội tôi vội nối gót khi chỉ mới 40 tuổi. Bà nội tôi quá đau khổ
bởi hai cái chết vội vàng nên bà nội buông xuôi tất cả và trong lúc này, bà sống
như người mất trí. Trong thời gian này, gia sản của ông cố tôi cũng bắt đầu
xuống và dần dần cũng mất hết vì những cuộc biến động nêu trên. Cha Mẹ tôi bắt
đầu sống trong lo sợ và bắt đầu chạm trán với cơ cực cho đến sau này.
Quả thật, Mẹ tôi là người phụ nữ
rất đảm đang và biết chịu khó trong mọi hoàn cảnh. Tình cảm vợ chồng của Cha Mẹ
tôi vẫn đầy ăm ắp dù lúc bấy giờ cha Mẹ sống trong thiếu thốn, vất vả trăm bề.
Cha tôi bắt đầu biết khổ và phải làm việc cực nhọc cùng với Mẹ. Cũng may khi
đương sống, ông cố đã để dành một miếng đất 5 sào cho Mẹ tôi làm của hồi môn.
Nhờ miếng đất đó mà Mẹ canh tác. Đúng mùa thì cấy lúa, trồng rau, trái mùa thì
dậu sắn, vồng khoai... Ngoài những đức tính siêng năng và bền bỉ đó, Mẹ tôi lại
còn có lòng thương người vô hạn.
Tôi còn
nhớ rất rõ là Mẹ tôi đã cứu sống biết bao nhiêu người
từ các em bé sơ sinh đến những người lớn
tuổi. Mẹ tôi không phải là một
bác sĩ y khoa với bằng cấp đỗ đạt. Dụng cụ "y khoa" của
Mẹ
tôi rất đơn giản,
đó chỉ là một cây kim băng
hoặc nhiều khi cấp cứu,
Mẹ
chỉ xin một mảnh chai hoặc một mảnh kính vỡ,
rồi chọn mảnh nào có đầu sắc nhọn mang khử trùng bằng lửa và dầu
Nhị
Thiên
đường. Tất cả những bệnh nhân nhờ đến Mẹ
tôi chữa trị thường là được mách miệng khi thiên hạ thấy con bệnh gần chết, mắt
trợn ngược, sủi bọp mép, bị khóa khẩu, giật
kinh phong, diện mạo đã
bạc nhược. Nhiều khi khuya khoắt không có xe và con bệnh không thể di chuyển,
thân nhân của bệnh nhân lấy võng để cõng
Mẹ tôi đến chữa trị cho kịp. Và mỗi khi như
vậy, Mẹ
tôi không bao giờ từ chối dù giữa đêm khuya
hay trời đang mưa bão bởi vì tính thương
người luôn có trong tim của Mẹ.
Mẹ tôi thường
nói rằng:
"Cứu một mạng người
là giúp gia đình người ta tránh được khổ đau, cứu
người để làm phúc, để cái hậu tốt đẹp
lại cho con cho cháu sau này".
Nhơn
cách và triết lí
sống trong cuộc đời của Mẹ tôi đơn giản chỉ là thế !
Khi đến bên con bệnh, Mẹ tôi rất
bình tĩnh, xem xét cẩn thận rồi định bệnh, sau đó Mẹ lấy cái kim cất dấu trong
bị trầu cau mà Mẹ luôn chuẩn bị và có sẵn cùng với lọ dầu Nhị Thiên đường. Sau
khi khử trùng cái kim chích bằng lửa trên tim đèn của cây bạch lạp và nếu bệnh
nhân đã cấm khẩu, nói không được, Mẹ chích vào các huyệt hai bên khóe miệng để
mở khẩu, tiếp sau đó Mẹ chích các huyệt ở trên thái dương
và 2 bên dái
tai, Mẹ
tiếp tục chích trên 10 đầu ngón tay và nặng máu ra. Như
một
phép lạ nhiệm mầu, con bệnh mặt mày
tái nhợt bỗng
dần dần
ửng hồng, miệng bắt đầu
ú ớ rồi nói thành lời, tay
chân hết co
giựt
và sự sống đã hồi
sinh. Khi mới có trí khôn 7, 8 tuổi, tôi đã chứng kiến biết bao người mà Mẹ đã
cứu sống bằng cách chữa trị đơn giản này chỉ với một cây kim băng.
Sau khi tôi khôn lớn và tìm hiểu,
những người
thường hay bị như thế đó là bị tai biến (stroke)
mà ta
hay gọi là trúng gió hay giật kinh phong... và nếu không
kịp
chữa trị,
thường
nặng sẽ bị chết hoặc bán thân bất toại hay chỉ ngồi xe lăn mà thôi.
Công
việc cứu người đó là do ông
ngoại
tôi đã truyền lại cho Mẹ. Ông bảo rằng,
trong tất cả những người con
của ông,
Mẹ
là người thông minh và sáng dạ nhất. Vì
thế, ông ngoại đã truyền và dạy lại cho Mẹ tôi tất cả những công thức chữa trị,
những huyệt đạo trong cơ thể con người, và nhờ thế mà cả cuộc đời của Mẹ đã cứu
biết bao nhiêu người tưởng như
đã chết.
Điều đặc biệt nơi Mẹ tôi là mỗi
khi cứu sống một người
nào đó và gia đình họ thường
đưa
của lễ hay phong bì để trả công ơn, nhưng
lạ thay, Mẹ
tôi không bao giờ nhận mặc dù họ cố nài
nỉ và dù rằng
nhà tôi lúc đó
cũng nghèo rớt mồng tơi.
Mẹ
tinh tế, thân mật và ân cần hỏi thăm gia đình,
dặn dò vài điều chăm sóc người bệnh trong khi Mẹ
ăn một miếng trầu,
uống chén trà ấm để
họ vui lòng
rồi rửa tay ra về.
Mỗi khi Tết đến, họ thường mang
lễ vật để đi tết cho Mẹ tôi và những lúc này thì Mẹ khó lòng từ chối dẫu thật
lòng Mẹ không bao giờ muốn nhận các của lễ đó, bởi vì trong số những người
đấy, họ cũng nghèo nàn và
thiếu thốn như gia đình
mình. Mẹ tôi nói thế.
Nhiều mẫu chuyện Mẹ kể cho chúng
tôi nghe : mỗi khi cứu được một người và ra về trong đêm khuya, Mẹ thường
có linh ứng đám ma quỷ bám
theo Mẹ
để hù dọa vì cho rằng, Mẹ đã dành lại người
đã thuộc của "thế
giới bên kia", của âm phủ.
Mẹ tôi có lòng thương
người khôn vơi.
Tôi ghi nhận trong tâm của Mẹ
luôn có lòng thương
xót của Chúa và từ bi của Phật.
Sau khi sinh ra mấy
anh chị đầu và mặc dù nhà tôi lúc đó
cũng khó khăn về kinh tế,
thậm chí Mẹ
phải
lo chạy
bữa
từng
ngày. Lúc đó là năm Ất Dậu 1945 (Năm
Ất Dậu là năm đói khủng khiếp. Theo
thống kê đã có đến gần hai triệu người chết đói
nhất là ở tỉnh Thái Bình,
Bắc Việt)
Một buổi chiều mùa đông âm u rét
mướt, Mẹ thấy một bé gái khoảng 4-5 tuổi đang nằm bên vệ đường, con bé không thể
đứng dậy, thậm chí cất tiếng khóc vì đã quá đói. Con bé đã đi lạc nhiều ngày qua
(đây là trường
hợp thương xảy ra vào năm đói Ất Dậu) Đã
có biết bao nhiêu người qua
lại thấy em bé lạc lõng, nhưng họ không
thể lo cho con cái họ được no đủ thì làm sao rước
"của
nợ"
này về ? Nhưng với Mẹ
tôi với lòng thương
người, Mẹ
đã bồng con bé đó về nhà, tắm rửa, săn
sóc, cho ăn uống. Sau một thời gian dài không ai đến nhận, thay vì đưa con bé
vào các viện mồ côi, Mẹ quyết
định giữ lại và cho ăn ở, sinh hoạt như là một thành viên trong gia đình,
rồi đặt tên và nuôi nấng, cho học hành, thương
yêu như con ruột cho đến ngày khôn lớn, trưởng thành
rồi dựng vợ gã
chồng.
Chị cả - chị ruột của tôi - hơn
con
bé
đó chỉ
một tuổi,
tôi tên là Ngân, và
Mẹ
cũng đã đặt tên cho bé gái đi lạc này là
Hà. "Ngân - Hà" Ôi, hai tên ghép lại thật đẹp và ý nghĩa quá! Tôi thấy cái khéo
léo, thâm thúy của Mẹ. Như vậy
kể từ đây tôi có thêm một người
chị,
và gia đình tôi từ nay đã có "dải" Ngân
- Hà. Suy nghĩ qua cách đặt tên thì hiểu được sự yêu thương
không phân biệt con ruột hoặc con nuôi nơi lòng
nhân từ của Mẹ.
Vâng, con bé đi lạc năm đói Ât
Dậu đó chính là chị Hà hôm nay. Với nét mặt hiền hoà, tính tình điềm đạm, chị Hà
cũng đã giúp Mẹ tôi lo công việc nhà, bếp núc và chăm sóc anh em chúng tôi khi
còn nhỏ. Sau này, chị quen và kết hôn với người chồng rất tốt lành và có với
nhau tám đứa
con. Gia đình anh chị rất hạnh phúc và
những con
cái của anh chị sau này đều
thành công rất lớn và giàu có hiện đang sống ở Việt Nam và Hoa Kỳ.
Anh chị và các cháu luôn biết
ơn
Mẹ
tôi và thường lui tới thăm viếng, lo lắng, chăm sóc,
nhất là vào những dịp tết
hoặc kỵ, giỗ... Mỗi khi gặp các người con của chị Hà, mặc dù các cháu ấy lớn
tuổi hơn tôi nhưng luôn xưng "Cậu - Cháu" rất tình
cảm và thân tình. Các cháu rất lễ phép và hiểu biết vì các cháu có được ngày hôm
nay là công ơn của Mẹ tôi không nhỏ, điều mà chị Hà luôn ghi tạc suốt đời trong
lòng.
Qua bao năm tháng với
tình thương
bao la và sự chịu khó cùng ý chí phi thường,
tình thương của
Mẹ
trải dài qua nắng, gió và sương...,
để rồi Mẹ
dẫn con cái qua những nẻo đường, những nẻo đường chông gai
của chiến tranh,
của li
loạn. Vì sự an
nguy, có khi Mẹ đã dẫn con vượt qua sông, băng qua rừng để tránh bom, tránh đạn,
tránh mùi thuốc súng và màu máu đổ, tránh cái chết vô duyên của những mảnh bom
viên đạn lạc hướng lỗi đường của chính những người anh em mang một cùng dòng máu
sinh ra bởi một mẹ trăm con đang hăm hở bắn ra để loại bỏ nhau từng ngày.
Tôi vẫn còn nhớ rất rõ mặc dù
lúc đó tôi chỉ mới có tám tuổi. Vào một buổi sáng hôm đó rất đỗi lạ kỳ và khác
thường, tự dưng
có một chiếc máy bay, bay thật thấp nơi
khu phố tôi đang cư trú
(máy bay này người dân địa phương gọi là "máy bay dò",
chắc có lẽ từ chữ "dò thám" mà ra ?) Khi bay ngang qua, máy bay dò này nhả ra
một làn khói đỏ kết thành vết dài trên không và sau đó chưa tới một phút, tôi
nghe tiếng phản lực cơ của Mỹ gầm hú từ trên cao và rồi tiếng bom chát chúa như
xé toạc
không gian,
nổ rền ở những khu phố gần đó và tiếp tục trải bom đến khu phố của tôi. Lúc bấy
giờ anh Đạo, người anh thứ ba kéo tôi
lao xuống hầm
trú ẩn
mà
Cha
tôi đã làm trước
để tránh bom đạn thời chiến tranh. Trong
khi hai anh em đang chạy đến hầm thì
nghe tiếng hớt ha hớt hải của Mẹ tôi cũng kêu la và thúc giục anh em tôi: "xuống
hầm lẹ lên con ơi" từ ngoài
đường vọng vào, vì lúc đó Mẹ cũng vừa
mới đi chợ sáng về. Thế rồi cả ba mẹ con đều chui xuống hầm để tránh bom đạn.
Hầm thì nhỏ và nông, chỉ chứa được 3-4 người. Mẹ đẩy ép hai anh em tôi vào trong,
còn mẹ thì ngồi co rúm ngay phía ngoài, lấy thân để che chắn ngay ở giữa cửa
miệng hầm. Sau khi im ắng tiếng bom, ba mẹ con ra khỏi hầm và nhìn thấy nguyên
khu phố đang bốc cháy đến kinh hoàng, người
người hỗn
loạn. Nhà bà Điều bên cạnh đổ nát, nhà Dì
Quế trước mặt thì
đang cháy, còn nhà tôi thì hư
hại nặng và gian phía trước bị sập đổ. Lửa khói bốc lên đen nghìn
nghịt trời, tiếng gào thét gọi tìm nhau ơi ới hòa với tiếng rên rỉ của những người
bị thương và
tiếng khóc lóc thảm thiết của con nít vì
có thể ba mẹ của các cháu vừa mới bị trúng bom. Cảnh hỗn loạn hôm đó đã để lại
mãi trong ký ức và sau này khi lớn lên, tôi mới thấm thía thế nào là sống trong
cảnh chiến tranh, bom đạn và chết chóc.
Giờ đây tôi đã lớn khôn và nghĩ
tình yêu của Mẹ quá thiêng liêng và cao cả. Mẹ tôi ở ngoài miệng hầm không phải
là sự vô thức, nhưng Mẹ muốn lấy thân của mình để chắn để ngăn các mảnh bom đạn
để con cái của mẹ được an toàn. Nếu lúc đó có một mảnh bom bắn vào miệng hầm,
chắc chắn mảnh bom đó đà gim vào thân Mẹ tôi rồi phải không ?
Vâng ! Sau hơn
45 năm, căn nhà đó vẫn còn đấy, vẫn còn
dấu tích của chiến tranh và bom đạn, những mảnh sắt đó đã hằn lên và còn in trên
những vách tường. Hôm đó mặc
dù Mẹ
không chết bởi bom đạn, nhưng tâm trí Mẹ
cũng tan tác như căn nhà đã
bị bom xé nát.
Trận bom đã làm hư
hại nhà cửa và mất mát tất cả, Cha
tôi phải vội vàng thuê người đến sửa để cho anh em chúng tôi tránh mưa nắng, còn
Mẹ thì âm thầm ra sức và làm việc gấp đôi. Từ buôn thúng bán bưng, chạy đôn chạy
đáo để lo miếng ăn và để gầy dựng lại sau thảm hoạ này trong khi sức khỏe của Mẹ
thì giới hạn và quá mỏng manh.
Mặc dù gia đình vẫn khó khăn nhưng
tình thương
người và sự giúp đỡ những ai gặp hoạn nạn thì
Mẹ không bao giờ từ nan. Biến cố năm 1972 tức Mùa Hè Đỏ Lửa. Tôi còn nhớ rất rõ
là có rất nhiều đoàn người từ
lớn chí bé, từ các vùng Đồng Hới, Quảng Trị, Đông Hà dắt
díu nhau vào thành phố Huế để
lánh nạn.
Cả thành phố,
góc
xó
nào cũng thấy người di tản. Họ nhóm bếp
để nấu ăn ngay trên vỉa hè, trong các sân trường.
Từ ga xe lửa đến các nhà thờ, đình miếu
luôn đầy dẫy những người đang chạy trốn. Các học sinh phải nghỉ học trong thời
gian này vì nhà trường
cần chỗ trú ngụ cho đoàn người di tản này.
Với lòng
trắc ẩn và thương người,
Mẹ
đã cho bốn, năm
gia đình đến ở lại trong nhà và cung cấp thức ăn cho họ suốt một quãng thời gian
dài đến khi chiến tranh yên lắng đôi chút mà họ quay về quê cũ.
Ngày đám cưới anh Đạo (người anh
thứ ba của tôi), chính các gia đình này đã tình nguyện nấu tiệc cưới
đãi khách để tỏ lòng biết
ơn
Mẹ
tôi.
Tôi còn
nhớ họ là những người
rất khéo tay và chịu khó thức suốt đêm để lo chế biến các món ăn... Mấy người
đàn ông thì ồn ào mổ heo từ sáng sớm, còn mấy bà thì nào người
hon (hình thức như
hấp) xôi vò, người
quết thịt heo làm chả, người thì chiên,
xào, và nấu đủ mọi thứ vì Mẹ tôi muốn đám cưới này phải đãi tiệc lớn bởi ông anh
thứ ba này lấy được người vợ mà mọi người
kháo
là "con ông cháu cha". Mà
chị dâu của tôi là con ông ông cháu cha thiệt!
Chị vừa đẹp, vừa duyên dáng, nét vẻ quí phái,
vừa hiếu thảo mà lại đạo đức nữa. Phước ba đời cho ông anh thứ ba của tôi.
Vì
thế nhà đã nghèo giờ phải gặp cái eo mà Mẹ tôi phải gồng mình để làm đám cưới
này
cho đẹp, cho nở mặt nở mày
với gia đình thông gia và với mọi người cũng
chỉ vì tấm lòng thương con.
Sau đám cưới này, nhà tôi lại càng khó khăn thêm trong khi anh Quang, ông anh
thứ tư - anh kế tôi đang cần nộp tiền học mỗi tháng. Nội tiền học cho ông anh
này mà tôi biết Mẹ hết sức vất vả. Mẹ đã hy sinh, chắt chiu và chịu ăn uống kham
khổ để có đủ tiền lo học phí cho ông anh thứ tư tuổi đang lớn này. Mẹ sợ anh ấy
tới tuổi bắt đi lính nên bắt phải học, hoặc đi tu cho khỏi đi quân dịch. Mẹ bị
ám ảnh vì chứng kiến rất nhiều lần trong xóm của tôi cứ vài ba ngày lại có một
quan tài của người lính phủ lá cờ quốc gia đưa về ; khi thì con của ông bà kia,
lúc thì con của ông bà nọ, tử trận ở các chiến trường Khe Sanh, Bạch Mã, Quãng
Trị, Đông Hà... Mẹ luôn bắt anh em chúng tôi phải học hành đến nơi đến chốn dù
Mẹ phải cực khổ trăm bề.
Phải ! Thế
hệ của tôi sinh ra lộn thế kỷ nên bị chứng kiến và phải sống qua nhiều cuộc
chiến đẫm máu.
Còn Mẹ tôi thì đau khổ chịu đựng qua mỗi
kỳ chiến tranh. Mỗi lần gầy dựng lại cơ ngơi, thì liền sau đó lại bị bom đạn xé
nát tơi bời. Những trận chiến ào qua như : Mậu Thân - 1968, Mùa Hè Đỏ Lửa - 1972
và rồi tháng Tư năm 1975.
Từ Huế, gia đình
tôi lại một lần nữa vứt bỏ tất cả để lánh nạn. Cả gia đình dắt nhau bỏ lại căn
nhà thân thương
mà cha mẹ tôi mới tậu được cùng tất cả cơ ngơi, của cải, rồi vội vàng xuống biển
Thuận An chờ tàu há mồm chở đi vào một vùng trời vô định nào đó.
Vâng, đã
trải qua gần nửa thế kỷ từ năm
Mậu Thân 1968, chúng ta đã mất hết, nhưng
mẹ của anh và mẹ của tôi, những
người Mẹ Việt Nam ấy
vẫn
luôn trong tim của chúng ta, hình ảnh của mẹ
vẫn nguyên vẹn qua từng thời gian. Lời ru của mẹ vẫn mãi vang vọng bên tai để
cho ta khôn lớn từng ngày, dạy cho ta biết ý thức đế làm người
Việt Nam chân chính và hữu ích cho xã
hội, cho nhân loại dẫu ta sống bất cứ nơi nào trong tinh cầu này. Mẹ "mớm" cho
ta tình người, cho ta biết
nhận diện máu đỏ da vàng, mẹ "đơm"
cho ta tình nước
tình non, để thấy lịch sử vẻ vang, gấm
vóc và kiêu hùng, mẹ "và" cho ta được no nê cội nguồn quê hương
và tình tự dân tộc...
Hôm nay là Ngày Mẫu
Nhật (Mother's
Day) Nước Mỹ rất khéo,
đã dành một ngày
Chủ Nhật tuần thứ hai của tháng Năm để khắc ghi công ơn và tôn vinh người mẹ.
Nói đến mẹ có lẽ nhân
loại không đủ ngôn từ để diễn đạt tình
mẹ bao la và cao cả. Mẹ là món quà cao quí nhất mà Thượng
Đế ban tặng cho mỗi một con người. Với tôi, không chỉ có hôm nay mới tôn vinh và
ghi nhớ ơn mẹ, nhưng là mỗi một giây phút trôi qua trong cuộc đời của tôi là
công ơn trời biển của mẹ.
Trong cảm xúc nhớ mẹ khôn nguôi,
tôi viết lên ca khúc : MẸ VÀ LỜI RU (youtube bài hát :
https://www.youtube.com/watch?v=YGmcqlAo5AU / youtube karaoke :
https://m.youtube.com/watch?v=8CB0V8wJ8rs
) để nhớ về mẹ, để nghe và hồi
tưởng lại những lời ru tha thiết cho ta khôn ra và lớn lên, để chạm được tình
mẫu tử ngọt ngào và êm dịu, để cảm nhận nỗi lo lắng ngược xuôi của mẹ khi bồng
bế những đứa con lội qua suối, băng qua rừng tránh chiến tranh và bom đạn, để
thấu được sự khắc khoải lắng sâu trong lòng của mẹ qua tiếng cầu kinh mỗi ngày,
cầu xin cho con luôn được yên bình trong cuộc sống, để thấy dáng mẹ chiều chiều
đứng trước hiên nhà ngóng trông bóng con trở về từ một chân trời xa xôi, vô vọng
nào đó.
Mẹ tôi đã
ra đi, tôi chỉ biết cúi đầu cầu xin Thượng Đế đưa linh hồn mẹ tôi về nơi an nghỉ
yên lành trong cõi vĩnh phúc, để mẹ tôi không còn vất vả nữa.
Văn Duy Tùng