TỪ BỎ HAY CHỌN LỰA
Chúa Nhật XXI Thường Niên B
Gs 24,1-2a.15-17.18b; Ep 5,21-32; Ga 6,54a.60-69
Sau khi Maisen qua đời, Giosuê lãnh nhận trách nhiệm lãnh đạo dân chúng và
đưa họ vào Đất Hứa. Khi đã chinh phục được miền đất “sữa và mật ong” như lời
Giavê hứa và chia phần đất cho từng chi tộc, ông Giosuê tập họp dân chúng lại
tại Sikem và đòi họ phải tuyên bố dứt khoát lập trường :
- Hôm nay các ngươi hãy lựa chọn, một là thờ phượng Đức Giavê, hai là thờ phượng
các thần của dân ngoại. Riêng phần tôi và gia đình, chúng tôi nhất quyết chỉ thờ
phượng một mình Đức Giavê mà thôi.
Bấy giờ dân chúng trả lời rằng:
- Không hề có chuyện chúng tôi lìa bỏ Đức Giavê mà tôn thờ những thần dân ngoại.
Đức Giavê là Thiên Chúa của chúng tôi, chính Ngài đã dẫn chúng tôi ra khỏi đất
Ai Cập, đã làm những việc kỳ diệu trước mặt chúng tôi và đã gìn giữ chúng tôi
suốt những con đường chúng tôi đã đi qua. Chúng tôi chỉ phụng thờ Đức Giavê vì
chỉ mình Ngài là Thiên Chúa chúng tôi.
Với sự quyết tâm chọn lựa Chúa, kể từ đó Dân Do Thái trở thành dân riêng của Đức
Chúa, trung thành thi hành giao uớc đã ký kết với Ngài, và từ nay sự hiệp nhất
của quốc gia Do Thái phát xuất từ một niềm tin chung vào Giavê Thiên Chúa.
Hình ảnh chọn lựa Chúa của toàn dân Israel làm chúng ta nhớ lại sự quyết tâm ở
lại với Chúa của Phêrô và nhóm mười hai: Sau diễn từ về Bánh trường sinh - Thứ
lương thực lạ lùng: Bánh và Máu Ngài, Đức Giêsu tóm lược chung quy về Thánh Thể
- bản thân Người: “Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi, thì được sống muôn đời” (Ga
6,54a). Nhiều người theo và tán dương Chúa trước đây đã bỏ đi. Các môn đệ cũng
phản ứng lại các lời của Đức Giêsu; họ bị đặt trước một chọn lựa là tin hoặc
không tin vào Người. Đỉnh cao của cuộc “khủng hoảng”: là các môn đệ của Người
chia rẽ: một số lớn bỏ đi vì không thể chấp nhận các lời Đức Giêsu nói, một số ở
lại với Người, vì tin rằng chỉ Người mới có “những lời đem lại sự sống đời đời”.
Những môn đệ bỏ đi (Ga 6,60-66): Một số lớn các môn đệ thiếu đức tin và theo
cảm xúc và hời hợt, lý trí của con người trước mặc khải mầu nhiệm Thánh Thể, nên
không thể chấp nhận được các lời Đức Giêsu. Trong lúc Ngài Giêsu luôn nhắc các
môn đệ là Ngài không đến, không nói như một người thường, nhưng là Người đến từ
Thiên Chúa và sẽ trở về với Thiên Chúa. Trong bài Diễn từ về Bánh trường sinh,
Đức Giêsu đã nhiều lần nêu bật Con Người - Người được Thiên Chúa cử đến và có sự
sống phát xuất từ Thiên Chúa (x. Ga 6,27.57). Điều kiện tiên quyết để hiểu được
các lời của Đức Giêsu, trên sự hiểu và nhìn nhận bản thân Người. Nhưng đám đông
dân chúng trong số có các môn đệ đáp lại bằng sự thiếu lòng tin, sự từ khước, sự
ngờ vực đối với Ngài và đối với lời Ngài. Vì thế nhiều môn đệ “rút lui, không
còn ở với Người nữa” (Ga 6,66).
Tuy nhiên, nhóm Mười Hai chọn lựa ở lại (Ga 6,67-69: ) Nhóm Mười Hai – các môn
đệ gần gũi với Chúa Giêsu, cũng bị cám dỗ, bị lay động, bị thách thức bởi mầu
nhiệm của mạc khải Thánh Thể và những lời đòi hỏi của Ngài. Trước những thử
thách cao độ, Chúa Giêsu đặt câu hỏi với họ: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ
đi hay sao?” (Ga 6,67). Simôn Phêrô đã nhân danh nhóm khi tuyên xưng “chúng
con”: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời
đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng
chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6,68-69). Qua lời tuyên tín chọn
Chúa, Phêrô nêu ra ba lý do khiến các ông và các bạn ở lại với Đức Giêsu chứ
không rút lui bỏ Ngài như đa số:
-
Lý do thứ nhất “bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai” nghĩa là chúng con
không thể bỏ đi kiểu mù quáng, hơn hớt niềm tin. Khi bỏ đi, chúng con cần
phải biết chúng con muốn bỏ ai, và gặp được điều gì tốt hơn và thuyết phục
hơn Ngài, điều này không có gì bảo đảm chắn chắn khi bỏ Ngài. Suy tư sáng
suốt khi tránh những quyết định vội vã, theo tình cảm. Bởi vì không tìm được
một vị thầy nào dứt khoát khá hơn, cho nên khôn ngoan là ở lại với Đức
Giêsu.
-
Lý do thứ hai “Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” lời tuyên tín
nhắc lại đặc tính của các lời Đức Giêsu như chính Người đã nói: “Lời Thầy
nói với anh em là Thần Khí và là sự sống” (Ga 6,63). Phêrô chấp nhận lời
Thầy mang Thần Khí và sự sống nên tuyên tín: “Thầy mới có những lời đem lại
sự sống đời đời” (Ga 6,68). Dù ông vẫn chưa hiểu hết ý nghĩa trọn vẹn những
lời Đức Giêsu, nhưng ông đã tin tưởng vào điều chính yếu nhất: sứ điệp của
Đức Giêsu đem đến sự sống đời đời. Đức Giêsu không chỉ nói về điều đó,
Người còn mang sứ điệp chắc chắn về sự sống đời đời và mở đường vào sự sống
đó. Đó là ân ban cao trọng nhất của Đức Giêsu như Ngài nhấn mạnh thường
xuyên trong diễn từ Thánh Thể.
-
Lý do thứ ba mà Phêrô xác tín chọn Chúa: “chúng con đã tin và nhận biết rằng
chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Phêrô và nhóm Mười Hai hiểu và
nhận biết Đức Giêsu là “Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6,69). “Thánh” chính
là điều thuộc về Thiên Chúa. Nếu Đức Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa, có
nghĩa là Người hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa và được kết nối với Thiên Chúa
trọn vẹn. Phêrô lập lại danh hiệu này theo thánh vịnh 16: ca tụng tình thân
mật sâu xa giữa Thiên Chúa và người cầu nguyện, trong đó có nói đến danh
hiệu “Đấng Thánh của Ngài", theo bản dịch Bảy mươi (x. Cv 2,27) như Đức
Giêsu đã công bố sự kết hợp giữa Ngài với Chúa Cha (x. Ga 5,19-30), Ngài
còn loan báo mình đã được “Thiên Chúa thánh hiến" (Ga 10,6;17,19). Danh hiệu
“Đấng Thánh Của Thiên Chúa" cao vượt hơn danh hiệu "Thiên Sai” rất nhiều và
thích hợp với danh hiệu “Con Thiên Chúa" mà Simon-Phêrô tuyên xưng trong
Mátthêu 16,16". Cho nên, chính vì Đức Giêsu có một tương quan đặc biệt với
Thiên Chúa, Người hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, mà Người có những lời ban
sự sống vĩnh cửu. Chính vì thế các ông đã ký thác và tín nhiệm hoàn toàn vào
Đức Giêsu.
Theo bước chân của Phêrô và các môn đệ chúng ta xác tín: “Bỏ Thầy thì chúng con
biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6,68). Chọn
và sống theo Chúa Kitô là cùng Ngài đi trong ban ngày của bình yên cuộc sống hay
giữa đêm tối của phong ba thử thách như Phêrô và các môn đệ. Sống với niềm tin
vào Ngài là khước từ cách hiểu biết, giác quan và lý luận thông thường, hơn hớt
bên ngoài, nhưng là tin mà không thấy
(Ga 20,29) là vững bước với sự chọn lựa và xác tín theo Thầy.
M. Toliver, một nhà truyền giáo ở miền tây Trung Hoa, có lần gặp hai viên chức
cao cấp đồng thời cũng là những Kitô-hữu nhiệt thành. Một trong hai người kể
rằng: trong một cuộc oanh kích, ông ta, bà vợ và đứa con gái nhỏ 6 tuổi không
tìm được nơi trú ẩn, nên phải nấp dưới gầm bàn ăn. Bom nổ ngay bên, nên họ chỉ
còn biết cúi đầu cầu nguyện. Khi qua cơn nguy biến, đức bé nhìn lên thấy ảnh
Chúa Giêsu, em nói: “Ba ơi, Chúa Giêsu là nơi trú ẩn an toàn nhất, phải không ba
?”
"Lạy Thiên Chúa, Ngài là nơi con náu ẩn,
là đồn lũy chở che, con tin tưởng vào Ngài"
(Tv (91,2).
Lm. Vinh Sơn, Sài Gòn 22/08/2015.
Tác giả:
Lm. Vinh Sơn, scj
|