SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
CHÚA NHẬT LỄ LÁ NĂM A
(02/04/2023)
[Is 50,4-7; Pl 2,6-11;
Mt 26,14-27,66]
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Nếu 4 Sách Phúc Âm đều
có Bài Tường Thuật về cuộc Thương Khó của Chúa Giê-su thì Bài Tường Thuật về
cuộc Thương Khó trong Tin Mừng Mát-thêu (26,14 - 27,66) là Bài Tường Thuật đầy
đủ và gây xúc cảm nhất. Vì thế mà Giáo Hội cho chúng ta đọc Bài Tường Thuật ấy
ngay đầu Tuần Thánh. Với tâm tình kính tôn, yêu mến và cảm tạ chúng ta hãy
chiêm ngắm dung mạo tuyệt đẹp của Con Thiên Chúa làm người và chịu đau khổ để
cứu chuộc chúng ta và toàn thể nhân loại.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BỐN BÀI
THÁNH KINH
2.1 TRONG BÀI PHÚC ÂM PHẦN KIỆU LÁ: Mt 21, 1-11: "Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến". (Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu).
Khi
các ngài đến gần Giêrusalem, vào địa hạt Bếtphaghê, giáp núi Cây Dầu, Chúa
Giêsu sai hai môn đệ đi và bảo rằng: "Các con hãy đến làng trước mặt kia,
sẽ gặp ngay một con lừa mẹ cột ở đó với con lừa con. Các con hãy mở dây, dẫn về
đây cho Thầy; và nếu có ai bảo các con điều gì, thì hãy nói: Chúa cần đến
chúng, và Ngài sẽ gởi trả lại ngay". Mọi việc này xảy ra để ứng nghiệm lời
tiên tri đã phán:
"Các
ngươi hãy bảo thiếu nữ Sion rằng: Kìa vua ngươi nhân ái đến cùng ngươi, ngồi
trên lừa mẹ và lừa con, là con của con vật chở đồ".
Các
môn đệ ra đi và làm theo lời Chúa Giêsu dạy bảo. Hai môn đệ dẫn lừa mẹ và lừa
con về, trải áo lên mình chúng và đặt Chúa ngồi lên trên. Phần đông dân chúng
trải áo xuống đường, kẻ khác thì chặt nhành cây trải lối đi. Dân chúng kẻ thì
đi trước, người theo sau tung hô rằng: "Hoan hô con vua Đavit! Chúc tụng
Đấng nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô trên các tầng trời!"
Khi
Ngài vào thành Giêrusalem, thì cả thành phố náo động và nói rằng: "Người
đó là ai vậy?" Dân chúng trả lời rằng: "Người ấy là Tiên tri Giêsu,
xuất thân từ Nadarét, xứ Galilêa".
2.2 TRONG BÀI ĐỌC I CỦA THÁNH LỄ: : Is
50, 4-7: "Tôi đã không giấu mặt mũi tránh những
lời nhạo cười, nhưng tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn". - (Bài
ca thứ ba về Người Tôi Tớ Chúa)- (Trích sách Tiên tri Isaia).
Chúa đã ban cho tôi miệng lưỡi đã được
huấn luyện, để tôi biết dùng lời nói nâng đỡ kẻ nhọc nhằn. Mỗi sáng Người đánh
thức tôi, Người thức tỉnh tai tôi, để nghe lời Người giáo huấn. Thiên Chúa đã
mở tai tôi, mà tôi không cưỡng lại và cũng chẳng thối lui. Tôi đã đưa lưng cho
kẻ đánh tôi, đã đưa má cho kẻ giật râu; tôi đã không che giấu mặt mũi, tránh
những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi. Vì Chúa nâng đỡ tôi, nên tôi
không phải hổ thẹn; nên tôi trơ mặt chai như đá, tôi biết tôi sẽ không phải hổ
thẹn.
2.3 TRONG BÀI ĐỌC II CỦA THÁNH LỄ: Pl
2, 6-11: "Người đã tự hạ
mình; vì thế Thiên Chúa đã tôn vinh Người". (Trích thư Thánh Phaolô Tông
đồ gửi tín hữu Philipphê).
Chúa Giêsu Kitô, tuy là Đthân
phậnđThiên Chúa, đã không nghĩ phải giành cho được ngang hàng với Thiên
Chúa; trái lại, Người huỷ bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở
nên giống như loài người, với cách thức bề ngoài như một người phàm. Người đã
tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa
đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu, để
khi nghe tên Giêsu, mọi loài trên trời dưới đất và trong địa ngục phải quỳ gối
xuống, và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Chúa để Thiên Chúa
Cha được vinh quang.
2.4 TRONG BÀI THƯƠNG KHÓ: Mt 26, 14 - 27,
66 “Sự Thương Khó Đức Giêsu Kitô, Chúa
chúng ta".
C. Bài Thương Khó Đức Giêsu Kitô, Chúa
chúng ta, theo Thánh Matthêu.
Khi
ấy, một trong nhóm Mười Hai, tên là Giuđa Iscariô, đi gặp các thượng tế và nói
với họ:
S. "Các ông cho tôi bao nhiêu, tôi
nộp Người cho các ông?"
C. Họ liền ấn định cho ba mươi đồng bạc.
Và từ đó, hắn tìm dịp thuận tiện để nộp Người. Ngày thứ nhất tuần lễ ăn bánh
không men, các môn đệ đến thưa Chúa Giêsu rằng:
S. "Thầy muốn chúng con sửa soạn cho Thầy ăn Lễ Vượt
Qua ở đâu?"
C. Chúa
Giêsu đáp:
LM: "Các
con hãy vào thành, đến với một người kia nói rằng: Thầy bảo, giờ Ta đã gần, Ta
sẽ mừng Lễ Vượt Qua với các môn đệ tại nhà ông".
C. Các
môn đệ làm như Chúa Giêsu truyền và sửa soạn Lễ Vượt Qua. Chiều đến, Người ngồi
bàn ăn với mười hai môn đệ. Và khi các ông đang ăn, Người nói:
LM: "Thầy
nói thật với các con: có một người trong các con sẽ nộp Thầy".
C. Môn
đệ rất buồn rầu và từng người bắt đầu hỏi Người:
S. "Thưa Thầy, có phải con không?"
C. Người
trả lời rằng:
LM: "Kẻ
giơ tay cùng chấm vào đĩa với Thầy, đó chính là kẻ nộp Thầy. Thực ra, Con Người
sẽ ra đi như đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ sẽ nộp Con Người! Thà
người đó đừng sinh ra thì hơn!"
C. Giuđa,
kẻ phản bội, cũng thưa Người rằng:
S. "Thưa Thầy, có phải con chăng?"
C. Chúa
đáp:
LM: "Đúng
như con nói".
C. Vậy
khi mọi người còn đang ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và
trao cho các môn đệ mà phán:
LM: "Các
con hãy cầm lấy mà ăn, vì này là Mình Ta".
C. Đoạn
Người cầm lấy chén, tạ ơn, rồi trao cho các môn đệ mà phán:
LM: "Tất
cả các con hãy uống chén này, vì này là Máu Ta, Máu Tân Ước, sẽ đổ ra cho nhiều
người được tha tội. Thầy bảo các con: Từ nay, Thầy sẽ không còn uống chất nho
này nữa cho đến ngày Thầy sẽ uống rượu mới cùng các con trong nước Cha
Thầy".
C. Sau
khi hát thánh vịnh, Thầy trò liền lên núi Ôliu. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo các ông:
LM: "Tất
cả các con sẽ vấp phạm vì Thầy trong chính đêm nay, vì có lời chép rằng: 'Ta sẽ
đánh chủ chăn, và các chiên trong đoàn sẽ tan tác'. Nhưng sau khi Thầy sống
lại, Thầy sẽ đến xứ Galilêa trước các con".
C. Phêrô
liền thưa:
S. "Dù tất cả vấp phạm vì Thầy, riêng con, con sẽ không
bao giờ vấp phạm".
C. Chúa
Giêsu đáp:
LM: "Thầy
bảo thật con, chính đêm nay, trước khi gà gáy, con sẽ chối Thầy ba lần".
C. Phêrô
lại thưa:
S. "Dù có phải chết cùng Thầy, con sẽ không chối
Thầy".
C. Và
tất cả các môn đệ cùng nói như vậy.
Rồi
Chúa Giêsu cùng đi với các ông đến một chỗ gọi là Ghếtsêmani, và Người bảo các
môn đệ:
LM: "Các
con hãy ngồi đây để Thầy đến đàng kia cầu nguyện".
C. Đoạn
Chúa đưa Phêrô và hai người con ông Giêbêđê cùng đi, Người bắt đầu cảm thấy
buồn bực và sầu não. Lúc ấy, Người bảo các ông:
LM: "Linh
hồn Thầy buồn sầu đến nỗi chết được; các con hãy ở lại đây và thức với
Thầy".
C. Tiến
xa hơn một chút, Người sấp mặt xuống, cầu nguyện và nói:
LM: "Lạy
Cha, nếu được, xin cho Con khỏi chén này! Nhưng đừng như ý Con muốn, một theo ý
Cha muốn".
C. Người
trở lại cùng các môn đệ và thấy các ông đang ngủ, liền nói với Phêrô:
LM: "Chẳng
lẽ các con không thức cùng Thầy được lấy một giờ ư? Hãy tỉnh thức và cầu nguyện
để khỏi lâm cơn cám dỗ: vì tinh thần thì lanh lẹ, nhưng xác thịt thì yếu
đuối".
C. Rồi
Người lại đi cầu nguyện lần thứ hai mà rằng:
LM: "Lạy
Cha, nếu chén này không thể qua đi được mà Con phải uống, thì xin theo ý
Cha".
C. Đoạn
Người trở lại và thấy các ông còn ngủ, vì mắt các ông nặng trĩu. Người để mặc
các ông và đi cầu nguyện lần thứ ba, vẫn lại những lời như trước. Sau đó Người
trở lại với các môn đệ và bảo:
LM: "Bây
giờ các con hãy ngủ và nghỉ ngơi đi! Này sắp đến giờ Con Người sẽ bị nộp trong
tay những kẻ tội lỗi. Các con hãy chỗi dậy. Chúng ta hãy đi: này kẻ nộp Thầy đã
tới gần".
C. Người
còn đang nói, thì đây, Giuđa, một trong nhóm mười hai, và cùng với y có lũ đông
mang gươm giáo gậy gộc, do các thượng tế và kỳ lão trong dân sai đến. Vậy tên
nội công đã dặn họ ám hiệu này:
S. "Hễ tôi hôn người nào, thì đó chính là Người, các
ông hãy bắt lấy".
C. Tức
khắc Giuđa tới gần Chúa Giêsu và nói:
S. "Chào Thầy".
C. Và
nó hôn Người. Nhưng Chúa Giêsu bảo:
LM: "Hỡi
bạn, bạn đến đây làm chi?"
C. Lúc
đó chúng xông tới, tra tay bắt Chúa Giêsu. Ngay sau đó, một trong những người
vẫn theo Chúa Giêsu, giơ tay rút gươm và chém tên đầy tớ thầy thượng tế đứt một
tai. Chúa Giêsu liền bảo:
LM: "Con
hãy xỏ ngay gươm vào bao: vì tất cả những kẻ dùng gươm sẽ chết vì gươm. Nào con
tưởng rằng Thầy không thể xin Cha Thầy và Ngài sẽ tức khắc gởi đến hơn mười hai
cơ binh thiên thần sao? Mà như thế thì làm sao ứng nghiệm lời Kinh Thánh bảo:
Sự thế phải như vậy?"
C. Lúc
đó Chúa Giêsu nói cùng đám đông rằng:
LM: "Các
ngươi cầm gươm giáo gậy gộc đi bắt Ta như bắt tên cướp ư? Hằng ngày Ta ngồi
trong đền thờ, giữa các ngươi, mà các ngươi không bắt Ta. Nhưng tất cả sự đó
xảy ra là để ứng nghiệm lời các tiên tri đã chép".
C. Bấy
giờ các môn đệ bỏ Người và chạy trốn hết.
Những
kẻ đã bắt Chúa Giêsu điệu Người đến thầy thượng tế Caipha. Nơi đây các luật sĩ
và kỳ lão đã hội họp. Phêrô theo Người xa xa cho tới dinh thầy thượng tế. Rồi
ông vào trong dinh ngồi cùng bọn đầy tớ, xem việc xảy ra thế nào. Vậy các
thượng tế và tất cả công nghị tìm chứng gian cáo Chúa Giêsu để lên án xử tử
Người. Và họ đã không tìm được, mặc dù đã có một số đông chứng nhân ra mắt. Sau
cùng, hai người làm chứng gian đến khai rằng:
S. "Người này đã nói: Ta có thể phá đền thờ Thiên
Chúa và xây cất lại trong ba ngày".
C. Bấy
giờ thầy thượng tế đứng lên nói:
S. "Ông không trả lời gì về các điều những người này đã
cáo ông ư?"
C. Nhưng
Chúa Giêsu làm thinh, nên thầy thượng tế bảo Người:
S. "Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, ta truyền cho ông
hãy nói cho chúng ta biết: Ông
có phải là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa không?"
C. Chúa
Giêsu trả lời:
LM: "Ông
đã nói đúng. Nhưng Ta nói thật với các ông: rồi đây các ông sẽ xem thấy Con
Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng, và sẽ đến trên đám mây".
C. Bấy
giờ thầy thượng tế xé áo mình ra và nói:
S. "Nó đã nói lộng ngôn! Chúng ta còn cần gì đến nhân
chứng nữa? Đây các ngài vừa nghe lời lộng ngôn. Các ngài nghĩ sao?"
C. Họ
đáp lại:
S. "Nó đáng chết!"
C. Bấy
giờ chúng nhổ vào mặt Người, đấm đánh Người, lại có kẻ tát vả Người mà nói
rằng:
S. "Hỡi Kitô, hãy bói xem, ai đánh ông đó?"
C. Còn
Phêrô ngồi ở ngoài sân. Một đầy tớ gái lại gần và nói:
S. "Ông nữa, ông cũng đã theo Giêsu người xứ
Galilêa".
C. Nhưng
ông chối trước mặt mọi người mà rằng:
S. "Tôi không hiểu chị muốn nói gì?"
C. Khi
ông lui ra đến cổng, một đầy tớ gái khác thấy ông, liền nói với những người ở
đó:
S. "Ông này cũng theo Giêsu người Nadarét".
C. Ông
thề mà chối rằng:
S. "Tôi không biết người ấy".
C. Một
lúc sau, mấy người đứng đó lại gần mà nói với Phêrô rằng:
S. "Đúng rồi, ngươi cũng thuộc bọn ấy. Vì chính giọng
nói của ngươi tiết lộ tông tích ngươi".
C. Bấy
giờ ông rủa mà thề rằng: ông không hề biết người ấy. Tức thì gà gáy. Phêrô nhớ
lại lời Chúa Giêsu đã nói: "Trước khi gà gáy, con sẽ chối Ta ba lần",
và ông ra ngoài khóc lóc thảm thiết.
Trời
vừa sáng, các thượng tế và kỳ lão trong dân hội họp bày mưu giết Chúa Giêsu. Họ
trói Người và điệu đi nộp cho tổng trấn Phongxiô Philatô. Bấy giờ Giuđa, kẻ nộp
Người, thấy Người bị kết án thì hối hận, đem ba mươi đồng bạc trả lại cho các
thượng tế và kỳ lão mà nói rằng:
S. "Tôi đã phạm tội vì nộp máu người công chính".
C. Nhưng
họ trả lời:
S. "Can chi đến chúng tôi! Mặc kệ anh!"
C. Anh
ta ném những đồng bạc đó vào trong đền thờ và ra đi thắt cổ. Các thượng tế lượm
lấy bạc đó và nói:
S. "Không nên để bạc này vào kho vì là giá máu".
C. Sau
khi bàn bạc, họ lấy tiền đó mua thửa ruộng của người thợ gốm làm nơi chôn cất
những người ngoại kiều. Bởi thế, ruộng ấy cho đến ngày nay được gọi là
Haselđama, nghĩa là ruộng máu. Như vậy là ứng nghiệm lời tiên tri Giêrêmia nói:
"Chúng đã lấy ba mươi đồng bạc là giá do con cái Israel đã mặc cả mà bán
Đấng cao trọng. Và họ mang tiền đó mua ruộng của người thợ gốm như lời Chúa đã
truyền cho tôi".
Vậy
Chúa Giêsu đứng trước quan tổng trấn, và quan hỏi Người rằng:
S. "Ông có phải là Vua dân Do-thái không?"
C. Chúa
Giêsu đáp:
LM: "Ông
nói đúng!"
C. Nhưng
khi các thượng tế và kỳ lão tố cáo Người thì Người không trả lời chi cả. Bấy
giờ Philatô bảo Người:
S. "Ông không nghe thấy tất cả những điều họ tố cáo ông
sao?"
C. Chúa
Giêsu cũng không đáp lại về một điều nào, khiến quan tổng trấn hết sức ngạc
nhiên.
Vào
mỗi dịp lễ trọng, quan tổng trấn có thói quen phóng thích cho dân một người tù
tuỳ ý họ xin. Lúc ấy có một phạm nhân nổi tiếng tên là Baraba. Vậy Philatô nói
với dân chúng đã tụ tập lại đó rằng:
S. "Các ngươi muốn ta phóng thích ai, Baraba hay Giêsu
mà người ta vẫn gọi là Kitô?"
C. Quan
biết rõ chỉ vì ghen ghét mà chúng đã nộp Người. Vậy trong khi quan ngồi xét xử,
bà vợ sai người nói cùng quan rằng:
S. "Xin ông đừng can thiệp gì đến vụ người công chính
ấy, vì hôm nay trong một giấc chiêm bao, tôi đã phải đau khổ rất nhiều vì người
ấy".
C. Nhưng
các thượng tế và kỳ lão xúi giục dân xin tha Baraba và giết Chúa Giêsu. Quan
lại lên tiếng hỏi họ:
S. "Trong hai người đó các ngươi muốn ta phóng thích
ai?"
C. Họ
thưa:
S. "Baraba!"
C. Philatô
hỏi:
S. "Vậy đối với Giêsu gọi là Kitô, ta phải làm
gì?"
C. Họ
đồng thanh đáp:
S. "Đóng đinh nó đi!"
C. Quan
lại hỏi:
S. "Nhưng người này đã làm gì nên tội?"
C. Chúng
càng la to:
S. "Đóng đinh nó đi!"
C. Bấy
giờ Philatô thấy mất công, lại thêm náo động, nên ông lấy nước rửa tay trước
mặt dân chúng và nói:
S. "Ta vô can về máu người công chính này, mặc kệ các
ngươi".
C. Toàn
dân đáp:
S. "Hãy để cho máu nó đổ trên chúng tôi và trên con cái
chúng tôi".
C. Bấy
giờ quan phóng thích Baraba cho họ, còn Chúa Giêsu thì trao cho họ đánh đòn,
rồi đem đi đóng đinh vào thập giá.
Bấy
giờ lính tổng trấn liền điệu Chúa Giêsu vào trong công đường và tập họp cả cơ
đội lại chung quanh Người. Họ lột áo Người ra, khoác cho Người một áo choàng
đỏ, rồi quấn một vòng gai đặt trên đầu Người và trao vào tay mặt Người một cây
sậy, họ quỳ gối trước mặt Người mà nhạo báng rằng:
S. "Tâu vua dân Do-thái!"
C. Đoạn
họ khạc nhổ vào Người và lấy cây sậy đập trên đầu Người. Khi đã chế nhạo Người
xong, họ lột áo choàng đỏ ra, mặc y phục cũ lại cho Người và điệu Người đi đóng
đinh vào thập giá. Lúc đi ra, họ gặp một người thành Xyrênê tên là Simon, liền
bắt ông vác đỡ thánh giá cho Người.
Họ
đi đến một nơi gọi là Golgotha, nghĩa là Núi Sọ. Họ cho Người uống rượu hoà với
mật đắng, Người chỉ nếm qua nhưng không muốn uống. Khi đã đóng đinh Người trên
thập giá rồi, họ rút thăm chia nhau áo Người, để ứng nghiệm lời tiên tri rằng:
"Chúng đã chia nhau áo Ta, còn áo ngoài của Ta, chúng đã bắt thăm".
Rồi họ ngồi lại canh Người. Họ cũng đặt trên đầu Người bản án viết như sau:
Người này là Giêsu, vua dân Do-thái. Lúc ấy, cùng với Người, họ đóng đinh hai
tên trộm cướp, một tên bên hữu, một tên bên tả.
Những
người đi ngang qua, lắc đầu chế diễu Người và nói:
S. "Kìa, ngươi là kẻ phá đền thờ và xây cất lại trong
ba ngày, hãy tự cứu mình đi, nếu là Con Thiên Chúa, thì hãy xuống khỏi thập giá
đi!"
C. Các
thượng tế cùng luật sĩ và kỳ lão cũng chế nhạo Người rằng:
S. "Nó đã cứu được kẻ khác mà không cứu nổi chính mình!
Nếu nó là vua dân Do-thái, thì bây giờ hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta
sẽ tin nó. Nó đã trông cậy Thiên Chúa, nếu Ngài thương nó thì bây giờ Ngài hãy
cứu nó, vì nó nói: "Ta
là Con Thiên Chúa!"
C. Cả
những tên cướp bị đóng đinh trên thập giá với Người cũng nhục mạ Người như thế.
Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, khắp cả xứ đều tối tăm mù mịt. Vào khoảng giờ
thứ chín thì Chúa Giêsu kêu lớn tiếng:
LM: "Eli,
Eli, lema sabachtani!"
C. Nghĩa
là:
LM: "Lạy
Chúa con, lạy Chúa con! sao Chúa bỏ con!"
C. Có
mấy người đứng đó nghe vậy nói rằng:
S. "Nó gọi tiên tri Elia".
C. Lập
tức một người trong bọn chạy đi lấy một miếng bọt biển, nhúng đầy dấm và cuốn
vào đầu cây sậy và đưa lên cho Người uống. Nhưng có kẻ lại bảo:
S. "Hãy chờ xem Elia có đến cứu nó không?"
C. Đoạn
Chúa Giêsu lại kêu lên lớn tiếng và trút hơi thở.
(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)
Bỗng
nhiên màn đền thờ xé ra làm đôi từ trên xuống dưới, đất chuyển động, đá nứt ra.
Các mồ mả mở tung và xác của nhiều vị thánh đã qua đời được sống lại. Và sau
khi Chúa sống lại, họ ra khỏi mồ, vào thành thánh và hiện ra cùng nhiều người.
Còn viên sĩ quan và những kẻ cùng ông canh giữ Chúa Giêsu, thấy đất chuyển động
và các sự xảy ra, thì thất kinh sợ hãi và nói:
S. "Đúng người này là Con Thiên Chúa".
C. Ở
đó cũng có nhiều phụ nữ đứng xa xa; họ là những người đã theo giúp Chúa Giêsu
từ xứ Galilêa. Trong số đó có Maria Mađalêna, Maria mẹ của Giacôbê và Giuse, và
mẹ các người con của Giêbêđê.
Tới
chiều có một người giàu sang quê ở Arimathia tên là Giuse, cũng đã làm môn đệ
Chúa Giêsu, ông đi gặp Philatô và xin xác Chúa Giêsu. Bấy giờ Philatô truyền
giao xác cho ông. Vậy ông Giuse lấy xác, liệm trong một khăn sạch, và đặt trong
mồ mà ông đã cho đục trong đá, rồi ông lăn một tảng đá lớn lấp cửa mồ lại và ra
về. Còn Maria Mađalêna và bà Maria kia cùng ngồi đó nhìn vào mộ.
Hôm
sau, tức là sau ngày chuẩn bị mừng lễ, các thượng tế và biệt phái đến dinh
Philatô trình rằng:
S. "Thưa ngài, chúng tôi nhớ, lúc sinh thời tên bịp bợm
ấy có nói: 'Sau
ba ngày, Ta sẽ sống lại'. Vậy xin ngài truyền lệnh cho canh mộ đến ngày thứ ba,
kẻo môn đệ nó lấy trộm xác rồi phao đồn với dân chúng rằng:Người đã từ
cõi chết sống lại! Và như thế, sự gian dối này lại còn tai hại hơn trước".
C. Philatô
trả lời:
S. "Các ông đã có lính canh thì cứ đi mà canh như ý".
C. Họ
liền đi và đóng ấn niêm phong tảng đá và cắt lính canh giữ mồ. Đó là lời Chúa.
III. CHIÊM NGẮM DUNG MẠO CỦA CHÚA GIÊ-SU
VÀ KHÁM PHÁ RA SỨ ĐIỆP CỦA BÀI THƯƠNG KHÓ TRONG TIN
MỪNG MÁT-THÊU.
3.1 Dung Mạo Chúa Giê-su
trong Bài Thương Khó Mt 26,14 – 27,66 có những nét đáng chúng ta ghi nhận trong
tâm trí, như sau:
- Một là Chúa Giê-su là
Đấng Mê-si-a bị bán rẻ cho kẻ thù, bởi
một trong mười hai môn đệ là Giu-đa Ít-ca-ri-ốt. Tại sao Giu-đa lại
bán Thày mình lấy một số tiền còm như thế? Có người cho rằng vì hắn tham tiền!
Có người cho rằng không phải là vì Giu-đa tham tiền mà vì ý đồ chính trị. Có
người cho rằng vì Giu-đa vừa tham tiền vừa có ý đồ chính trị. Ý đồ chính trị
làm động cơ cho việc Giu-đa bán Thày là: Giu-đa đã chứng kiến quyền năng của
Đức Giêsu và tin rằng Thày mình đúng là Đấng phải đến để thiết lập Vương Quốc
của Thiên Chúa. Nhưng Giu-đa không đủ kiên nhẫn chờ đợi ngày Thiên Chúa ra tay
và nhất là không chấp nhận con đường cứu thế của Đức Giê-su là con đường đau
khổ. Con đường mà Giu-đa muốn Đức Giê-su theo là con đường vinh quang tức chiến
thắng bằng bạo lực. Thấy Đức Giê-su cứ “dùng dằng” và “vô tư” trước âm mưu của
kẻ thù, Giu-đa tìm cách đẩy Đức Giê-su vào chân tường để cưỡng ép Người dùng quyền
năng và vũ lực mà làm cho thiên hạ phải bái phục. Giu-đa bị cám dỗ y như chính
Đức Giê-su đã từng bị Xa-tan cám dỗ trong hoang địa. Nhưng Đức Giê-su đã chiến
thắng Xa-tan và cám dỗ của nó, còn Giu-đa thì đã thất bại và nghe theo
nó. Đức Giê-su chọn là Mê-si-a tự hạ, tự hủy, khiêm cung và tự hiến, còn Giu-đa
thì đã không chấp nhận điều ấy.
- Hai là trong bữa ăn
cuối cùng của Thày trước lễ Vượt Qua năm 33, Chúa Giê-su là Đấng hết mực yêu
thương chăm sóc các môn đệ bằng viêc lập
Bí Tích Thánh Thể là Hiến Tế Tình Yêu và các Thừa Tác Viên có chức thánh để các
ngài lặp lại Hiến Tế ấy : “Anh em cầm lấy mà ăn, đây là mình
Thày; Tất cả anh em hãy uống chén này, vì đây là máu Thày…Anh em hãy làm việc
này mà tưởng nhớ đến Thầy.”
- Ba là trong vườn Cây
Dầu Chúa Giê-su đã phải chịu nỗi cô đơn tột cùng trước viễn cảnh cuộc Thương Khó. Kể cả ba môn
đệ thân tín nhất là Phê-rô, Gio-an và Gia-cô-bê, cũng không chia sẻ được những
gì chứa chất trong tâm hồn Người và những gì đang chờ đợi Người ở phía trước.
Nhưng Chúa Giê-su đã tỏ ra rất dũng cảm và tuyệt đối vâng phục Thánh
Ý của Cha: ”Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh
khỏi,, thì xin vâng ý Cha”. Tại đây chúng ta còn khám phá Chúa Giê-su
là Đấng bị rình bắt, như một tên bất lương; đồng thời bị
phản bội bằng một cái hôn gỉa hình mang tính “chỉ điểm” của Giu-đa!
Cũng tại đây chúng ta còn khám phá Chúa Giê-su có tấm lòng hiền lành, dịu dàng,
ưa chuộng hòa bình và chủ trương bất bạo động: “Hãy xỏ gươm vào vỏ...”
- Bốn là Chúa Giê-su là
Đấng đã bị chối bỏ bởi một trong bốn môn đệ đầu tiên và hết sức thân cận là
Phê-rô, Tông đồ Trưởng của Nhóm Mười Hai. Phê-rô
đã được Đức Giê-su ưu ái cách đặc biệt khi được chứng kiến những giây
phút rất riêng tư và bí mật của Thày (trên Núi Ta-bo, trong Vườn Cây
Dầu). Tại sao Phê-rô lại chối bỏ Thày mình một cách quá dễ dàng như thế? Chỉ có
một lý do: Phê-rô là một kẻ nhát gan! Mới trước đó không lâu, chính Phê-rô còn
khăng khăng quả quyết với Thày: “Dầu tất cả có vấp ngã đi chăng nữa,
thì con cũng nhất định là không?” Nhưng chỉ mấy giờ sau thì Phê-rô đã
chối phăng mối liên hệ của mình với Thày khi bị hai đứa tớ gái và gia nhân nhà
thượng tế hạch hỏi. Ba lần bị hỏi là ba lần chối thẳng thừng: “Tôi chẳng
biết, chẳng hiểu cô muốn nói gì! Tôi thề là không có biết người mà các ông nói
đó!”
- Năm là sau khi bị
Phê-rô chối, Chúa Giê-su còn bị các môn đệ khác bỏ rơi. Giu-đa đã bán Chúa. Phê-rô đã chối Chúa. Còn các môn đệ
khác thì cũng chẳng hơn gì. Trừ Gio-an có mặt dưới chân thập giá (theo
Tin Mừng Gio-an) thì tất cả các môn đệ khác đều đã cao chạy xa bay và trốn biệt
tăm biệt tích vì sợ hãi. Họ cũng nhát sợ như Phê-rô! Thế mà trước đó họ cũng
thề thốt với Thầy như Phê-rô vậy.
- Sáu là tại dinh thượng
tế Cai-pha, Chúa Giê-su là nạn nhân của những âm mưu đen tối và hèn hạ của giới hữu trách Đền Thờ
Giê-ru-sa-lem và Do-thái giáo của người Ít-ra-en: Họ là các thượng tế, kinh
sư và kỳ mục của dân, tức là giới lãnh đạo cao cấp của Đền Thờ. Họ tìm
mọi cách (kể cả vu oan, chứng dối) để loại trừ Người, chỉ vì Người không đi
theo họ, không phục vụ quyền lợi của họ và làm giảm uy tín của họ. Tại dinh
tổng trấn Phi-la-tô là đại diện của chính quyền đế quốc Ro-ma đô hộ, Chúa
Giê-su là nạn nhân của viên tổng trấn vừa nhát gan vừa tham quyền cố vị, khi
ông ta nhắm mắt làm ngơ trước người vô tội bị oan và đồng lõa với giới lãnh đạo
Do-thái giáo, để khử trừ vị thiên sai và ngôn sứ vô tội.
- Bầy là Chúa Giê-su là
Đấng bị đóng đinh và treo trên cây Thập giá trên ngọn đồi Gol-go-tha, nơi hành quyết những tên tội phạm
hình sự. Ở đây trước khi nhắm mắt lìa đời Chúa Giê-su còn bị nhạo báng, sỉ
vả và thách thức! Nhưng chính ở trên Cây Gỗ này mà Tình Yêu Cứu Chuộc của Thiên
Chúa đã được thể hiện một cách mãnh liệt và huy hoàng nhất!
3.2 Những Sứ Điệp của Bài
Thương Khó Mt 26,14 - 27,66:
- Sứ điệp đầu tiên là
chúng ta hãy đón nhận và tôn
vinh Tình Yêu vô bờ bến của Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa và là Thiên
Chúa làm người, đã chịu nạn chịu chết để cứu chuộc nhân loại. Vì yêu thương và
cứu độ loài người theo ý định của Chúa Cha, nên Chúa Giêsu đã chấp nhận mọi cực
hình trong tinh thần và thể xác.
- Sứ điệp thứ hai là
chúng ta hãy suy gẫm và tìm
hiểu tính bí nhiệm của chương trình hay kế hoạch của Thiên Chúa. Thiên Chúa
toàn năng toàn trí có thể cứu chuộc loài người bằng trăm triệu cách mà lại chọn
con đường Thập giá. Thiên Chúa cựchúaánh đã trở thành một kẻ tội phạm đáng
khinh bỉ, bị phản bội, bị đầy đọa một cách bất công….
- Sứ điệp thứ ba là
chúng ta hãy cảnh giác với
sự tráo trở của lòng dạ con người nơi chính bản thân chúng ta. Chúa
Giêsu đã là nạn nhân của sự nhát gan của các tông đồ và tổng trấn Philatô.
Người cũng đã là nạn nhân của sự xảo trá, ghen tỵ nhỏ nhen của giới lãnh đạo
tôn giáo. Người còn là nạn nhân của sự tàn ác, vũ phu của bọn lính và sự vô ơn
của đám đông quần chúng, thì chúng ta đừng quá ngây thơ mà cho rằng không ai có
thể phản bội chúng ta!
IV. PHẦN ĐÁP TRẢ CỦA CHÚNG
TA
Đọc/Nghe bài Thương Khó
của Tin Mừng Mátthêu (26,14 - 27,66) chúng ta không thể không đặt cho
mình ba câu hỏi sau:
- Một là tôi có suy nghĩ
và hành động giống Giuđa không? Có bao giờ tôi muốn Chúa Giêsu
làm theo ý mình không? Có bao giờ tôi đã cam tâm bán rẻ Chúa Giêsu và Đạo Thánh
của Người để lấy một chút vinh hoa, phú quí, quyền chức, tiền bạc hay thú vui
không?
- Haì là tôi có suy nghĩ
và hành động giống Phêrô không? Phêrô yêu Thày thật sự và với
tất cả tâm hồn và bầu nhiệt huyết. Nhưng Phêrô ỷ vào sức riêng mình và sợ chết.
Còn tôi, tôi có ỷ sức mình, có tự cao, tự đại, kiêu căng mà coi thường sự giòn
mỏng của bản thân mình không? Tôi có sợ bị liên lụy với Chúa Giêsu không?
- Ba là tôi có suy nghĩ
và hành động giống như các môn đệ khác của Chúa
Giêsu không? Tôi có nhát đảm, có sợ bị thiệt thòi, sợ bị sa thải, sợ mất việc
làm, sợ bị trù dập, sợ bị mang tiếng là người duy tâm lạc hậu khi người ta biết
tôi là người Công giáo, là Kitô hữu không?
V. CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa Giêsu là Ngôi
Lời Nhập Thể, là Bánh Hằng Sống, là Hy Lễ dâng lên Chúa Cha vì tội lỗi thế gian
và tội lỗi của con.
Xin ban cho con
ơn nhận biết và can đảm
tuyên xưng Chúa là Ngôi Lời,
ơn biết rao giảng, loan
truyền Chúa là Sự Thật,
ơn biết đi theo con
đưòng của Chúa vì chỉ có Chúa là Đường,
ơn biết thắp lên Ánh
Sáng Tin Mừng vì Chúa là Ánh Sáng,
ơn biết chết cho mình và
sống cho Chúa vì Chúa là Sự Sống,
ơn biết yêu Chúa và yêu
thương tha nhân vì Chúa là Tình Yêu,
ơn biết chia sẻ niềm vui
với mọi người vì Chúa là Niềm Vui,
ơn biết tận hiến đời con
cho Chúa vì Chúa là Của Lễ,
ơn biết trở nên khí cụ
trao ban bình an của Chúa vì Chúa là Bình An,
ơn biết khao khát và ơn
năng rước Thánh Thể vì Chúa là Bánh Hằng Sống.
(Phỏng theo tư tưởng của
Thánh Têrêxa Calcutta).
Sàigòn ngày 30/03/2023
Giêrônimô Nguyễn Văn
Nội.