HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CHÚA NHẬT
31 THƯỜNG NIÊN B
Đnl 6,2-6; Dt 7,23-28; Mc 12,28b-34
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mc 12, 28b-34
(28b) Khi ấy, có người trong nhóm kinh sư đến gần Đức
Giê-su và hỏi: "Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu?"
(29) Đức Giê-su trả lời: "Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Ít-ra-en. Đức
Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. (30) Ngươi phải yêu mến Đức
Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực
ngươi. (31) Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.
Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó".(32) Ông kinh sư nói với
Đức Giê-su: “Thưa Thầy, hay lắm. Thầy nói rất đúng. Thiên Chúa là Đấng duy nhất.
Ngòai Người ra không có Đấng nào khác. (33) Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết
trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi
lễ tòan thiêu và hy lễ. (34) Đức Giê-su thấy ông ta trả lời khôn ngoan như vậy
thì bảo: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!” Sau đó, không ai dám chất vấn
Người nữa.
2.Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng
hôm nay ghi lại câu trả lời của Đức Giê-su cho vị kinh sư Do Thái khi ông chất
vấn Người về điều răn nào là quan trọng nhất trong tòan bộ Luật pháp
Mô-sê. Người đã nêu ra hai điều răn quan trọng nhất là mến Chúa hết lòng và yêu
người thân cận như yêu chính mình. Ông kinh sư cũng nhất trí như vậy và còn cho
rằng hai điều này có giá trị hơn mọi của lễ tòan thiêu và hy lễ dâng lên Đức
Chúa tại đền thờ.
3.CHÚ THÍCH:
-C 28b-30: +Có
người trong nhóm kinh sư: Kinh sư hay Luật sĩ là những nhà chuyên môn về
Thánh kinh vì nghiên cứu Thánh kinh kỹ lưỡng và lâu dài. Số ít trong nhóm kinh
sư là tư tế, nhưng phần lớn là thường dân ủng hộ lập trường của nhóm
Pha-ri-sêu. Họ có uy tín và ảnh hưởng lớn trong dân. Các kinh sư là người giải
thích và áp dụng Luật Mô-sê vào đời sống của dân chúng. Các kinh sư cùng với
thượng tế và kỳ mục là ba thành phần trong Thượng hội đồng Do thái tại
Giê-ra-sa-lem (x. Cv 23,6). +trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu?: Trong
Tin Mừng Mát-thêu viết cho Kitô hữu gốc Do Thái, câu hỏi là “điều răn nào lớn
nhất?” (Mt 22,35). Còn ở đây Tin Mừng Mác-cô viết cho Kitô hữu gốc lương dân,
đã sửa lại câu hỏi theo nghĩa ưu tiên:”điều răn đứng đầu?. Thực ra các nhà kinh
sư thời đó thường tranh cãi để tìm ra trong số 613 điều răn trong Thánh Kinh, gồm
248 điều buộc và 365 điều cấm, đâu là điều luật quan trọng nhất. Cho tới lúc ấy
các kinh sư vẫn chưa thống nhất ý kiến. Ông kinh sư tin Đức Giê-su là “Đấng
rao giảng có uy quyền” sẽ cho câu trả lời chính xác. +Điều
răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Ít-ra-en. Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức
Chúa duy nhất.: Đức Giê-su đã trích khỏan Luật Mô-sê được những
người Do Thái đọc mỗi ngày 2 lần (Đnl 6,5). +“Nguơi phải yêu mến Đức Chúa hết
lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi”: Thiên
Chúa là chủ tể muôn loài, là Đấng duy nhất cao cả. Chính Ngài đã dựng nên muôn
vật, là nguồn sự sống và là cùng đích mọi loài. Vũ trụ chỉ tồn tại được nhờ
Ngài và trong Ngài. Vì thế người ta có bổn phận phải biết ơn và yêu mến Ngài
trên hết mọi sự.
-C
31-33: +Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu mến người thân cận như chính
mình: Người Do Thái vẫn mang nặng khuynh hướng bài ngọai
theo Luật Mô-sê: “Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù” (Mt 5,43). Ở đây Đức
Giê-su thêm “Điều răn thứ hai trích trong Luật Mô-sê (Lv 19,18): Tình yêu đối với
Thiên Chúa và đối với người thân cận là bản tóm lược mười điều răn ghi khắc
trên hai bia đá là “mến Chúa và yêu người”. +Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất
đúng. Thiên Chúa là Đấng duy nhất. Ngòai Người ra không có Đấng nào khác: Vị
kinh sư biểu lộ thái độ đồng ý với quan điểm của Đức Giê-su và nhắc lại câu trả
lời của Người để nhấn mạnh tính duy nhất của Thiên Chúa (Đnl 4,35; Xh 8,6; Is
45,21), Tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với tha nhân có liên hệ mật
thiết với nhau. +Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn,
hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình: Ông kinh sư nhắc
lại khía cạnh tri thức của tình yêu. + là điều quý hơn mọi lễ tòan thiêu và hy lễ: Khi
nhận định như vậy, ông kinh sư không phủ nhận nghi lễ phụng tự tại Đền Thờ, mà
cho thấy nghi lễ phụng tự bị hạ thấp giá trị so với việc thực thi lòng mến Chúa
và yêu tha nhân.
-C 34: +Ông
không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu: Ông kinh sư
đã hiểu biết và đánh giá đúng điều răn quan trọng trong Luật Mô-sê. Điều này
cho thấy ông đã suy nghĩ giống Đức Giê-su và có khả năng trở thành thành viên
trong Nước Thiên Chúa do Người sắp thiết lập (x. 10,13-16).
4. CÂU HỎI:
1) Kinh sư hay luật sĩ là ai? Phân biệt với người
Pha-ri-sêu thế nào?
2) Luật Mô-sê gồm bao nhiêu điều khỏan buộc và cấm? Tại
sao ông kinh sư lại hỏi Đức Giê-su về điều luật nào quan trọng và đứng đầu
trong bộ Luật Mô-sê?
3) Đức Giê-su đã trả lời cho ông kinh sư khỏan luật quan
trọng nhất thế nào? Ngừơi Do thái mỗi ngày phải đọc lại khỏan luật này mấy lần?
4) Đức Giê-su cũng cho biết điều luật thứ hai cũng quan
trọng không kém là khỏan luật nào? Hai điều luật này tóm lược Mười điều răn do
ai trao cho ông Mô-sê và được ghi khắc trên hai tấm bia đá?
5)Thái độ của ông kinh sư trước câu trả lời của Đức
Giê-su thế nào?
II.SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Đức Giê-su trả lời: "Điều răn đứng đầu
là: Nghe đây, hỡi Ít-ra-en. Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất.
(30) Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn,
hết trí khôn và hết sức lực ngươi. (31) Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người
thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn
đó"(Mc 12,29-31).
2. CÂU CHUYỆN:
1) LÀM SAO YÊU CHÚA KHI CHƯA GẶP VÀ
CŨNG KHÔNG THẤY NGƯỜI?
Một người mẹ
nói với cô con gái nhỏ về tình yêu Thiên Chúa. Cô bé tỏ ra bối rối thưa với mẹ:
“Mẹ ơi, làm sao con có thể yêu Chúa được? Con chưa bao giờ gặp Người”. Ít ngày
sau, cô bé nhận được một món quà gửi qua đường bưu điện, trong đó có một con
búp-bê có thể chớp mắt rất đẹp. Bên cạnh có tấm cart Noel ghi hàng chữ: “Chúc mừng
Giáng Sinh vui vẻ. Tặng Maria thân yêu con búp bê, Dì Rosa”. Bé Maria chưa bao
giờ gặp dì Rosa vì sống cách nhau hàng ngàn cây số. Khi bé Maria ôm
con búp bê vào lòng, em nói với mẹ rằng: “Mẹ ơi, con yêu dì Rosa quá!
Dì đã cho con búp bê rất dễ thương này” Bấy giờ mẹ bé Maria hỏi rằng:
“Làm sao con có thể yêu dì Rosa khi chưa bao giờ gặp dì?”. Maria liền
trả lời: “Con biết, nhưng con yêu dì, vì dì đã gởi cho con con búo bê này”.
Như vậy, dù chưa gặp Chúa và không nhìn thấy
Chúa, nhưng ta vẫn có thể yêu mến Chúa nhờ cảm nghiệm đươc tình yêu của Chúa dành
cho ta qua vũ trụ thiên nhiên và qua các ơn lành hồn xác Chúa đã ban cho ta.
2) PHƯƠNG CÁCH HỮU HIỆU ĐỂ LAN TRUYỀN TÌNH YÊU:
Trong báo Los Angeles ngày
13-13-1997 có đăng lá thư của một độc giả ở Sun City, California gởi cho nữ ký
giả Ann Landers – người phụ trách mục “Giải đáp thắc mắc” như sau:
Ba tôi đi làm sáu ngày một
tuần, còn mẹ tôi lúc nào cũng bận rộn với việc lau chùi nhà cửa, giặt giũ, nấu
ăn. Cả hai người đều lớn lên trong những gia đình không bộc lộ tình cảm. Ông bà
tôi không bao giờ bộc lộ tình cảm dành cho cha mẹ tôi và chẳng bao giờ nói với
họ rằng họ được yêu thương. Vì vậy, cũng dễ hiểu là tại sao ba mẹ tôi đã không
bộc lộ tình cảm hay nói những lời thương mến với chúng tôi.
Cuộc đời tôi đã thay đổi khi
tôi lên chín tuổi. Hôm ấy có dịp ở lại qua đêm ở nhà một cô bạn. Mẹ cô hôn cả
hai chúng tôi khi cho chúng tôi lên giường ngủ. Cử chỉ ấy đã biến đổi đời tôi.
Tôi quá cảm động vì hành vi yêu thương ấy, đến nỗi tôi không thể ngủ được. Tôi
nghĩ: “Đây mới thực là cách lẽ ra ba mẹ phải làm cho mình”. Khi về nhà, tôi đã
giận ba mẹ một thời gian. Nhưng vì không thể giận ba mẹ hoài vì tính tình sẵn
có của họ.
Đây là điều tôi đã làm để thay
đổi tình hình: Tôi bắt đầu hôn mẹ tôi thường xuyên đến nỗi mẹ tôi phải bật
cười. Tôi đã kết hôn khi lên 17 tuổi và đã có hai con khi chưa đầy 20. Tôi
thường hôn chúng đến khi má chúng ửng hồng. Khi nói chuyện với mẹ tôi trên điện
thoại, tôi nói: “Mẹ ơi! Con thương Mẹ!” Sau một thời gian, cuối cùng mẹ tôi
cũng đã nói được với tôi: “Mẹ cũng rất thương con”. Tôi chưa được nghe như thế
bao giờ. Sau lần ấy vài tuần khi tôi đến thăm mẹ, bà hỏi tôi: “Những cái hôn
của mẹ đâu?” Khi tôi sắp về mẹ tôi bảo: “Mẹ thương con. Con biết mà phải
không?”
3)
YÊU NGƯỜI, NHƯNG LẠI SỢ
NGƯỜI:
Dọc theo triền núi
Trường Sơn, có một ngôi mộ lâu đời, trên bia mộ có khắc dòng chữ như sau: “Tôi
thương người, nhưng lại sợ người”. Đây là câu nói của Hy Thanh, người nằm trong
ngôi mộ. Câu chuyện như sau: thời bấy giờ, Hy Thanh học cách tìm mạch nước ngầm
nơi một ông thầy giỏi nghề. Bạn bè nói với anh rằng: “Dưới đất lúc nào mà chẳng
có nước. Mày học làm chi cái nghề vô tích sự ấy”. Cha mẹ anh em trong nhà cũng
mắng anh: “Nếu mày cứ muốn học nghề đó thì ra khỏi nhà và đừng bao giờ vác mặt
về nhà này nữa!” Hy Thanh đành phải bỏ nhà ra đi. Ban ngày anh vừa đi học vừa
kiếm chỗ làm nghề phu khuân vác để kiếm
ăn. Tối đến xin vào ngủ trong chùa. Anh cứ kiên trì theo học nghề tìm mạch nước
ngầm ấy nhiều năm. Hai mươi năm sau, gặp lúc trời hạn hán, các giếng trong làng
đều khô cạn hết. Nhiều người bị chết khát vì không kiếm đâu ra nước uống. Bấy
giờ, người ta mới chợt nhớ đến Hy Thanh và cử người đến yêu cầu anh tìm kiếm
mạch nước ngầm
để giúp dân làng. Hy Thanh đã đi
tìm và đã sớm tìm ra mạch nước
ngầm, khơi được nguồn nước
lênh láng. Dân các nơi khác nghe tin kéo đến xin nước uống rất đông. Họ vui mừng ca tụng tài năng xuất chúng của anh.
Nhưng rồi có kẻ do khát lâu ngày, đã uống quá nhiều nước nên
ngã ra chết. Thế là nhiều người
thay vì tỏ lòng biết ơn lại quay ra chửi bới mạt sát Hy Thanh thậm tệ. Lũ người
nhà của kẻ bị chết còn hè nhau xông vào đánh đập anh đến chết. Trước khi nhắm mắt
lìa đời, Hy Thanh thều thào nói: “Tôi thương người, nhưng lại sợ người”.
4. MÙI CỌP:
đối với nguời dạy thú thì Nhưng
đến đêm hôm sau thì người vợ lại bị chết. Cô chết vì bị con cọp dữ cô có trách
nhiệm huấn luyện đã không còn nhận ra cô là huấn luyện viên của nó nữa, vì mùi
cọp quen thuộc trên người cô đã biến thành mùi nước hoa xa lạ. Con cọp bị hoảng
hốt khi ngửi mùi lạ nên khi cô đến gần, nó đã tự vệ bằng cách tấn công cô khiến
cô đã bị chết dưới móng vuốt của nó.
Người vợ vì yêu chồng đã tẩy rửa mùi cọp nên phải hy
sinh mạng sống: Yêu đích thực là sẵn sàng hy sinh chịu chết để biểu lộ tình
yêu trọn vẹn. Đó là ý nghĩa của mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Chúa Giê-su. Người
đã yêu thương chúng ta đến cùng, nên sẵn sàng hy sinh mạng sống vì chúng ta, và
đã sống lại để hồi phục sự sống đời đời cho chúng ta. Người mời gọi chúng ta noi
gương Người để sẵn sàng hy sinh bản thân để phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân.
5) YÊU THƯƠNG LÀ
PHƯƠNG THẾ HỮU HIỆU ĐỂ LÀM CHỨNG CHO CHÚA:
SHIRIEDA
là một thanh niên Nhật Bản, trong phi đội Thần Phong, sống sót sau một lần ném
bom khi phi cơ bị trúng đạn. Tuyệt vọng vì nước Nhật đầu hàng, khi quả bom
nguyên tử rớt xuống Na-ga-sa-ky. Để trả thù cho dân tộc, anh quyết định đi ăn
trộm bất cứ cái gì của những người Âu Châu. Trưa hôm ấy, anh lẻn vào kho của
nhà dòng Salésien, nhưng chẳng may bị phát giác. Anh định bỏ chạy, nhưng đã sớm
bị bắt. Anh thú nhận vì cần đanh mà anh đã ăn trộm. Cha bề trên dân anh trở lại
nhà kho,lấy cho anh một túi đanh và bảo:
–
Lần sau, nếu cần gì, anh cứ đến với với tôi.
Anh
ngạc nhiên trở về nhà và suốt đêm hôm ấy anh đã suy nghĩ về hành động bác ái
trên. Sáng hôm sau, anh trở lại nhà dòng và nói với cha bề trên:
–
Xin cha dạy con cũng biết sống yêu thương như cha.
Và
cuối cùng, anh đã trở thành một linh mục Công giáo.
Hãy tuân giữ giới luật yêu thương, để chúng ta xứng đáng là môn đệ thực sự của Chúa.
Và hơn thế nữa, chính cuộc sống ngập tràn tình bác ái yêu thương của chúng ta
sẽ là một bài giảng hùng hồn, có sức lôi
cuốn người khác tin theo Chúa.
3. SUY NIỆM:
Đức Chúa đã ban cho dân Do Thái mười điều răn được khi khắc
trên hai bia đá qua trung gian Mô-sê. Về sau, các luật sĩ đã giải thích áp dụng
cụ thể làm thành 613 khoản luật gồm 248 luật buộc làm và 365 luật cấm làm. Các
đầu mục Do Thái thời Đức Giê-su đã không đồng ý với nhau về điều luật nào trọng
nhất, nên hôm nay họ hỏi Đức Giêsu: “Trong các giới răn, điều nào trọng nhất?”
Người đáp: “Hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn
và hết sức ngươi. Còn giới răn thứ hai: Hãy yêu mến tha nhân như chính mình
ngươi” (Mc.12,30-31). Đức Giê-su đã
tóm lại toàn bộ các giới răn vào một giới răn trọng nhất là “mến Chúa
yêu người”.
1) MẾN CHÚA HẾT LÒNG VÀ YÊU THA NHÂN NHƯ YÊU MÌNH:
Giới răn thứ nhất trích trong sách Đệ Nhị luật đoạn 6, câu 5.
Giới răn thứ hai rút trong sách Thứ luật đoạn 19, câu 18. Qua đó Đức Giê-su đã liên
kết luật mến Chúa với luật yêu người. Người đã kết hợp hai điều thành một điều,
như hai mặt của một đồng tiền. Về sau, thánh Gio-an còn quả quyết như sau: “Nếu
ai nói: “Tôi yêu mến Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là một kẻ nói dối
; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến
Thiên Chúa, Đấng mà họ không thấy” (1Ga.4,20). Tuy nhiên Đức
Giê-su còn nhấn mạnh thương người chính là điều kiện để biểu lộ lòng mến Chúa thực sự và để lễ vật chúng ta dâng lên xứng đáng được
Chúa chấp nhận: “Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực
nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó
trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của
mình” (Mt 5,23-24). Thế nhưng, cụ thể chúng ta phải yêu thương anh em như thế nào?
2) KỶ SỞ BẤT DỤC, VẬT THI Ư NHÂN:
- Truyền thống
Do Thái có câu chuyện như sau: Ngày kia một người tìm đến với thầy SA-MAI, thuộc
phái giải thích luật một cách nghiêm khắc và cho biết mình có ý định tìm kiếm
chân lý. Ông hỏi: “Thầy có thể dạy tôi tóm lược tất cả các lề luật trong thời
gian tôi đứng trên một chân. Vì tôi không thể ở lại Giê-ru-sa-lem lâu được”.
Nghe nói thế, thầy Sa-mai nổi giận và truyền đuổi ông ra khỏi nhà mình. Không mất
niềm hy vọng, ông ta tìm đến với thầy GIL-LEN, một người vừa thông thái, lại vừa cởi mở phóng
khoáng. Trước cùng một câu hỏi được đưa ra, thầy Gil-len đã trả lời: “Đừng làm cho người khác điều anh không muốn
họ làm cho anh. Đó là cái cốt lõi của lề luật. Tất cả những thứ khác, chỉ
là để giải thích cho giới luật này mà thôi”.
- Trong Cưu
Ước, Tô-bi-a cha đã khuyên Tô-bi-a con như sau: “Điều con không thích thì đừng làm cho người khác” (Tb 4,15a). Điều
không thích còn bao hàm các việc cụ thể như: không nói xấu, không ganh tỵ,
không trộm cắp và rất nhiều những điều khác nữa. Nhờ đó cuộc sống của chúng ta
sẽ được an vui hạnh phúc. Đức Khổng Tử cũng khuyên đồ đệ tương tự: “Điều mình không muốn thì đừng làm cho
người khác”. Còn Đức Giê-su đã
dạy các môn đệ phải thực hành
yêu thương tích cực: ”Vậy tất cả những
gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người
ta, vì Luật Mô-sê và lời các ngôn sứ là thế đó” (Mt 7,12).
3) THỰC HÀNH GIỚI RĂN YÊU NGƯỜI CỤ THỂ:
Yêu thương
không chỉ bằng lời nói suông, hay bằng tình cảm nhất thời chóng qua, nhưng bằng
các việc làm cụ thể như
kinh Thương Người dạy, trong đó gồm thương xác bảy mối
và thương linh hồn bảy mối. Thánh Gia-cô-bê cũng đòi các tín hữu phải yêu
thương bằng việc đáp ứng
nhu cầu thiết yếu của tha nhân như sau: “Giả như có người anh em hay chị em không có áo
che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ:
"Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no", nhưng lại không cho họ những
thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì?” (Gc 2, 15-16).
4) YÊU THƯƠNG CỤ THỂ THEO LINH ĐẠO CỦA MẸ TÊ-RÊ-SA:
Mẹ Tê-rê-sa
Can-quýt-ta đã dạy các nữ tu cần
thực hành yêu thương cụ thể như sau:
- Hãy bắt đầu yêu thương các người thân trong
gia đình: “Tôi luôn luôn nói rằng, tình yêu phải khởi sự từ gia đình trước
đã, rồi sau đó mới đến thành phố hay đô thị. Yêu thương những người ở xa chúng
ta thì dễ, nhưng yêu thương những người sống với chúng ta hay ở ngay bên chúng
ta lại không dễ chút nào.”
- Đừng xét đoán hay nói xấu tha nhân: “Nếu
bạn xét đoán, bạn sẽ không còn giờ để yêu họ”.
- Hãy quảng đại cho đi: “Bạn phải cho đi
những gì làm bạn bị thiệt thòi. Như thế, không chỉ cho đi những gì dư thừa,
nhưng cho cả những gì bạn không thể sống nếu không có nó, những gì bạn thật sự
yêu thích. Như thế, món quà của bạn trở thành lễ hy sinh, có giá trị trước mặt
Chúa”.
4.THẢO LUẬN:
Để thực hành lối sống yêu thương cụ thể nói trên, bạn cần
tập sống tình mến Chúa yêu người theo phương cách nào hữu hiệu nhất?
5. NGUYỆN CẦU: Phục vụ trong yêu thương:
Lạy Chúa,
xin giúp chúng con luôn sống phục vụ trong yêu thương:
Nơi cộng
đoàn, biết tâm đầu ý hợp.
Trong gia
đình, biết mặn mà dễ thương.
Ngoài xã hội,
biết đối xử tốt và thương xót.
Với mọi người,
biết nhân nhượng và tôn kính nhau.
Khi làm việc,
biết siêng năng và tận tình.
Trong mọi sự,
biết tha thứ, chịu đựng và tin tưởng.
Ở mọi nơi,
luôn chiếu tỏa lòng Chúa hiền hậu và khiêm nhường.
Trước cám dỗ,
luôn chiến thắng để bền đỗ trong ơn thánh.
Nhờ đó,
chúng con trở nên tông đồ được Chúa sai đi,
Mà làm chứng
về Chúa cho mọi ngươi.- AMEN.
(Lời cầu của
Mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta).
LM ĐAN VINH
– HHTM