HIỆP SỐNG
TIN MỪNG
CN 3 MÙA VỌNG B
Is 61,1-2a.10-11 ; 1 Tx 5,16-24 ; Ga
1,6-8.19-28
I.HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Ga 1,6-8.19-28:
(c 6) Có một người được Chúa sai
đến, tên là Gio-an. (c 7-8) Ông đến để làm chứng, và làm chứng về
ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng,
nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng. (c 19) Và đây là lời chứng
của ông Gio-an: Khi người Do Thái từ Giê-ru-sa-lem cử một số tư tế và
mấy thầy Lê-vi đến hỏi ông: “Ông là ai?”. (c 20) Ông tuyên bố thẳng
thắn. Ông tuyên bố rằng: “Tôi không phải là Đấng Ki-tô”. (c 21) Họ lại
bảo ông: “Vậy thì thế nào? Ông có phải là ông Ê-li-a không?” Ông nói:
“Không phải”. -“Ông có phải là vị ngôn sứ chăng?” Ông đáp: “Không”. (c
22) Họ liền nói với ông: “Thế ông là ai, để chúng tôi còn trả lời
cho những người cử chúng tôi đến? Ông nói gì về chính ông?”. (c 23)
Ông nói: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho
thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ I-sai-a đã nói. (c 24) Trong nhóm
được cử đi, có mấy người thuộc phái Pha-ri-sêu. (c 25) Họ hỏi ông:
“Vậy tại sao ông làm phép Rửa, nếu ông không phải là Đấng Ki-tô, cũng
không phải là ông Ê-li-a hay vị ngôn sứ?”. (c 26) Ông Gio-an trả lời:
“Tôi đây làm phép Rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông
mà các ông không biết. (c 27) Người sẽ đến sau tôi, và tôi không xứng
đáng cởi quai dép cho Người”. (c 28) Các việc đó đã xảy ra tại
Bê-ta-ni-a, bên kia sông Gio-đan, nơi ông Gio-an làm phép Rửa.
2. Ý CHÍNH:
Gio-an Tẩy Giả có sứ mạng đi trước dọn
đường cho Đấng Thiên Sai. Ông đã thi hành sứ mạng tiền hô bằng việc làm
chứng về Đấng Ki-tô là ánh sáng qua lời tuyên bố: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng
để Đức Chúa đi”, như sấm ngôn của ngôn sứ I-sai-a. Ông thi hành sứ
mạng dọn đường cho Đấng Thiên Sai bằng việc kêu gọi người ta ăn năn sám hối để
đón Đấng Thiên Sai. Ông giúp mọi người sám hối, thú tội và chịu phép rửa trong nước
sông Gio-đan. Ông cũng làm chứng rằng Đấng Thiên Sai đã đến và đang ở giữa mọi
người và ông không đáng làm đầy tớ cho Người.
3. CHÚ THÍCH:
-
C 6: + Gio-an: Là con trai của hai ông bà
Da-ca-ri-a và Ê-li-sa-bét. Bà Ê-li-sa-bét đã thụ thai cách lạ nhờ
quyền năng Thiên Chúa (x. Lc 1,59-60). Tên Gio-an có nghĩa là “Chúa ban
ơn”. Tên này do sứ thần Chúa khi hiện ra trong Đền thờ đã truyền cho ông
Da-ca-ri-a phải đặt cho con trẻ (x. Lc 1,13). Ngoài tên gọi Gio-an, ông
còn có hai biệt danh là Tiền Hô và Tẩy Giả. Tiền hô hay Tiền
Sứ là người “đi trước dọn đường cho Đấng Ki-tô” (x. Lc 1,17); Tẩy
Giả là người “làm phép Rửa cho những người đang mong chờ ơn cứu
chuộc Ít-ra-en” (x. Lc 3,3).
-
C 20-23): +
Ê-li-a: Theo sách Ma-la-ki-a (3,1-2) và Gíao Sĩ (48,10-11) thì
Ê-li-a sẽ trở lại trước khi Đấng Thiên Sai xuất hiện. Gio-an Tẩy Giả
không nhận mình là Ê-li-a theo nghĩa đen đó. Điều này không trái ngược
với lời Đức Giê-su khẳng định: “Gio-an chính là Ê-li-a, đấng phải
đến trước” (x. Mt 11,14). Gio-an xuất hiện trong tinh thần của Ê-li-a, chứ
không phải là chính con người Ê-li-a bằng xương bằng thịt. + Ngôn
sứ: Thực ra, Gio-an cũng là một ngôn sứ của Thiên Chúa (x. Đnl
18,15). Nhưng ông không phải là ngôn sứ giống như ông Mô-sê mà sách Đệ
Nhị Luật đã nói đến. + “Thế ông là ai...?”: Gio-an
Tẩy Giả đã trả lời rằng: ông chỉ là người Tiền Hô, đi trước dọn
đường cho Đấng Thiên Sai.
-
C 24-27: + “Vậy tại sao ông làm
phép rửa...?”:
Gio-an trả lời rằng:
Ông chỉ làm phép rửa để thanh tẩy người ta bằng nước, chuẩn bị đón Đấng
Ki-tô sắp đến. Còn Đức Ki-tô mới làm phép rửa thanh tẩy người ta trong
Thánh Thần. Người là Đấng quyền năng mà Gio-an không xứng đáng hầu hạ
Người.
4. CÂU HỎI: 1) Gio-an trong Tin mừng hôm nay là ai? Tên Gio-an
nghĩa là gì và ai đã đặt tên này cho ông? 2) Đức Giê-su đã khẳng định
“Gio-an chính là Ê-li-a, đấng phải đến trước” (x Mt 11,14). Vậy tại sao
chính Gio-an lại nói mình không phải là Ê-li-a hay ngôn sứ? 3) Gio-an tự
xưng là gì và lý do nào khiến ông làm
phép rửa cho dân chúng?
II.SỐNG
LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Có một người được Thiên
Chúa sai đến, tên là Gio-an. Ông đến để làm chứng và làm chứng về ánh sáng, để
mọi người nhờ ông mà tin”(Ga 1,6).
2. CÂU CHUYỆN:
1) CHỈ CÓ NIỀM VUI THỰC SỰ KHI CÓ CHÚA
LÀ TÌNH YÊU TRONG TÂM HỒN:
Tại một thành phố kia có một nghệ sĩ hài
nổi tiếng. Người nào dù đang buồn đến đâu, khó tính đến mấy nếu được xem nghệ
sĩ biểu diễn thì thế nào cũng phải bật cười.
Cũng trong thành phố ấy có một bác sĩ
tâm lý nổi tiếng chữa được mọi thứ tâm bệnh. Ngày nọ có một người đàn ông lớn
tuổi, vẻ mặt buồn rầu đến xin bác sĩ tâm lý tư vấn. Ông ta nói: “Thưa bác sĩ,
tôi là một con người bất hạnh. Cuộc đời tôi đầy những sự chán chường. Bác sĩ có
cách nào làm cho tôi vui lên được không?”
Bác sĩ tâm lý liền hỏi: “Thế ông có bị
túng thiếu về tiền bạc không?”
Ông ta đáp: “Thú thật, tôi là người
thành đạt và khá giầu có”.
Nhà tâm lý lại hỏi tiếp: “Thế còn gia
đình vợ con thì sao?”
Ông ta gật đầu thừa nhận: “Tôi có một
người vợ vừa đẹp người lại vừa đẹp nết và có mấy đứa con ngoan ngoãn dễ thương”.
Sau khi hỏi để biết thêm một số điều
khác, viên bác sĩ tâm lý đã đề nghị cho ông ta một giải pháp: Tôi nghĩ ông nên
đến xem các buổi biểu diễn của một nghệ sĩ hài danh tiếng ngay trong thành
phố. Chắc chắn ông sẽ cảm thấy cười vui thỏa thích và sẽ không còn buồn nữa. Nhưng
viên bác sĩ lại rất ngạc nhiên khi nghe thân chủ của mình nói: “Thưa bác sĩ,
xin cám ơn bác sĩ. Nhưng... tôi chính là nghệ sĩ hài nổi tiếng trong thành phố
mà bác sĩ vừa nói đó!”
Câu chuyện nghe có vẻ nghịch lý, nhưng
thực tế đúng như vậy. Một người có biệt tài chọc cười người khác lại là nạn
nhân của sự buồn chán. Mặc
dù ông ta sở hữu mọi thứ ưu điểm mà nhiều người mong ước, nhưng do trong lòng không có nguồn vui thì làm sao cảm
nghiệm được niềm vui? Niềm vui đích thực chỉ đến từ nơi « Thiên Chúa là
Tình yêu. Ai có tình yêu thực sự thì ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong
người ấy ». Chỉ những ai trong lòng chứa đầy tình yêu nhân ái thì tâm hồn
mới được bình an và lòng mới có niềm vui thực sự.
2) GƯƠNG CAN ĐẢM TRUNG THỰC CỦA THÁNH GH
GIO-AN PHAO-LÔ II:
-Trong thời gian chuẩn bị mở Đại Năm
Thánh 2000, thánh Giáo Hoàng Gio-an Phaolô II đã kêu gọi mọi thành phần
trong Hội thánh phải thành tâm sám hối. Vào tháng 05 năm 1995, tại
nước cộng hòa Xéc (Tchèque), ngài đã nêu gương can đảm và trung thực khi
đại diện Hội thánh Công Giáo công khai nhận lỗi như sau: “Hôm nay tôi, Giáo Hoàng của Giáo Hội Rô-ma,
nhân danh tất cả những người Công giáo, tôi xin lỗi về những lầm lỗi
đã gây ra cho người không Công giáo trong lịch sử sóng gió của các dân tộc ấy”.
- Thực vậy, trong lịch sử 2000 năm,
do lỗi của một số các chủ chăn, Hội thánh ít nhiều đã phạm một số lỗi
lầm cần được nhìn nhận và quyết tâm sám hối như sau:
+ Hội thánh cũng có một phần trách nhiệm
trong sự phân rẽ nội bộ thành bốn tôn giáo Ki-tô như: Công giáo, Chính
thống, Tin lành và Anh giáo.
+ Thời kỳ trung cổ Hội thánh đã có lần
buộc phải phát động thánh chiến để giải phóng Đất Thánh đã bị người
Hồi giáo xâm chiếm trước đó. Do cuộc thánh chiến này mà đã có rất nhiều
người của hai bên bị thương vong.
+ Thời kỳ Trung cổ, Hội thánh lập toà
án “Qui Tà” để xét xử và ra những bản án nặng nề kết án hỏa thiêu một
số người hành nghề phù thủy và những người dị giáo chống lại Hội thánh.
+ Về phạm vi khoa học, Hội thánh có lần
đã lập tòa án tôn giáo kết án oan sai cho một nhà khoa học vô tội là
Ga-li-lê-ô...
Qua việc công khai thừa nhận những sai
sót của Hội Thánh trong quá khứ, Đức Thánh Cha muốn cho thấy quyết tâm canh tân
Hội thánh công giáo để giúp Hội Thánh bước vào thiên niên kỷ thứ ba với một
tinh thần mới theo sát Tin Mừng của Chúa Giê-su hơn và phù hợp với giai đoạn
mới của lịch sử nhân loại hơn.
- Trong những ngày Mùa Vọng này, noi
gương Đức Thánh Giaó Hoàng Gio-an Phaolô II, mỗi người chúng ta cần làm gì để
chuẩn bị tâm hồn đón mừng đại lễ Giáng Sinh?
3)
THẮP LÊN NGỌN ĐÈN TIN YÊU CHO THA NHÂN NOI GƯƠNG MẸ TÊ-RÊ-SA:
Một ngày kia mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta đã đi thăm một ông lão nghèo không
ai biết đến. Ông sống trong một căn phòng tồi tệ, đồ đạc ngổn ngang bụi bặm.
Căn phòng không cửa sổ và tối tăm vì không một bóng đèn. Mẹ Tê-rê-sa liền bắt
tay vào việc thu dọn đồ đạc. Ông lão kia nói to: "Xin cứ để yên cho
tôi". Nhưng mẹ Tê-rê-sa vẫn tiếp tục làm công việc quét dọn. Sau khi mọi
thứ đã ngăn nắp sạch sẽ, mẹ đã phát hiện một chiếc đèn dầu nằm trong góc phòng.
Chiếc đèn bám đầy bụi bặm, chứng tỏ đã lâu ngày không có ai đụng đến. Mẹ liền
lau chùi chiếc đèn sạch sẽ rồi hỏi: “Lâu nay ông không có thắp cây đèn này phải
không ?”. Ông ta đáp: “Thắp đèn làm chi ? Nào có ai thèm đến thăm tôi đâu ? và
tôi cũng chẳng cần phải gặp gỡ hay nói chuyện với ai”. Mẹ lại hỏi: “Thế ông có
hứa sẽ thắp đèn lên nếu có các nữ tu của tôi đến thăm ông không?”. Ông đáp:
“Vâng, nếu tôi nghe có tiếng người đến thì tôi sẽ thắp đèn lên”.
Từ đó, mỗi ngày, đều có hai nữ tu của mẹ Tê-rê-sa được cử đến thăm
ông lão và dọn phòng giúp đỡ cho ông. Một hôm ông nói với một trong hai nữ tu
ấy như sau: “Bây giờ tự tôi đã biết thu dọn phòng của tôi rồi. Nhưng xin chị
làm ơn về nói với bà bề trên rằng: Ngọn đèn mà bà đã thắp lên trong ngày đầu
đến thăm tôi, đến nay vẫn không ngừng cháy sáng”.
Hãy thắp lên Ánh
sáng Tình Yêu Thiên Chúa–Ánh sáng Chúa Ki-tô–Ánh sáng Lời Chúa–Ánh sáng yêu
thương. Chắc chắn cây đèn đức tin ấy sẽ luôn cháy sáng đức ái trong
lòng người đón nhận.
4)
CHIẾU SÁNG ĐỨC ÁI BẰNG NHỮNG VIỆC NHỎ BÉ GIỮA ĐỜI THƯỜNG:
Linh mục Anthony de Mello có kể một câu
chuyện sau đây:
Có gia đình kia đi nghỉ hè một thời gian
dài tại bờ biển. Ngày nọ, mấy đứa con đang nô đùa, xây những lâu đài bằng cát
trên bãi biển, thì có một bà lão xuất hiện. Tóc bà rối bời trong gió, áo quần nhàu
nát rách rưới. Bà vừa lẩm bẩm, vừa cúi nhặt những vật gì đó trên mặt cát bỏ vào
trong giỏ. Cha mẹ lũ nhỏ liền gọi chúng lại gần và dặn chúng hãy tránh xa mụ
đàn bà kia. Khi đi ngang qua chỗ gia đình này, bà lão nghèo khổ đã mỉm cười
với họ, nhưng mọi người làm như không nhìn thấy bà. Nhiều tuần lễ sau, cả gia
đình mới được nghe người biết chuyện kể về cuộc sống của bà lão nghèo này
như sau: Đã từ lâu, bà đã tình nguyện đi làm công việc lượm các mảnh thủy tinh
và rác rến rơi vãi trên bãi cát, để tránh cho bọn trẻ chạy chơi trên bãi khỏi
bị đứt chân.
Bà lão chính là hiện thân của Đức Giê-su
Cứu Thế mà người ta không nhận biết, như ông Gio-an Tẩy Giả đã nói với các đầu
mục Do thái đến từ thủ đô Giê-ru-sa-lem như sau: “Giữa các ngươi có một Đấng mà
các ngươi không biết” (Ga 1,26). Đây cũng là lời mời gọi chúng ta hãy noi
gương âm thầm phục vụ của bà lão này.
5)
MỘT VIỆC TỐT CÓ GIÁ TRỊ THUYẾT PHỤC HƠN NGÀN LỜI NÓI HAY:
Một vị linh mục đã thuật lại về chuyến
đi du lịch của ông tại Trung quốc cách đây ít năm. Trong thời gian đi du lịch
đó đây, ông đã gặp và trao đổi với đôi vợ chồng già đều là bác sĩ. Họ đã học
chung với nhau ở Đại học Y khoa, quen nhau, rồi yêu nhau và quyết định cưới
nhau. Bà vợ là người công giáo, còn ông chồng không theo đạo nào. Đã nhiều lần bà
vợ cố thuyết phục chồng theo đạo Công giáo, nhưng ông không quan tâm. Có lẽ vì ông
chưa thấy đạo công giáo có gì tốt hơn các đạo khác.
Rồi đến thời kỳ tại Trung Quốc diễn ra
những biến cố chính trị lớn lao, cùng với một số nhà trí thức khác, người chồng
bác sĩ đã bị gọi động viên nhập ngũ phục vụ trong quân đội. Sự xa cách đã gây
ra nhiều khó khăn cho người vợ ở nhà. Hằng ngày chị vừa phải phục vụ khám chữa
bệnh tại bệnh viện, rồi đêm về lại phải chăm sóc cho con trai nhỏ dại đã nhờ
ông bà coi sóc ban ngày. Ngoài nỗi cô đơn, chị vợ còn bị các đoàn thể trong cơ
quan hối thúc li dị chồng và bỏ đạo công giáo, để có điều kiện thăng quan tiến
chức. Nhưng chị luôn giữ im lặng. Mỗi ngày, sau khi từ bệnh viện về nhà, hai mẹ
con đều đọc kinh tối chung trước khi nghỉ đêm, để xin Chúa giúp sớm được đoàn
tụ với chồng.
Vào cuối thập niên 1970, ông chồng mãn
hạn phục vụ quân đội trở về nhà. Nhận được tin nhắn, hai mẹ con từ sáng sớm đã ra
sân ga đón đoàn tàu trở về. Nhưng tại nhà ga, hai mẹ con là gia đình duy nhất
ra đón người thân, vì hầu hết các phụ nữ khác do không chịu đựng được cảnh chia
ly lâu ngày nên đều đã li dị chồng và đã tái hôn. Trước tấm lòng yêu thương
chung thủy của vợ, ông chồng rất cảm động và sau đó đã tình nguyện xin học giáo
lý để được nhập đạo công giáo. Ông đã cảm nghiệm được giá trị của đức tin qua
hành động chung thủy của bà vợ thân yêu. Đây chính là bằng chứng cho thấy sức
mạnh của lòng tin yêu thực sự.
3. THẢO LUẬN: Mỗi người chúng ta sẽ
làm gì cụ thể để chiếu ánh sáng tin yêu cho những người nghèo khổ cô đơn gần bên,
và làm chứng ánh sáng Tình Yêu của Thiên Chúa cho những người bất hạnh trong
Mùa Giáng Sinh sắp tới ?
4. SUY NIỆM:
1)
MÙA VỌNG LÀ THỜI GIAN CHUẨN BỊ TÂM HỒN ĐÓN MỪNG CHÚA ĐẾN:
Trong phụng vụ Chúa nhật thứ nhất Mủa
Vọng, Tin mừng Mat-thêu đã ghi lại Lời Chúa mời gọi mọi người tỉnh thức và cầu
nguyện: “Anh em hãy canh thức vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến”
(Mt 24, 42). Chúa nhật thứ II, tiếng hô của ngôn sứ I-sai-a trong hoang địa
ngày xưa đã được Gio-an Tẩy Giả thực hiện qua lời rao giảng: “Hãy dọn sẵn con
đường cho Đức Chúa. Sửa lối cho thẳng để Người đi” (Mt 3,3). Hôm nay phụng vụ
Chúa Nhật thứ III màu áo lễ đã chuyển từ tím sang hồng, chúng ta được
nghe lời thánh Phao-lô khuyên các tín hữu như sau: “Hãy vui lên, vì Chúa đã
gần đến” (1 Tx 5,16). Tin Mừng
Gio-an cũng giới thiệu cho chúng ta một mẫu gương chứng nhân của ánh sáng là ông
Gio-an Tẩy Giả: "Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên ông là Gio-an,
ông đã đến để làm chứng, để chứng thực về sự sáng, ngõ hầu mọi người nhờ ông mà
tin. Ông không phải là sự sáng, nhưng là người làm chứng cho sự sáng". Gio-an
Tẩy Giả đã dùng lời nói, việc làm và cả cái chết anh dũng của mình để làm chứng
cho Ánh Sáng và Sự Thật là Đức Giê-su.
2)
PHẢI CHUẨN BỊ ĐÓN CHỜ CHÚA ĐẾN NHƯ THẾ NÀO ?
-Đón chờ Chúa đến bằng việc làm chứng về
ánh sáng:
Người làm chứng là người sống
đúng với lời làm chứng của mình. Gioan “đến để làm chứng về ánh sáng” bằng cách
loan báo cho người ta biết Ánh Sáng là Đấng Thiên Sai sắp đến. Khi có người
tưởng ông là Đấng Thiên Sai thì ông đã thẳng thắn phủ nhận. Rồi khi Đấng Thiên
Sai là Đức Giê-su xuất hiện, thì ông đã giới thiệu Người là “Con Chiên Thiên
Chúa, Đấng xóa tội trần gian” và khuyến khích hai môn đệ bỏ ông để đi theo làm
môn đệ Người. Ông đã khiêm tốn nói lên sứ mệnh của mình với Đấng Thiên Sai như
sau: “Ngài phải sáng lên, còn tôi phải mờ đi”.
Theo gương Thánh Gioan chứng
nhân về ánh sáng, mỗi người chúng ta cần sống yêu thương qquên mình phục vụ tha
nhân. Sống chứng nhân về ánh sáng cũng là theo lương tâm giúp mọi người nhận
biết Chúa và tin theo Người để được ơn cứu độ.
-Đón chờ Chúa đến bằng việc làm chứng
cho sự thật:
Gio-an đã làm chứng cho sự thật
khi dám lên tiếng can ngăn vua Hê-rô-đê không được cưới bà chị dâu là
Hê-rô-đi-a làm vợ mình, dù vì sự làm chứng này mà ngài đã bị bạo vương Hê-rô-đê
bỏ tù và còn bị chém đầu. Gio-an không sợ quyền lực, không hùa theo kẻ có quyền.
Trước điều sai trái, ngài không im lặng để bản thân được an toàn, hoặc để được
xã hội ưu đãi. Gio-an đã lên tiếng làm chứng cho sự thật.
Còn chúng ta hôm nay hãy luôn xác
tín rằng: Thiên Chúa của chúng ta tôn thờ là Thiên Chúa Trung Tín (1 Tx 5,24). Chúa
Giê-su chính “là Đường, là Sự thật và là Sự sống” (Ga 14,6). Chúa đã gọi chúng
ta làm môn đệ và trao cho chúng ta sứ mạng đi loan báo Tin Mừng Nước Trời (Mt
25,21; Mt 28,19) bằng cách làm chứng nhân cho sự thật và sống trung tín giữa
một thế giới gian tà và tội lỗi bất công. Nhờ đó chúng ta sẽ chu toàn được sứ
mạng dọn đường để đón Chúa đến với mọi người.
- Đón chờ Chúa đến trong niềm tín thác vào ơn
cứu độ của Chúa:
Đấng Cứu thế đến
ban ơn cứu độ không những chữa lành bệnh tật thể xác, mà còn chữa lành các bệnh
tâm hồn và lấp đầy những khát vọng của mỗi người chúng ta, như lời tuyên sấm
của ngôn sứ I-sai-a: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong
tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, Người đã sai tôi đi công bố cho
kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự
do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4,18-19).
Trong những
ngày này, mỗi người chúng ta hãy năng dâng lên Chúa lời ca tụng tín thác vào
Chúa trong mọi giây phút cuộc sống, khi
vui cũng như lúc buồn, khi thành công cũng như lúc thất bại… vì xác tín rằng: “Tất
cả đều là hồng ân”. Khi gặp phải những tai ương trái ý, chúng ta đừng thất
vọng, nhưng hãy tin rằng Chúa vẫn đang ở bên và đồng hành với chúng ta. Người sẽ
ban ơn nâng đỡ giúp chúng ta vượt qua mọi khó khăn trở ngại. Hãy luôn xác
tín rằng: “Sau cơn mưa rồi trời sẽ lại sáng” và “Qua cơn bĩ cực tới hồi thái
lai”, vì Thiên Chúa quyền năng “có thể rút từ sự dữ ra sự lành ».
- Đón chờ Chúa đến bằng việc chia sẻ tình thương tha nhân cụ thể:
Trong những ngày Mùa Vọng này, ngoài
việc sống hiền hòa bác ái như lời
thánh Phao-lô: “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: Vui
lên anh em! Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hòa rộng rãi, Chúa đã gần
đến” (Pl 4,4-5), mỗi người chúng ta cũng cần chia sẻ niềm vui Giáng Sinh
bằng các món quà vật chất cho những trẻ em mồ côi, người nghèo khổ không nhà, các
bệnh nhân bị ung bướu, các người khiếm thị, các cụ già neo đơn… đang ở gần ngay
bên chúng ta. Hãy thắp lên ánh sáng tin yêu cho những ai đang gặp cảnh đau khổ,
gia đình ly tán bất hạnh… để giúp họ có được niềm vui của Chúa trong mùa Giáng
Sinh sắp đến.
5. LỜI CẦU:
Lạy Chúa
GiÊ-su. Khi xưa Mẹ Ma-ri-a đã sống bác ái,
trong tinh thần xin vâng và phục vụ. Qua lời thưa “Xin Vâng” với sứ thần, Mẹ
đã mở cửa lòng đón nhận Ngôi Lời Nhập Thể. Sau đó, Mẹ đã đem Chúa đến
thăm gia đình Gia-ca-ri-a và chia sẻ niềm vui ơn cứu độ cho gia đình này.
Xin Chúa giúp chúng con chuẩn bị
tâm hồn xứng đáng đón Chúa đến với mỗi người chúng con trong Đêm Giáng
Sinh sắp đến. Xin cũng giúp chúng con chu toàn sứ mạng làm chứng cho
Chúa bằng việc chiếu ánh sáng tin yêu, qua thái độ quảng đại chia sẻ tinh
thần vật chất và khiêm nhường phục vụ tha nhân. Nhờ đó, người đời sẽ
nhận biết tôn thờ yêu mến Chúa, và cùng được hưởng niềm vui ơn cứu độ với
chúng con.
X) HIỆP
CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH-HHTM