Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng

Lm. Jos Cao Phương Kỷ
Mục Lục

Chương I: Linh Mục Đắc Lộ, vị sáng lập chữ quốc ngữ và xây dựng Thiên Chúa Giáo tại Việt Nam

Chương II: Phương Pháp Suy Luận Đông Tây

Chương III: Nhân Tính

Chương IV: Cứu Độ

Chương V: Tình Ái

Chương VI: Quan Niệm Về Một Nguyên Lý Siêu Việt

Chương VII: Niềm Tin Vào Một Ngôi Vị Thiên Chúa, Thượng Đế, Ông Trời

Chú thích và sách tham khảo

CÙNG MỘT TÁC GIẢ

Tủ Sách Đàm Đạo Tôn Giáo

Tủ Sách Đàm Đạo Tôn Giáo
Chương VII: Niềm Tin Vào Một Ngôi Vị Thiên Chúa, Thượng Đế, Ông Trời

Về tín ngưỡng vào một Ngôi Vị Chúa Tể Càn khôn, cần nghiên cứu riêng để nhận định vấn đề cho rõ ràng. Trong chương sáu, ta đã đề cập đến Ý Thức Siêu Việt về một Nguyên Lý làm nền tảng cho sự hiện hữu của vũ trụ. Đấy là ý niệm siêu hình của các nhà Đạo học, Phật học, các triết gia như Chu Hi, Vương Dương Minh, và các nhà thần bí (mystics) chiêm niệm theo đường lối phủ định (via negativa).

    Sau đây, ta sẽ bàn về niềm Tin theo đường lối khẳng định (via positiva) trong Thiên Chúa Giáo, trong thời kỳ đầu của học thuyết Khổng giáo như Tứ thư, Ngũ kinh, và trong Ca dao, tục ngữ của Việt Nam. Truyền thống cố hữu, phổ quát này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay. Đặc điểm của tín ngưỡng này là lòng Tin vào Một Đấng Tiêng Liêng, một “Đấng Tạo Hóa” toàn năng tạo thành vũ trụ và muôn loài muôn vật. “Đấng đó” có một “Bản Vị” hay "Ngôi Vị", tương tự như loài người chúng ta, mỗi cá nhân có một “nhân vị” (person, personality) riêng biệt. Vả lại, ta có thể cầu khẩn, cúng bái, và “Ngài” đáp ứng, nhận lời nguyện xin. Trong Chương hai, “Phương Pháp Suy Luận Đông Tây”, đã trình bày về Ý Niệm Bản Vị như:”Hiện Hữu Như Một Nhân Vị”. Ở đây, sẽ quảng diễn và áp dụng quan niệm đó để tìm hiểu Thiên Chúa Ngôi Vị (Personal God).

    Riêng đối với Thiên Chúa Giáo, cũng xin lưu ý, sẽ không diễn giảng hết các đề mục, tín điều như trong sách Thần học Giáo lý, chẳng hạn: Mầu nhiệm Một Đức Chúa Trời Ba Ngôi, các Phẩm Tính của Thiên Chúa, hoặc năm đường lối chứng minh có Thiên Chúa theo Thánh Tôma, v.v. Nhưng trong Chương Bảy này, chỉ xin trình bày, hạn định vào một số đề tài để có thể so sánh, và đối thoại với các tôn giáo khác. Do đó, sẽ gồm những đoạn sau:

Đoạn I. Thiên Chúa là Ngôi Vị

Đoạn II.    Thiên Chúa Siêu Việt và Nội Tại

Đoạn  III.  Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, Chủ Tể vũ trụ càn khôn

Đoạn IV.    Trình bày ý niệm Ngôi Vị, Bản Vị của Thượng Đế trong Khổng Giáo Nguyên Thủy

Đoạn V.     Tìm hiểu về “Ông Trời” trong văn chương bình dân, và văn chương bác học Việt Nam

ĐOẠN I.   THIÊN CHÚA NGÔI VỊ (PERSONAL GOD)

    Quan niệm Thiên Chúa Ngôi Vị là một đặc thù của Thiên Chúa Giáo bắt nguồn từ Do thái giáo. Có thể nói ý niệm Ngôi Vị không xa lạ đối với tín ngưỡng dân gian của Trung Hoa và Việt Nam. Nhưng, những môn phái triết học chủ trương: Vạn vật nhất thể, Thiên-Nhân hợp nhất, Tam Tài (Thiên-Địa-Nhân) theo khuynh hướng Nhất Nguyên luận..., vì thiên về lý luận trừu tượng siêu hình, hoặc vì cho rằng ý niệm về “Ngôi Vị” hạn chế tính chất siêu việt của Nguyên Lý Tuyệt Đối...  Bởi vậy, để giúp các tôn giáo Đông-Tây thông cảm và xích lại gần nhau hơn, nên cần diễn giải thêm những đề tài sau đây:

1. Kinh nghiệm về Ngôi Vị trong đời sống

2. Định nghĩa danh từ và ý niệm về Ngôi Vị

3. Thần học hay đường lối Phủ Định (Theologia negativa) và Diễn tả Ngôi Vị bằng phương pháp Tương Tự (Analogy)

4. Ý niệm Ngôi Vị bắt nguồn từ Thánh Kinh Cựu Ứớc

    1.  Kinh Nghiệm về Ngôi Vị Trong Đời Sống

    Một trong những kinh nghiệm cao quí mà cũng là một huyền nhiệm là câu hỏi: Con Người là gì? Ta là ai? Cái gì khiến ta chịu trách nhiệm về đời ta? Cái gì làm ta “KHÁC” kẻ “KHÁC”?

    “Mình với Ta, dẫu Hai mà Một

    Ta với Mình, dẫu Một mà Hai” (Tản Đà)

    Đi từ kinh nghiệm về huyền nhiệm của bản thân ta “Khác” với bản thân “Kẻ Khác”, con người siêu thoát vươn lên bình diện vô biên siêu việt để nhận biết “Đấng Tối Cao” là Một Vị Siêu đẳng “KHÁC” với mọi sự mọi loài. Dĩ nhiên, Đấng Tối Cao phải vượt trên mọi cá nhân thường, vì “Ngài” là Đấng Tuyệt Đối, còn mỗi người, mỗi vật chỉ là loài thụ tạo, tương đối. Khi dùng kinh nghiệm bản thân để vượt lên cõi siêu nhiên, theo cách suy luận “Tương Tự” (Analogy), không có nghĩa là ta hạ giá Đấng Tối Cao xuống hạng phàm tục, ngang hàng với vạn sự vạn vật.

    Trên bình diện kinh nghiệm Thần bí (mystical), Đông cũng như Tây, Phật giáo cũng như Thiên Chúa giáo đều linh cảm sự hiện hữu của Một Đấng Vô Hình, làm Nguyên Lý Siêu Việt, là Nguyên Thủy qui tụ và phát sinh muôn vật muôn loài trong vũ trụ. Vì trí khôn nhân loại có giới hạn, nên cách thức phát biểu và diễn tả Nguyên Lý Tối Thượng đó luôn luôn là bất tương xứng, bất tương đồng. Làm sao ta có thể dùng những hình ảnh, những danh xưng thuộc thế giới tương đối, hữu hạn để biểu lộ những bí nhiệm của Thực Tại Siêu Việt được? Do đó, các nhà thần bí, các đạo sĩ Đông phương ưa thích dùng kiểu nói có vẻ “tiêu cực”, gọi là Phương thức Phủ định (via negativa) để mô tả Nguyên Lý đó bằng những danh từ như: Vô, Vô Cực, Chân Như, Chân Không Diệu Hữu, v.v., cốt ý bảo toàn tính chất siêu việt, vượt không gian thời gian của Nguyên Lý Tối Thượng đó. Các nhà thần học trong Do thái giáo, Thiên Chúa giáo, tuy cũng dùng Phương thức Phủ định, gọi là 'Thần học Phủ định” (Negative Theology), nhưng thường chuộng cách diễn tả tích cực hơn, gọi là “Thần học Khẳng định” (Positive Theology) dựa theo phương pháp “Tương Tự”, chẳng hạn như kinh nghiệm về “nhân vị” (person) của loài người, được vượt lên bình diện siêu nhiên để gán cho Thiên Chúa là Một “Ngôi Vị Tuyệt Đối”, trên hết mọi nhân vị. Bởi vậy, có thể nói, sự khác biệt về cách giải thích và diễn tả giữa Đông và Tây, phát sinh từ những quan niệm về văn hóa, và vũ trụ quan khác nhau: Đông Phương chú trọng tinh thần cộng đồng, óc tổng hợp, còn Tây Phương đề cao cá nhân, nhân vị và óc phân loại.

    2.  Quan Niệm Về Nhân Vị, Ngôi Vị, Bản Vị

    Sau đây, sẽ bàn về: danh từ và ý niệm về Nhân vị, hay Ngôi vị; tương quan giữa “Hiện Hữu” và “Ngôi Vị”.  Ý niệm này có phân chia, hạn chế và hạ giá Nguyên Lý Tuyệt Đối không?

    a.  Ý Nghĩa của danh từ Nhân vị hay Ngôi vị

    Nguyên tự Latinh “Persona” (Person, Personality, Personal) dịch ra Việt ngữ là “Nhân Vị” hay Ngôi Vị. Chữ “Nhân Vị”, xét về nghĩa đen, có thể gây ngộ nhận khi dùng danh xưng đó áp dụng vào Thiên Chúa. (Theo cách chiết tự trong chữ Nho: Nhân (   )=người, Vị (    ) gồm có chữ nhân (   ) và chữ Lập (   ), nghĩa là vị thế, địa vị, “chỗ đứng” của con người trong vũ trụ. Vì Thiên Chúa không phải là người, nên không thể xếp loại cùng ngang hàng với loài người được. Thiên Chúa là Đấng Siêu Việt, nên phải có “chỗ đứng” biệt lập, “KHÁC” và trên hết vạn sự vạn vật, dầu luôn luôn vẫn bao trùm mọi vật mọi loài. Vậy để tránh ngộ nhận và để bảo vệ tính chất siêu việt của Thiên Chúa, thiết tưởng nên dùng danh từ “Nhân Vị” cho loài người, còn danh xưng “Ngôi Vị” dành riêng cho Thực Tại Tuyệt Đối, cho Thiên Chúa, danh từ “Bản Vị” đôi khi dùng chung cho cả hai. Nên nhớ rằng: việc dùng tất cả những ý niệm, những danh từ của loài người, của thế giới tương đối, hữu hạn này để ám chỉ Nguyên Lý Tuyệt Đối, đều là “bất đắc dĩ”, vì bất tương xứng. Do đó, nếu ta gột rửa được tính cách thần-nhân-đồng-hình (anthropomorphism) bao nhiêu thì tốt bấy nhiêu.

    b.  Ý Niệm về Nhân Vị, Ngôi Vị

    Các triết gia Tây phương định nghĩa Nhân Vị, Ngôi Vị (Persona, Person) là: một bản thể cá biệt thuộc loại có trí khôn” (naturae rationalis individua substantia (Boethius)). Loài có trí khôn nghĩa là biết đau khổ, biết hạnh phước và nhất là biết tuân giữ các lề luật (Locke và Kant). Nhân vị là một cá nhân biết suy tư và biết truyền đạt tư tưởng bằng lời nói. Nhân vị là một cá nhân chịu trách nhiệm đối với các hành vi luân lý, tham gia chính trị, cải cách xã hội và là “anh hùng tạo thời thế”. Bởi vậy, ý tưởng “Nhân Vị”, “Ngôi Vị” thường đi đôi với quan niệm về LỊCH SỬ và về Ý CHÍ TỰ DO.

    c.  Tồn Hữu và Nhân Vị

    Theo triết lý, quan niệm về Tồn-Hữu-học (ontology), về Tồn-Hữu (Being), trong căn bản phải đi đôi với ý niệm Nhân vị, Ngôi vị, Bản vị (Personal). Bởi vì “có” thì phải có “cái gì” hoặc “cái gì” “có”, không thể “có” vu vơ, trống không, trống rỗng được! Do đó, Tồn-Hữu phải là Ngôi Vị, và nền tảng sâu xa của Tồn-Hữu chính là Ngôi Vị. Theo ý nghĩa này, chỉ có loài người mới thực sự có “Nhân vị” hoàn hảo, vì có "Hữu-Thể" đầy đủ, nghĩa là có ý chí, tự do, còn các loài khác như động vật, thực vật... chỉ được tham dự vào sự Tồn-Hữu ở các cấp bậc kém hơn. Vì thế mới có câu: “Nhân linh ư vạn vật”, con người cao trọng hơn các loài cầm thú, cỏ cây, sông núi... vì có trí khôn. Còn loài động vật cao hơn loài thực vật, vì được “tham dự” vào sự Tồn Hữu ở một cấp bậc cao hơn, nghĩa là có xúc giác, biết đau đớn... Dầu chiếm được một địa vị cao quí trong vũ trụ, con người vẫn cảm thấy mình là hữu hạn, nhỏ bé đối với trời đất bao la. Do đó, từ cảm nghiệm Bản Thân, tâm trí con người đã vươn lên cõi Siêu Nhiên, đến Một Ngôi Vị Tuyệt Đối, cũng là Tồn-Hữu Tuyệt Đối, làm nguồn gốc cho hết mọi Tồn-Hữu trong vũ trụ càn khôn, kể cả loài người. Tuy là một Nhân vị hữu hạn, tương đối, thuộc loài thụ sinh, nhưng con người luôn cảm tạ Đấng Tối Cao đã ban cho hồng ân, vinh dự được tham gia vào sự Tôn-Hữu Tuyệt Đối, nghĩa là có lý trí và ý chí tự do. (188)

    Tuy cũng là một “ngôi vị”, nhưng “Ngôi Vị” của Thiên Chúa hoàn toàn “KHÁC” với nhân vị của loài người. Thần Học Thiên Chúa Giáo vừa chủ trương Thiên Chúa là Đấng Siêu Việt trên hết mọi sự mọi loài, vừa “ngự trị”, hiện hữu nơi con người và vạn vật, nhưng “PHÂN BIỆT” (distinction), và nhấn mạnh sự “KHÁC BIỆT” giữa Thiên Chúa Siêu Việt và loài thụ sinh. Tuy Thiên Chúa hiện hữu, tồn tại nơi nhân loại, vạn vật, tuy Siêu Việt và Nội Tại luôn đi liền với nhau, nhưng Ngài vẫn là Ngôi Vị “KHÁC” tất cả các ngôi vị khác.

    d.  Ý Niệm Nhân Vị, Ngôi Vị có Hạn Chế hay Phân Ly NGUYÊN LÝ TUYỆT ĐỐI không?

    Theo các thần học gia hay triết gia Thiên Chúa Giáo, ý niệm về Nhân vị, Ngôi vị không phân ly, hạn chế Tồn Hữu (Being) của Thiên Chúa, khác hẳn với thuyết Nhị Nguyên (dualism), phân chia ra hai khởi nguyên căn bản đối lập nhau: một bên là Thiện, bên kia là Ác.

     Tín Lý quan trọng nhất và cũng là Mầu Nhiệm cao siêu nhất trong Thiên Chúa giáo, tín điều “Một Thiên Chúa Ba Ngôi” (Trinity, Tam Vị Nhất Thể Thiên Chúa) đã khẳng định rõ ràng về Bản Thể Duy Nhất bất-khả-phân-ly của Hữu Thể Tuyệt Đối, tức Một Thiên Chúa, đồng thời vẫn giữ được sự toàn vẹn của Ba Ngôi Vị: Thiên Chúa Ngôi Cha, Thiên Chúa Ngôi Con, Thiên Chúa Ngôi Thánh Thần. Do đó, đại mầu nhiệm này phi bác tất cả mọi hình thức nhị nguyên được gán cho Thiên Chúa.

    3.  Phương Thức Phủ Định và Phương Thức Tương Tự

    Các nhà thần học và triết học đã dùng hai phương thức suy luận cốt ý để bảo toàn tính cách Siêu Việt Tuyệt Đối của Thiên Chúa: Phương thức Phủ Định và Phương thức Tương Tự. Ở đây chỉ xin tóm lược hai phương thức này đã được giải thích sâu rộng trong Chương Hai: Phương Pháp Suy Luận Đông-Tây.

    a.  Phương Thức Phủ Định

    Thiên Chúa là Đấng Tuyệt Đối, Siêu Việt, khác hẳn loài thụ tạo, tương đối thì làm sao ta có thể dùng những sự vật, hình ảnh, danh từ thuộc kinh nghiệm trong thế giới tương đối hữu hình để miêu tả “Đấng Tiêng Liêng,Vô Hình Dung”, một cách tương xứng được? Do đó, để bảo vệ tính cách siêu việt tuyệt đối của Thiên Chúa, các nhà thần học, triết học, thần bí trong Thiên Chúa giáo đã dùng một đường lối “Phủ Định” (via negativa), không phải muốn chối bỏ chính Thực Tại Tuyệt Đối, nhưng chỉ có ý biểu lộ sự bất tương xứng của những danh từ, danh hiệu rút ra từ thế giới tương đối để phác họa những phẩm tính siêu đẳng của Thiên Chúa. Thánh Tôma, nhà thần học trứ danh, cũng cho rằng trí khôn nhân loại không thể nào hiểu biết được bản thể của Thiên Chúa Tuyệt Đối là gì cả. Chúng ta không thể biết được Thiên Chúa là gì, có gì một cách khẳng định, tích cực, nhưng ta có thể nói được Thiên Chúa “không phải là”, “không phải thế”, một cách phủ định, tiêu cực (via negativa), tức là Thần học phủ định (Theologia negativa). Ví dụ: Thiên Chúa là Bất-khả-ngôn (ineffability of God). (189)

    b.  Phương Thức Tương Tự

    Tuy biết là bất-tương-xứng, nhưng các thần học gia, triết gia, thi sĩ, văn sĩ và dân chúng bình dân ưa thích dùng phương thức khẳng định, tích cực (via positiva) để biểu lộ sự cao cả vô biên của Đấng Tối Cao bằng những cách thế, ngôn ngữ của loài thụ sinh. Thánh Tôma và các nhà thần học gọi cách diễn tả này là “Phương Pháp Tương Tự” (analogia entis). Theo cách thức này, ta có thể dùng kinh nghiệm của nhân loại “nói” về Thiên Chúa, nhưng chỉ được hiểu là một cách “tương tự”mà thôi, chứ không phải hoàn toàn “giống y như vậy”. Bởi vì Thiên Chúa, Đấng Siêu Việt Tuyệt Đối, “KHÁC” với hết mọi loài thụ tạo thuộc thế giới tương đối này, nên tất cả các ý tưởng, hình ảnh, ngôn ngữ.... dùng để mô tả vạn sự vạn vật thì không thể xứng hợp để bàn luận về Đấng Siêu Việt Tuyệt Đối được! Dầu nhìn nhận là bất xứng và thiếu sót, nhưng các nhà thần học, triết học vẫn cho phương pháp Tương Tự là chính đáng vì hợp với trình độ kiến thức của trí khôn loài người và giúp ta hiểu biết một phần nào (một cách bất toàn) về Bản Tính Siêu Việt của Thiên Chúa. Khi dùng phương pháp Tương Tự để bàn luận về Thiên Chúa, Thánh Tôma khuyên ta luôn thêm vào thành ngư : “et magis”, nghĩa là: “còn hơn thế nữa”. Chẳng hạn, nói rằng: “Đức Chúa Trời là Đấng phép tắc vô cùng” thì chưa đủ mà phải hiểu thêm là “et magis”, “còn hơn thế nữa”, vì lời phát biểu này chẳng qua là cách thức trí khôn hạn hẹp của nhân loại suy luận về Một Đấng Siêu Việt, và ta không còn cách thức nào, danh từ nào khác để diễn tả sự quyền phép cao siêu vô biên là như thế nào. Kỳ thực, Bản Tính Siêu Việt đó vượt trên mọi sự hiểu biết, diễn tả của nhân loại.

    4.  Nguồn Gốc Quan Niệm Ngôi Vị trong Kinh Thánh

    Kinh Thánh, nhất là Cựu Ước đã mượn những danh từ thuộc loại thần-nhân-đồng-hình (anthropomorphism) nghĩa là dùng những ý nghĩ, tình cảm, hành vi của loài người để ám chỉ theo nghĩa “tương tự” những hoạt động của Thiên Chúa, chẳng hạn như: Thiên Chúa nổi giận và trừng phạt, Ngài tha thứ và ân thưởng, Ngài là Cha, là Vua, là Mục tử... Thiên Chúa cũng mặc khải “Tên” Ngài ra tự xưng là “YaHWeH”, “Ta là Đấng Tự Hữu”. Các vị Thánh ký đã mượn những hình ảnh thuộc nhân loại để diễn tả những phẩm tính của Thiên Chúa để chứng tỏ Ngài không phải là Nguyên Lý trừu tượng, vô tri vô giác của các triết gia suy luận ra, nhưng Ngài là Thiên Chúa Ngôi Vị đã phán bảo cùng Tổ phụ Abraham, Giacob, Maisen,... và các tiên tri (prophet). Đọc Kinh Thánh Cựu Ước, qua dòng lịch sử của dân tộc Do thái, ta nhận thấy “bàn tay” (theo nghĩa ám tỉ) nhân hậu của Thiên Chúa đã an bài và dẫn dắt dân Chúa đến một mục đích là chuẩn bị cho Đấng Thiên Sai (Messiah) Đấng Cứu Thế sẽ hoàn thành ơn Cứu Độ trong thời Tân Ước.

    Trong Kinh Thánh Tân Ước, danh từ hy lạp “Theos” dùng để chỉ Thiên Chúa. Chính danh từ đó đã được các triết gia Hy lạp Plato và Aristotle thanh lọc khỏi nội dung đa thần để trở thành một ý niệm siêu hình, trừu tượng về một Nguyên Lý Tối Thượng của vũ trụ. Khi dùng danh xưng này, Kinh Thánh đã thay vào một nội dung mới để chỉ Một Thiên Chúa Ngôi Vị, Đấng Sáng tạo vũ trụ, Chúa của thời gian, và của lịch sử. Ngài đặt ra luật pháp và luôn luôn giao tiếp, đối thoại với nhân loại qua những lời cầu kinh. Tột điểm của việc mặc khải Thiên Chúa Ngôi Vị chính là việc Thiên Chúa giáng trần, đầu thai nhập thể nơi “Con Người Đấng Cứu Thế “ như lịch sử ghi chép. Sự kiện Nhập Thể giáng thế này chính là để biểu lộ Tình-Yêu-Thương-Vô-Cùng của Một Thiên Chúa Ngôi Vị Siêu Việt (I Jn 4:16).

    Thiên Chúa giáo là một tôn giáo độc thần, chỉ tôn thờ Một Vị Thiên Chúa. Bất cứ loài thụ sinh nào, kể cả các bậc thần thánh, mà ta đặt ngang hàng với Ngài, đều coi là thờ ngẫu tượng (idolatry). Tính chất độc thần độc tôn dành riêng cho Thiên Chúa Ngôi Vị được qui định rõ rệt trong việc phụng vụ, tế tự. Do đó, danh xưng “thờ phượng” (adoration,worship) chỉ dành riêng cho Thiên Chúa mà thôi. Còn các chư Thánh khác, kể cả Đức Bà Maria, thì  dùng chữ “tôn kính” (veneration), vì các ngài là loài thụ tạo, tự mình không có quyền năng ban ơn giáng phúc, nhưng các ngài có nhiều công nghiệp và sống đẹp lòng Chúa, nên có thể bầu cử một cách thần thế, đắc lực cho ta. (190)

    Nói tóm lại, tuy cũng trong một ý niệm Ngôi Vị, nhân vị, nhưng Ngội Vị Thiên Chúa hoàn toàn “KHÁC” các nhân vị của loài người. Thiên Chúa Giáo nhấn mạnh đến tính cách Siêu Việt (Transcendence) của Thiên Chúa hơn là tính chất Nội Tại (Immanence) của Ngài hiện hữu nơi vạn sự vạn vật, như sẽ bàn luận ở đoạn sau, tuy rằng Siêu Việt và Nội Tại luôn luôn đi liền nhau.

ĐOẠN II.   THIÊN CHÚA SIÊU VIỆT VÀ NỘI TẠI

    Như trên đã trình bày về những hiểu lầm giữa Tam giáo và Thiên Chúa Giáo khi Đông phương và Tây phương gặp gỡ nhau. Vì thiếu nghiên cứu cẩn thận, thoạt tiên phía Tây phương đã vội phê phán Tam giáo là theo  “Nội-Tại đa thần” (pantheistic immanentism), nghĩa là thờ quá nhiều thần phát xuất từ thiên nhiên như cỏ cây, cầm thú và con người, v.v., thiếu ý thức về một Thực Tại Siêu Việt, thiếu niềm tin vào một Vị Chủ Tể càn khôn. Có khi còn bình phẩm là theo thuyết “bất khả tri” (agnosticism), nghĩa là không thể biết chắc được những gì là siêu nhiên, nhưng chỉ có thể biết thực sự những hiện tượng vật chất. Ngược lại, các đạo gia, khi mới tiếp xúc với Thiên Chúa giáo, phê bình Đấng Tạo Hóa trong Kinh Thánh thiếu tính cách siêu việt, vì hành động, tâm tình như một con người biết giận hờn, thịnh nộ, ghen ghét, v.v., theo thuyết “thần-nhân-đồng-hình” (anthropomorphism). Cho đến ngày nay, một số các học giả vẫn “ngại” chấp nhận việc gán cho Thực-Tại Siêu-Việt bất cứ một danh xưng nào như Thượng Đế, Thiên Chúa, v.v., vì sợ làm hạ giá "Nguyên Lý Tuyệt Đối" xuống hạng phàm tục.

    Đó là những hiểu lầm của cả hai bên cần phải đánh tan. Kỳ thực, cả hai đều hướng thượng, đều cố gắng vươn lên cõi Siêu Việt, cùng nhìn nhận một Thực-Tại Tuyệt-Đối (Tran-scendent), đồng thời Nguyên-Lý Siêu-Việt đó cũng “ngự trị”, tồn hữu “Nội Tại” (Immanent) nơi vạn sự vạn vật. Sau đây ta sễ tìm hiểu quan niệm thần học của Thiên Chúa Giáo, đặc biệt theo Thánh Tôma, về “Thiên Chúa Siêu Việt” trên hết mọi loài, mọi vật, đồng thời Ngài cũng hiện hữu “Nội Tại” trong mọi vật mọi loài.

A.   THIÊN CHÚA SIÊU VIỆT (TRANSCENDENT)

    Trước khi bàn luận về đề tài này, cần phân trần cho rõ ràng để tránh ngộ nhận. Trong các sách Giáo lý phổ thông để giảng dạy quần chúng, các tác giả thường dùng ngôn ngữ bình dân, kiểu nói thông thường, mà các nhà thần học như Thánh Tôma... gọi là Phương pháp Khẳng định (via positiva) và Tương Tự (analogia). Kiểu nói này chính đáng, vì ta có thể dùng lý trí tự nhiên để minh chứng Thiên Chúa tồn hữu, hiện hữu và tìm hiểu các phẩm tính của Thiên Chúa như trong sách Giáo lý dạy: “Hỏi: Đức Chúa Trời là Đấng nào? – Thưa: Đức Chúa Trời là Đấng dựng nên trời đất, phép tắc vô cùng, thông minh vô cùng, trọn tốt trọn lành, ở khắp mọi nơi...” Đây là ngôn ngữ của loài người, trên bình diện tự nhiên, hữu hạn, tương đối. Nhưng khi đề cập đến chính “Yếu Tính Tự Tại” (Essence in Itself), Bản Thể Siêu Tuyệt (Supra-Substan-tiality), hoặc Thần Tính Trác Tuyệt (Eminence of the Deity), trên cấp bậc siêu nhiên, siêu phàm thì ta khó có thể diễn tả một cách tích cực, khẳng định được, nghĩa là ta không thể biết thật sự “Bản Tính” Thiên Chúa “LÀ” gì, nhưng tốt hơn dùng phương pháp phủ định (via negativa) để nói Chúa “KHÔNG LÀ”. Sau đây, sẽ trình bày cách diễn tả theo đường lối phủ định của Thánh Tôma, của Dionysius the Areopagite, và các nhà thần bí (mystics), cốt để bảo vệ tính cách Siêu Việt Tuyệt đối của Thiên Chúa. Do đó, cần phải tìm hiểu ý nghĩa thực sự của những thành ngữ có vẻ nghịch lý, “nghịch nhĩ” như: Thiên Chúa Bất-Khả-Ngôn, Bất-Khả-Tri, Bất-Khả-Đạo, Vô-Hữu, Vô-Danh, Ẩn-Tính...

    Thiên Chúa Bất-Khả-Ngôn

    Kinh Thánh Cựu Ước xưng tụng Chúa là Vô hình, Bất khả đạo (unknown) và Ẩn tàng. Yahweh phán với Mai Sen: Nhà ngươi không thể thấy Nhan Ta được: vì đừng thấy Ta thì mới sống (Sách Xuất hành 33:20), vì Thiên Chúa là Tuyệt đối thánh thiện vô cùng, còn nhân loại là thuộc thế giới tương đối tội lỗi hèn hạ vô cùng, thì làm sao con người sống nổi khi nhìn thấy Nhan Thánh Chúa mà không chết! Tiên tri Iasia nói: Quả thật Chúa là Thần ẩn danh ẩn tính (a hidden God), Thiên Chúa của Israel, Đấng Cứu Độ (Is 45:15). Trong Tân Ước, Thánh Gioan viết: Thiên Chúa, không ai thấy bao giờ (Gioan 1:18). Thánh Phao lô viết: “Như đã viết: Những điều mắt chẳng hề thấy, tai không hề nghe, và đã không hề nhập tâm nơi một người phàm, những điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai yêu mến Chúa” (1 Cor 2:9).

    Theo Thánh Tôma, trí khôn nhân loại không biết Chúa là làm sao, lại cũng không thể biết Chúa được. Chúa là Bất-Khả-Đạo. Ngài viết: “Vậy, vì ta không thể biết Chúa là gì, nhưng chỉ biết Chúa “Không phải” là, bởi đó, ta không có cách nào suy luận xem Chúa như thế nào, nhưng ít ra biết được Chúa “không phải” như vậy” (coi Summa Theologica I, q.3, prologus, I,q,a.7,ad. 1). Tại sao Thánh Tôma lại chủ trương như trên? Ngài phân biệt có hai trình độ về tri thức của con người. Trên cấp bậc tự nhiên, ta có thể dùng trí khôn, lý trí để nhận biết “Có” Đức Chúa Trời và các phẩm tính của Chúa. Nhưng trên cấp bậc siêu nhiên, trí khôn của loài thụ tạo không thể hiểu biết được “Yếu Tính Tự Tại” ở nơi Chúa được. Dầu ta được nâng lên bậc siêu nhiên nhờ Ân Sủng Chúa ban, thì Chúa vẫn là “Bất-Khả-Tri” (unknown), vẫn là Ẩn náu. Vì ta không thể hiểu biết được Bản Tính Siêu Việt của Chúa là gì, không biết xếp Chúa vào “loại” (genus) nào, “hạng” (category) nào, nên không thể định nghĩa Chúa là làm sao. Muốn định nghĩa bất cứ một sự vật gì, ta phải biết xếp loại vật đó và các đặc điểm riêng, ví dụ: thế nào là một mẫu sư (sư tử cái)? Mẫu sư thuộc loại “mèo”, rất dũng mạnh, là động vật bộ nhũ (có vú), không có tóc râu rậm rạp như sư tử (đực), một mình săn mồi làm thịt nuôi sư tử con (sư tử đực không nuôi con)... Do đó, việc định nghĩa Thiên Chúa là điều không thể làm được, vì Chúa không thuộc bất cứ loại nào trong trời đất, trong vũ trụ này, lại không có danh từ, danh xưng nào dùng để đặt tên cho các loài tương đối lại có thể biểu lộ một cách tương xứng với Yếu Tính Siêu Việt của Thiên Chúa. Vì thế, Thánh Tôma và Dionysius mới gọi Chúa là “Bất-Khả-Ngôn”, “Vô Danh” (unnominable). Thánh Tôma cũng giải thích thêm: con người có trí khôn suy nghĩ đi từ thiên nhiên, tạo vật để nhận biết Chúa nhờ phương pháp tích cực, khẳng định gọi là “Phương pháp trác việt” (way of eminence), nghĩa là lấy những cái hiện hữu, những danh từ thông dụng để thăng cao, lý tưởng hóa vươn lên cõi siêu việt vô biên để gán cho Thiên Chúa, chẳng hạn, người ta có thể đặt tên “Chúa” là Chúa, là Thiên Chúa, Thượng Đế, Ông Trời, v.v. Nhưng nên nhớ rằng những tên đó không diễn tả được “Yếu Tính Thần Linh” của Thiên Chúa.

    Đại Công Đồng Latêranô phán quyết: “Chúng ta tin vững vàng và tuyên xưng không do dự rằng: chỉ có một Đức Chúa Trời chân thật, vĩnh cửu, vô biên, toàn năng, bất-biến, bất-khả-tri và bất-khả-ngôn” (ineffabilis, coi Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, 1994, số 202, 206).

    Thiên Chúa là Siêu-Thực Thể

    Khi suy luận về Thực Thể, Bản Thể, về Hữu Thể Siêu Việt của Thiên Chúa vượt trên hết mọi loài thụ tạo, tương đối, Dionysius gọi Chúa là “vô-hữu” (non-existent). Và Thánh Tôma cũng chấp nhận kiểu nói đó. Dĩ nhiên, từ ngữ dùng theo kiểu phủ định “vô-hữu”, hay “vô danh”, không có nghĩa là  không có gì hết, hoàn toàn hư vô trống rỗng, nhưng chỉ có ý thăng hóa tính cách siêu việt vô hạn của ChúaToàn Năng mà “KHÔNG” một sự vật nào trong vũ trụ tương đối này có thể diễn tả hay so sánh được Xét về yếu tính của sự tồn hữu, hữu thể (esse, being), thì Hữu Thể của Thiên Chúa phải vượt trên hết mọi tồn hữu khác, vì Bản Thể (substance) của Thiên Chúa vượt trên hết mọi bản thể khác. Thiên Chúa là Đấng “Tự-Hữu, Tự-Hữu Tồn Tại, Tự-Lập Tồn Hữu” (subsistent being, suum esse) còn vạn sự vạn vật đều nhờ Chúa mà “có”, đều bởi Chúa mà ra. Sự tồn hữu của loài tương đối thì biến đổi, nay còn mai mất. Con người có giấy khai sinh, khai tử, lúc trẻ lúc già... Còn Thiên Chúa là Siêu-Tồn Hữu (Superesse), vì “Chúa hằng có từ trước vô cùng và bây giờ và hằng có và đời đời chẳng cùng. Amen.” (Kinh Sáng Danh), nghĩa là Tồn-Hữu của Chúa “đơn thường” (simple), “đơn thuần” (pur), bất biến, vô thủy vô chung, trọn tốt trọn lành vô cùng.

    Nói tóm lại, nếu Thánh Tôma gọi Chúa là “Vô-Hữu”, thì không phải là  không “Có” Chúa, nhưng cốt ý bày tỏ tính cách siêu việt tuyệt đối của Chúa trên mọi “cái có” của vạn sự vạn vật. Thánh Tôma đã khéo lý luận đi từ phương pháp phủ định (via negativa) chuyển sang phương thức trác việt (via eminentiae) để minh chứng vạn sự vạn vật đều nhờ Chúa mà “có”, nhưng chính Chúa lại “không có” giống như mọi loài, mà là “CÓ” một cách tuyệt hảo.

    Các triết gia và các thần học gia như Thánh Tôma đã dùng lý trí, lý luận, đặc biệt đi từ Phương pháp suy luận Phủ định để tiến lên Phương pháp Trác việt, để khẳng định sự HỮU tuyệt vời của Chúa. Khi suy luận để tìm Chân Lý, trí khôn nhân loại cần phải phân biệt, phân tích các sự kiện, các lý lẽ và dùng các kỹ thuật, phương pháp, để thí nghiệm, nghiên cứu. Nhưng kỳ thực, theo nhà thần học Dionysius, sự Trác Việt của Thiên Chúa vượt trên hết mọi phân loại, mọi thứ hạng (categories). Bản Thể đơn thuần của Thần Tính Thiên Chúa “CÓ TRƯỚC” (prior) mọi sự hiện hữu, (being), mọi loài, mọi vật, mọi phân chia ra một/ra nhiều, mọi phân biệt phủ định/khẳng định, mọi hữu hạn/vô hạn, mọi hữu định/vô định. Nói cho cùng lý, Thần Tính Thiên Chúa phải “Có Trước” cả con số “MỘT”, vì đã có một thì phải có hai, đã có hai thì có ba, và như thế thành ra đa tạp. Do đó, Thiên Chúa là Siêu-Duy-Nhất (Super-Unity). Tại sao nhà thần bí Dionysius lại chủ trương như vậy? Tới đây ta mới lĩnh hội được ý nghĩa sâu xa của suy luận này, vì nó giúp ta nhìn nhận “CÓ” một trật tự siêu nhiên về các Chân Lý Siêu Nhiên mà trí khôn nhân loại không thể suy luận khám phá ra được. Bởi vậy, cần phải chính Thiên Chúa “Mặc Khải” (Revelation) những Chân Lý Siêu Nhiên đó cho loài người.

     Sự ĐỒNG NHẤT Tuyệt đối nơi Thần Tính Trác Việt của Thiên Chúa

    Thánh Tôma coi mọi hình thức của Nhị-Nguyên (duality), nghĩa là phân chia ra chủ-thể (subject) và đối-tượng hay khách-thể (object) là khuyết điểm, bất hoàn toàn, là thuộc tiềm năng (potentiality). Tại sao vậy? Vì trí khôn nhân loại hạn hẹp không thể tức khắc thấu triệt một vấn đề được, nên cần phân biệt chủ thể là người suy tư với các quan niệm, ý kiến, và đối tượng là những sự vật để nghiên cứu, chẳng hạn các nhà bác học quan sát, phân loại các sự vật trong thiên nhiên, đặt ra các giả thiết, rồi thí nghiệm sửa đổi nhiều lần thành các định lý khoa học. Khi muốn tự kiểm thảo, tự vấn lương tâm hay tự xét mình, con người như tự tách biệt nội tâm của ta ra: một bên ta là “chủ thể” chủ nhiệm, và như đẩy xa ra bên kia đời sống của ta để có thể nhìn rõ các tư tưởng, lời nói, hành vi cử chỉ về dĩ vãng, hiện tại và các dự phóng về tương lai, xét về nhiều phương diện khác nhau như học hỏi, hành nghề, tài chánh, v.v. Ta cần xem xét về nhiều khía cạnh như vậy, may ra mới có thể thấu triệt vấn đề.

    Thiên Chúa là Động-Lực Thuần-Nhiên (Actus Purus, Pure Act), nghĩa là vô cùng hoàn hảo, vĩnh cửu, tuyệt đối, là loại trừ tiềm-lực chưa được hiển hiện ra, không cần phát triển thêm gì nữa. Đó là định nghĩa của Thánh Tôma về Bản Tính Thiên Chúa. Trái lại, các tồn hữu khác như nhân loại, cầm thú, cỏ cây chỉ là Tiềm-Năng (potentiality, potentia), nghĩa là bất toàn, mới có tiềm lực mà thôi nên cần phát triển các tài năng thêm lên mãi, thay đổi từ trạng thái này sang tình huống khác.

    Theo quan điểm của các thần học gia theo học thuyết Thánh Tôma, thì có hai ý kiến về Bản Tính Thiên Chúa: Chúa là Tồn-Hữu Tự-Lập (self-subsistent being, Ipsum esse subsistens), nghĩa là Chúa tự mình mà có, vì Chúa là nguyên nhân của mọi sự hiện hữu, và mọi sự tồn tại trong Chúa. Chúa là Trí-Lực Tự-Lập (self-subsistent Intellection, Ipsum intelligere subsistens), nghĩa là Chúa tự hiểu biết chính mình, vì nơi Chúa không phân chia chủ thể và đối tượng, không có gì là tiềm năng, nhưng là Động-Lực Thuần Nhiên, nên Trí-Lực của Chúa và đối tượng cũng là một. Chúa hiểu biết Mình qua chính Mình. Chúa biết Mình qua Bản-Tính (essence) Mình, và Bản-Tính Chúa là Tồn-Hữu (existence) Chúa. Do đó, Trí-Lực (intellect) Chúa là Động-Lực Thuần-Tuý (pur Act) về hiểu biết, nghĩa là Chúa hiểu biết chính Mình một cách minh nhiên, vì mọi sự “hiển hiện” rõ ràng lập tức, vượt không gian thời gian, không phân biệt dĩ vãng, hiện tại, tương lai. Trong Chúa không có gì là phức tạp, nhưng Đơn-Thuần, vì trong Chúa, không có phân biệt: Trí-Lực Chúa, sự hiểu biết và muôn loài có thể hiểu biết được, vì hết thảy những điều đó chẳng qua là chính Bản-Tính Chúa (His essence) mà thôi. Bởi vậy, theo Thánh Tôma, Bản-Tính-đối tượng và Trí-Lực-chủ thể hoàn toàn đồng-nhất làm một ở nơi Chúa. Nơi Chúa Ý Chí hay Ý Muốn (will), và Tình Thương (Love) của Chúa cũng là Thượng Trí, Khôn Ngoan của Chúa và cũng là Bản Tính của Chúa: tất cả đều tuyệt đối đồng nhất, không phân biệt Ý Chí tách khỏi Trí-Lực và Bản-Tính. Do đó, sự Khôn-Ngoan (tức Trí-Lực) của Chúa, đồng thời cũng là Bác-Ái (Ý Chí) của Chúa.

    Thánh Gioan, người môn đệ Chúa yêu, đã được gục đầu bên Trái Tim Chúa và cũng là nhà thần bí đã cảm nghiệm được mầu nhiệm của Tình Yêu, nên đã viết: “Thiên Chúa là Tình Thương” (I Gioan 4:8). Tại sao vậy? Việt nam có câu “vô tri bất mộ” (không biết thì không mến). Nơi tâm lý con người, chỉ khi nào ta biết được giá trị, và sự tốt đẹp của một vật, chẳng hạn, một bông hoa, thì mới phát sinh lòng yêu thích muốn hái lấy để thưởng thức. Nơi bản tính nhân loại có sự phân biệt bông hoa (khách thể) và người ngắm hoa (chủ thể). Nhưng nơi Bản Thể Tuyệt Hảo Đơn Thuần của Thiên Chúa thì khác. Nơi Chúa không phân chia chủ thể/đối tượng. Nơi Chúa, Ý Muốn không phân biệt với Thượng Trí, không khác với Bản Tính. Sự Khôn Ngoan Thượng Trí vô hạn của Chúa Hiểu Biết chính Bản Tính vô cùng hoàn hảo của chính Mình, thì đồng thời cũng phát sinh Tình Bác Ái vô biên. Do đó, Chúa không thể không Yêu Mến được, vì Bản Tính Chúa là Yêu Thương, là Thiện Hảo vô cùng! Tương tự như chén nước đầy tràn, sự Thiện Hảo tự nó lan tràn ra chung quanh (Bonum sui diffusivum), nghĩa là vì Chúa Yêu Mến vô cùng, nên Tình Bác Ái đó tràn lan xuống cho nhân loại và vạn sự vạn vật trong vũ trụ này để mọi tạo vật được hưởng nhờ vào sự Thiện Hảo của Chúa.(191)

B.   THIÊN CHÚA NỘI TẠI (IMMANENT)

    Thần học Công Giáo chủ trương Thiên Chúa vừa Siêu-Việt vừa Nội Tại, vì Nội Tại của Chúa là hậu quả đi liền với Siêu-Việt của Chúa. Tại sao? Bởi vì, nếu Chúa không hiện diện nơi vạn sự vạn vật (Nội Tại), thì sự Siêu-Việt của Chúa bị hạn chế và hậu quả là Chúa không còn là quyền năng Tuyệt-Đối nữa mà chỉ là tương đối. Chúa là Siêu-Việt, nên hậu quả là Chúa bất-khả-tri, và bất-khả-ngôn, nhưng đồng thời Chúa cũng hiện hữu thâm sâu “Nội Tại” trong mọi loài thụ tạo, đặc biệt trong các Linh-Hồn. Do đó, có thể gặp được Chúa trong nơi thâm cung của Linh Hồn.

    Theo Thánh Tôma, ta sẽ bàn luận về Thiên Chúa Nội Tại, vì hai lý do:

1. Thiên Chúa Toàn Tại, hay Chúa ở khắp mọi nơi

2. Cách thế đặc biệt Chúa hiện hữu nơi tạo vật có trí khôn

    1.  Thiên Chúa Toàn Tại, Ở Khắp Mọi Nơi

    Thánh Kinh gọi Chúa là “Đấng Ẩn Náu” (Hidden God), nên các Thánh Giáo Phụ như Thánh Âucơtinh, Grêgôriô, Hilariô,... chủ trương rằng: công cuộc “khám phá” đi tìm gặp Chúa là trở về với nội tâm của từng người. Thánh Tôma cũng viết: “Chúa ở trong vạn sự vạn vật và ở nơi sâu thẳm của mỗi loài”. Tại sao? Vì vạn vật được tham dự vào Bản Thể của Chúa, và sự vật nào tham gia càng nhiều vào Bản Thể Chúa thì Chúa ngự trị càng mật thiết hơn.

    Thánh Bônaventura, Thầy dạy của Thánh Tôma, đưa ra hai lý do để biện minh tại sao Chúa hiện diện nơi vạn vật: “một phần, vì Chúa Hoàn Hảo vô cùng, phần khác, vì vạn sự vạn vật nghèo nàn. Chúa bao la bát ngát vô biên, quyền thế vô cùng, và trên hết vì lý do: Chúa Đơn Thuần vô cùng, không bị giới hạn, hạn chế: vì mênh mông bát ngát, nên gặp thấy nơi mọi sự mọi loài. Vì Đơn Thuần tuyệt đối nên cũng quyền năng vô hạn và Chúa có quyền năng trên muôn loài: và quyền năng Chúa và bản thể Chúa cũng là một: do đó, Chúa phải ngự trị nơi vạn sự vạn vật”.

     Thiên Chúa phải hiện diện nơi loài thụ tạo, vì chúng không phải là “động lực thuần nhiên”, nhưng là “ngẫu nhiên” (contingent), lúc có lúc không, nên cần Chúa nâng đỡ, phù trì luôn thì mới tồn tại được. Do đó, Chúa hiện diện nơi vạn vật như là nguyên nhân chủ động (efficient cause) của vạn vật.

    Thánh Bonaventura dùng hình ảnh "quả cầu tròn" để cắt nghĩa ý nghĩa Chúa “Toàn Tại” vì Chúa Đơn Thuần vô cùng: “Vì Chúa Đơn Thuần và rộng lớn vô cùng, nên cái toàn thể ở trong mọi sự và cái toàn thể ở ngoài mọi sự, và vì thế, có thể tưởng tượng như quả cầu tròn, mà tâm điểm ở khắp nơi và chu vi thì không biết ở đâu. Vì Chúa là Động Lực hiển hiện và bất biến tuyệt đối, luôn bền vững không lay chuyển nhưng làm cho vũ trụ vận hành. Vì Chúa là hoàn hảo và bao la vô cùng, nên Chúa ở trong mọi vật mà không bị bao gồm trong đó; Chúa ở ngoài mọi vật mà không phải bị loại ra ngoài;  Chúa cao trên hơn mọi vật mà không xa vời; Chúa ở dưới mọi vật mà không phải nằm liệt. Vì Chúa là Duy Nhất Tuyệt Trác và gồm đủ mọi dạng thức, nên Chúa là mọi sự trong mọi sự: vạn vật thì đa tạp nhưng Chúa chỉ là Một: đúng vậy, vì Chúa là Duy Nhất Đơn Thuần vô cùng, là Chân Lý trong sáng vô biên, và là Thiện Hảo chân thành vô tận, nên mọi thông truyền, giao kết đều ở trong Chúa, vì lý do đó “mà vạn sự vạn vật có là “nhờ Chúa, bởi Chúa và trong Chúa” (Rom II:36).

    Thánh Tôma cũng biết biểu tượng “quả cầu tròn”, nhưng Ngài giải thích về sự Nội tại của Chúa nơi thụ tạo như sau: Chúa hiện hữu mật thiết nơi vạn sự vạn vật, không phải là thành phần của bản thể của những vật đó, hay là phụ thể, ngẫu nhiên (accident), nhưng là Vị Chủ động (agent) hiện hữu nơi vạn hữu để tác động trên chúng. Chúa Siêu Việt nhưng đồng thời cũng Nội Tại trong muôn loài vì Chúa là Nguyên Nhân ban sự hiện hữu cho chúng, vì chúng "có" là nhờ Chúa:” Chúa vượt trên mọi sự vì Bản Thể Trác Tuyệt, nhưng Chúa ngự trị trong muôn loài vì Chúa là Cội Nguồn của tồn hữu vạn vật”. Chúa ngự trị nơi các vật thụ tạo vì chúng không tự mình mà “có” được và cũng không thể tiếp tục tồn hữu nếu không có Chúa hoạt động và hỗ trợ để chúng tồn tại. Chúa luôn bao bọc che chở chúng, và vì vậy, có thể nói mọi sự mọi vật tồn hữu trong Chúa. Thánh Tôma cũng dùng biểu tượng “nét mặt và gương soi”, để sánh ví giúp ta tìm hiểu sự hiện diện của Chúa trong vạn vật: một khuôn mặt mà chiếu ra nhiều “hình “ trên những tấm gương khác nhau, nhưng cũng bởi một khuôn mặt mà thôi. Cũng vậy, người ta thì “bá nhân bá tính”, mỗi người tin một khác, nhưng đã là “người” thì ai cũng đồng ý về những nguyên lý căn bản siêu hình hay thực hành như: nhân loại có lý trí, hiểu biết, tình yêu..Đó là những “hình ảnh “ của Chân Lý Tuyệt Đối phản chiếu một cách phổ quát nơi tâm trí nhân loại. Do đó, Kinh Thánh mặc khải cho biết :con người toàn vẹn gồm xác và hồn là “hình ảnh của Thiên Chúa” (Sáng Thế. 1:26..), vì Chúa cho con người cộng tác và cai quản vũ trụ: “Nhân linh ư vạn vật”. Thánh Tôma giải nghĩa thêm: Hình ảnh chỉ là sự bắt chước một vật nào đó, bản chất của hình ảnh không ngang hàng với chính con người, hay vật đó. Bởi vậy, con người chỉ là hình ảnh, là “tương tự” (similitudo, likeness)bất toàn về sự hoàn hảo vô cùng của Chúa. Con người không phải là Chúa, không ngang hàng bằng Chúa, nhưng chỉ là”hình ảnh Chúa”mà thôi! Cũng có thể dùng một kiểu sánh ví khác, giúp ta hiểu về mối tương quan giữa Chúa và nhân loại, ví dụ: trăng sáng chiếu xuống trăm nghìn mặt nước như biển, sông, hồ...tạo thành muôn nghìn hình “mặt trăng “ giống nhau, nhưng cũng chỉ có một trăng rầm mà thôi!

    2/ Mọi loài Thụ Tạo Tham Dự vào Bản Thể Thiên Chúa bằng nhiều cách thức khác nhau.

    Việc Chúa hiện diện nơi vạn sự vạn vật, hay mọi loài thụ tạo “tham dự” (participation) vào Bản Thể Chúa, theo Thánh Tôma, thì có nhiều cách thức khác nhau, trên bình diện tự nhiên. Thực ra, chỉ có loài có trí khôn, mới đáng được gọi là "hình ảnh" của Chúa; nhưng loài không có trí khôn, cũng có thể là "hình ảnh" của Chúa, vì chúng cũng "tham dự" vào sự "giống" Chúa, một phần nào, tùy theo cấp bậc của chúng.  Xét về lý do tồn hữu (sub ratione entis), thì Chúa là Tồn Hữu Tuyệt Đối, Hoàn Hảo, còn sự tồn hữu của mọi loài thụ tạo chỉ là bất toàn, nhưng chúng cũng có một mối “tương tự” với Chúa, nghĩa là Chúa "CÓ", và vạn vật cũng "có", nên hết thảy đều được tham gia một phần nào, với một cấp độ nào, vào hình ảnh của Chúa. Xét về lý do sự sống (sub ratione vitae), tất cả các sinh vật đều được tham dự vào sự “tương tự”, là hình ảnh Chúa, vì chúng cũng có sự sống. Xét về lý do sự khôn ngoan (sub ratione sapientiae),  loài có trí khôn đều được tham gia vào sự tương tự với Chúa, vì chúng có lý trí. Thực ra, chỉ có loài người có trí khôn mới đáng gọi là “hình ảnh của Chúa”.

    3/ Loài có Trí Khôn Tham Dự vào Bản Thể Thiên Chúa bằng những cách thức nào?

    Theo Thánh Tôma, loài người có trí khôn được tham dự vào sự tương tự với Chúa, là hình ảnh Chúa bằng ba cách thế: một là, theo khuynh hướng tự nhiên, con người có thể hiểu biết và yêu mến Chúa được, đó là yếu tính của lý trí con người: đã là người thì ai cũng có khả năng ấy; hai là, dầu một cách bất toàn, con người hiện tại, thường vẫn hiểu biết và yêu mến Chúa; do đó, con người là hình ảnh Chúa vì con người cố gắng thuận theo Ân Sủng Chúa ban; ba là, con người biết và yêu mến Chúa một cách hoàn hảo: đó là con người được tham dự vào hình ảnh vinh quang của Chúa

    Ta nên chú ý đến quan niệm thần học của Thánh Tôma về sự Cứu Độ, đã ảnh hưởng đến các giáo thuyết hiện đại về “tự do tôn giáo và giá trị của các tôn giáo ngoài-Thiên Chúa Giáo. Đó là “Học Thuyết Thánh Tôma về Siêu Việt” (Transcendental Thomism). Theo học thuyết này, Chúa hành động trong vũ trụ này qua các “đệ nhị nguyên nhân” (secondary causes), tức là các loài thụ tạo. Chúa là Đệ Nhất Nguyên Nhân (First Cause, Prima Causa), là Đệ Nhất Tác Nhân (First Agent, Primum Agens), nhưng Chúa không trực tiếp”can thiệp” vào thế giới này, theo nghĩa Chúa làm ngưng trệ hay sửa đổi sự vận chuyển, vận hành bình thường của các biến cố trong vũ trụ. Là “Nguyên -Động-Lực, Chúa “can dự” vào loài thụ tạo, theo nghĩa Chúa “hiện diện” ngay từ lúc khởi thủy nơi vũ trụ, và vũ trụ luôn qui hướng về Chúa rồi. Do đó, mọi hành động của con người được hoàn toàn tự do, nhưng đồng thời tự căn bản chúng đã bắt nguồn nơi Ân Sủng, hay sự hiện diện của Chúa. Theo học thuyết này, trên bình diện tự nhiên, (không có Ân Sủng siêu nhiên mà Chúa tự ý ban), con người “đã có " khả năng để nhận biết và yêu mến Chúa rồi, vì đấy là khuynh hướng tự nhiên,nơi bản tính con người. Thánh Tôma gọi khả năng đó là “Tiềm Năng Phục Tùng” (potentia obedientialis, obediential potency), nghĩa là từ trong căn bản, con người cởi mở, hướng về và có thể tiếp nhận Ân Sủng siêu nhiên. Tại sao gọi là “phục tùng” vâng lời ? Vì con người không có quyền khiếu nại, đòi buộc Chúa, nhưng phải tùng phục tùy Chúa ban thì mới tiếp nhận được. Cái “tiềm năng căn bản” đó, nhà thần học nổi tiếng thế kỷ 20, Karl Rahner (1904-1984) đặt tên là”tồn tại siêu việt” (supernatural existential), nghĩa là sự biến đổi thường xuyên nơi đời sống con người (existential) nơi thâm tâm con người, nhờ đó, con người được cải hóa từ nội tâm để qui hướng về Thiên Chúa (supernatural). Đây không phải là chính Ân Sủng, nhưng mới chỉ là “lời mời”để cung cấp Ân Sủng mà thôi, vì con người có thể tự do tiếp nhận hay từ chối Ân Sủng. Danh từ Ân Sủng (gratia, grace) các nhà thần học dùng để chỉ Thiên Chúa”Tự-Thông -Truyền chính Mình” (Self-Communication), như một Ân Huệ để nhân loại được nên thánh thiện, công chính, và được hạnh phúc trường sinh bất diệt. Ân Sủng hay sự Tự-Thông-Truyền này là một hành vi tuyệt đối tự do của Chúa ban cho loài thụ tạo hữu hạn, vì Chúa là Tình Yêu Thương vô biên (1 Gioan 4:8) tràn ra. Tự “bản tính tự nhiên” (nature), con người không có quyền đòi hỏi Ân Sủng siêu nhiên đó

    Nói tóm lại, các thần học gia theo Học thuyết Thánh Tôma về Siêu Việt muốn nhấn mạnh về hai điểm: một là, Ân Sủng là một Hồng Ân Chúa hoàn toàn tự ý ban cho, vì Tình Yêu vô biên và vì Đấng Cứu Thế, Con Thiên Chúa giáng thế làm Người, tự bản tính tự nhiên, nhân loại không có quyền đòi hỏi; hai là, Thiên Chúa cũng tạo dựng bản tính con người, tự trong căn tính đã có sẵn tiềm năng hướng về sự hiểu biết và yêu mến Chúa. Do đó, mỗi người đều có “tiềm năng căn bản “ đó, và rất nhiều người, có thể hầu hết đã “hiện thực” (actualized) tiềm năng ấy, bằng cách tiếp nhận Ân Sủng. Cũng vì lý do đó, có ý kiến cho rằng: mọi người, dầu ở ngoài Đạo Mặc Khải (Thiên Chúa Giáo), cũng có thể nhận biết và yêu mến Chúa vì “Chúa đã hiện hữu trong tâm trí họ rồi” (graced nature)

    4/ Thiên Chúa Hiện Diện cách Đặc Biệt nơi Loài có Trí Khôn

    Như trên đã trình bày quan niệm thần học của Học thuyết Thánh Tôma về Siêu việt, thành ngữ “Tồn tại Siêu việt (supernatural existential) cũng có nghĩa là Thiên Chúa vừa Siêu Việt trên vạn vật, đồng thời Tồn Hữu nơi mọi loài

    Theo Thánh Tôma, có ba cách thức Chúa kết hiệp(mode of union): một là, trên bình diện tự nhiên, đối với hết mọi loài, Chúa ở trong chúng bằng bản tính tự nhiên(nature), nghĩa là bằng uy quyền, hiện hữu và yếu tính; hai là, đối với các vị thánh nhân, Chúa kết hiệp bằng Ân Điển; ba là, Chúa kết hiệp nơi Chúa Cứu Thế bằng cách thế độc nhất, các thần học gia đặt tên là “Nhiệm-Hiệp” (hypostatic union)

     Xét theo phương diện “tương tự” (secundum similitudi-nem), vì Chúa là Thiện Hảo vô cùng, bởi vậy, hễ vật nào là tốt lành, thiện hảo, thì “giống như “ được chung phần vào sự Thiện Hảo của Chúa: Chúa ở trong những vật ấy bằng yếu tính, hiện hữu và uy quyền. Đây là cách thế chung cho mọi loài, trên bình diện tự nhiên. Chúa hiện diện nơi vạn vật bằng yếu tính(essence), vì uy quyền của Chúa đồng nhất với Yếu Tính của Chúa; Chúa hiện diện nơi vạn vật bằng hiện hữu (presence), vì Chúa đang hoạt động nơi vạn vật như Tác nhân, và bằng một cách nào đó, tác nhân phải hiện diện nơi công trình của họ; Chúa hiện diện nơi vạn vật bằng uy quyền(po wer), vì  uy quyền Chúa bảo toàn cho muôn loài tiếp tục hoạt động.

     Xét về phương diện Thực Thể  (secundum substantiam), đây mới là cách thế đặc biệt Chúa hiện hữu nơi linh hồn các thánh nhân bằng Ân Sủng, trên bình diện siêu nhiên (supernatural order). Đối với linh hồn các thánh nhân, Chúa hiện diện, chẳng những vì “tương tự” mà thôi, nghĩa là bằng tác động; nhưng bằng đức tin và bác ái nữa. 

     Xét về phương diện Tồn Hữu (secundum esse, being). Không những Chúa chỉ tác động, nhưng kết hiệp bằng “Tồn Hữu”. Trong cách thức này, Chúa ở trong Chúa Cứu Thế, gọi là “Nhiệm Hiệp” (hypostatic union). Đây cũng là cách thế chung cục về sự hiện diện của Chúa

    Nhà thần học Cajetan (1469-1534) đã viết một sách chú giải về bộ Summa Theologica của Thánh Tôma, cũng chủ trương: Chúa hiện diện nơi mọi tạo vật một cách tổng quát, vì Chúa là nguyên nhân chủ động, thành sự, hữu hiệu (effective) trên mọi loài mọi vật; còn nơi các thánh nhân thì Chúa là đối tượng (objective) của sự nhận biết và yêu mến, nhờ Ân Sủng Chúa ban cho. Do đó, lý do chính của cách thức đặc biệt Chúa ngự trị trong linh hồn các thánh nhân là nhờ Ân Sủng Thánh Hóa (Sanctifying Grace), các ngài đã chiếm hữu, hưởng thụ, và cảm nghiệm được Chúa.Trong cách thế đặc biệt này, linh hồn như chứng nghiệm (experimental) thấy Chúa là đối tượng đáng hiểu biết, đáng hưởng thụ (ut objectum experimentaliter cognoscibile et fruibile) .Bởi vậy, Chúa hiện diện một cách chân thực trong linh hồn người công chính, tuy sự cảm nghiệm này có thật, như thể linh hồn được "chạm" tới Chúa( quodam experimentali tactu) nhưng cảm nghiệm này vẫn còn tối mờ,  chẳng khác nào như khi ta biết được có linh hồn, nhưng chưa nhìn thấy linh hồn.

    Sự nhận thức do chứng nghiệm được Chúa ngự trong linh hồn là sự nhận thức bởi đức Tin , nhưng cũng bởi ân huệ khôn ngoan Chúa ban, như là một thứ “vị giác”, (tasting) , và là cảm nghiệm thấy Chúa trong nội tâm; sự khôn ngoan này phát xuất từ sự kết hiệp và sự đồng-bản-tính (connaturality) với Chúa( ex quadam intima experientia divinorum). Đây là cảm nghiệm về chính Chúa, và linh hồn được kết hợp với Chúa, nhờ sự đồng-bản- tính nào đó(a certain connaturarity) với Chúa là nguyên lý ban sinh lực cho đời sống, bây giờ và từ trước, vẫn là sự sống của sự sống chúng ta, linh hồn của linh hồn chúng ta (tamquam vivificante nos, sicut si esset vita vitae nostrae et anima animae nostrae). Chính cách thức đặc biệt Chúa ngự trị trong linh hồn người công chính, gọi là “Đền Thờ” Chúa Thánh Thần (indwelling of the Holy Spirit).(192)

ĐOẠN III.   THIÊN CHÚA TẠO HÓA

    Gọi là Thiên Chúa Giáo, vì Đạo này tin vào một Vị Chúa Tể tạo dựng vũ trụ càn khôn, và cũng xác nhận: vũ trụ này có một khởi thủy và một cứu cánh

Giáo thuyết sáng tạo được diễn tả trong Kinh Thánh Cựu Ước, bộ Ngũ Kinh (pentateuque) gồm năm quyển; quyển đầu là Sách Sáng Thế (Genesis). Ở đây, không chủ ý chú giải Sách Sáng Thế theo phương pháp khoa học Kinh Thánh, hay theo thuyết biến hóa (evolutionism), nhưng chỉ đứng về phương diện triết học, thần học, rút ra những nguyên lý làm nền tảng cho niềm Tin vào một Đấng Tạo Thành vũ trụ càn khôn. Ta sẽ lần lượt trình bày: 1/ Sáng tạo từ Hư vô, Sáng tạo bằng “Lời”' 2/ Thuyết Sáng tạo đặt căn bản trên quan niệm Bản vị, nhân vị, 3/ Cứu cánh của vũ trụ được tạo dựng là qui hướng về Chúa Cứu Thế

    1/ Thiên Chúa Sáng Tạo từ Hư Vô, Sáng Tạo bằng “Lời”

    Tính chất thiêng liêng siêu việt của công cuộc tạo thành được biểu lộ trong quan niệm “Sáng Tạo từ Hư Vô” (creatio ex nihilo). Thành ngữ này xuất hiện trong Kinh Thánh Cựu Ước, sách II. Macabê, 7:28 :" Hỡi con, mẹ xin con hãy ngước nhìn trời đất mà xem tất cả mọi sự vật trong đó, và hãy biết rằng Thiên Chúa đã làm ra chúng, không phải do vật gì đã có trước và về loài người thì cũng như thế”. Quan niệm “Tạo dựng từ Hư Vô” biểu lộ uy quyền tuyệt đối, siêu việt của “Lời” Thiên Chúa

    Theo Kinh Thánh và chú giải của thần học thì việc tạo dựng vũ trụ do “LỜI” (Verbum, Logos, Word) uy quyền vô biên của Đấng Tạo Hóa: “ Thiên Chúa Phán một Lời: “ Hãy có ánh sáng, và ánh sáng có... (Sáng thế ký, Genesis: 1:3..). Dĩ nhiên, “Lời” của Chúa chỉ quyền năng, sức mạnh vô biên của Đấng Tạo Hóa, khác với lời nói của nhân loại. Lời của Chúa phát ra bởi một Ngôi Vị Siêu Việt, khác với lời nói của người phàm. Hơn nữa, quan niệm sáng tạo vũ trụ bằng Lời biểu thị sự linh thiêng cao cả của Thiên Chúa, nghĩa là Ngài không cần phải"nhúng tay vào bùn đất” để nhào nặn nên những hình thù của loài thụ tạo. Sức mạnh và uy quyền của “Lời” khiến muôn vật tồn hữu, hiện hữu mà Ngài vẫn là Chúa Siêu Việt trên hết mọi loài. Không có “LỜI” thì không có vạn sự vạn vật( coi: Gioan, 1:3)

     Mặt khác, quan niệm về “Lời” Thiên Chúa dẫn đến ý niệm Thiên Chúa là Ngôi Vị, vì bản thể của Lời là một Ngôi Vị. Dĩ nhiên, Lời của Chúa có quyền năng vô cùng, nên “khi Chúa phán một Lời thì liền có trời đất”, nghĩa là lúc đó vạn sự vạn vật phát xuất bởi “Lời”, và đều qui hướng về Nguyên Thủy là Thiên Chúa Ngôi Vị. Do đó, Ngôi Vị Thiên Chúa được phản ánh trên tất cả các loài thụ tạo. Vì lý thuyết về sáng tạo đặt căn bản trên quan niệm ngôi vị, nên Sáng tạo và Ngôi vị đi liền nhau cũng như tồn hữu đi đôi với ngôi vị. Cũng như đồ vật “có” là bởi có “ai” đó” làm ra, nó không thể “tự nhiên”, bỗng nhiên mà “có” được. Đi từ vật nhỏ mọn, tầm thường trước mắt, rồi suy rộng ra vũ trụ càn khôn thì cũng “tương tự” như vậy. Bởi vậy, vũ trụ này “có” là do bởi một Ngôi Vị Tuyệt Đối đã tạo thành nên nó.

    Dĩ nhiên, Thiên Chúa là bất-khả-ngôn, vì Ngài là Thực Tại Tuyệt Đối, ta không thể hiểu, không tài nào diễn tả được Bản Tính của Chúa. Ta cũng không thể hiểu được công việc sáng tạo vũ trụ của Ngài nữa! Vũ trụ này vẫn là một huyền bí, không thể thấu triệt được. Do đó, khi đọc Kinh Thánh, ta thấy Thiên Chúa được sánh ví như “ông thợ gốm”, như “bác thợ mộc”..., thì phải hiểu một cách “tương tự” với những hành động của nhân loại. Thật sự, sự tồn hữu và hành động của Đấng Tạo Hóa là độc nhất vô nhị, khác với sự tồn hữu và hành động của loài người. Tất cả những lý luận triết học, thần học, những ý tưởng, hình ảnh hay ngôn từ để diễn tả về Thiên Chúa đều phải hiểu một cách tương tự mà thôi! Nếu nói Thiên Chúa là Nguyên Thủy, là Nguyên Do đệ nhất (prima causa) của vũ trụ càn khôn, thì cũng phải hiểu theo nghĩa tương tự.

    Theo quan điểm triết lý của nhà sinh-vật -học Pierre Teilhard de Chardin (1881-1955), vì vũ trụ là phản ánh của một Ngôi Vị Siêu Việt, nên vũ trụ cũng mặc lấy ít nhiều nét ngôi vị của Ngôi Vị Tuyệt Đối ấy. Tính chất ngôi vị thấm nhuần vào trong tạo vật do Đấng Tạo Hóa tác thành. Tuy cũng là tạo vật, nhưng chỉ nhân loại mới có tính chất nhân vị đầy đủ hơn các loài thụ tạo khác:”Nhân linh ư vạn vật”. Trong hai cuốn sách “Le Phenomène humain” (1938-40) và Le Milieu divin (1957), Teilhard de Chardin đã có thể dung hòa hai quan niệm về tâm linh: một la, quan niệm Đạo lý Đông Phương chủ trương “Vạn vật đồng nhất”, nghĩa là cái “tôi” đã mất để đồng nhất với vũ trụ thành một thực thể vô-bản-vị (impersonal); hai là, quan điểm Ngôi Vị Tây Phương, đặc biệt của Thiên Chúa Giáo nhấn mạnh: vũ trụ vạn vật phải qui hướng về Thiên Chúa, về Chúa Cứu Thế (Christocentrism) là Ngôi Vị Thiên Chúa và là Tâm Điểm, Tột Điểm của đời sống.

    Đối với Teilhard de Chardin, vũ trụ này là một vũ trụ có “bản vị” và là vũ trụ đang trở thành bản vị (a personal Universe and a personalizing Universe). Bởi lẽ “vũ trụ rất mênh mông bát ngát, chúng ta sẽ bị lạc mất nếu vũ trụ không qui tụ về một Bản Vị, Ngôi Vị”. Tất cả vũ trụ này đồng qui về một mối, nhưng cái mối đồng nhất đó không phải là “bến bờ vô hạn”, không phải là mông lung mờ mịt, nhưng mối đó là một Ngôi Vị Tuyệt Đỉnh. “Thiên Chúa đã tự mặc khải ở mọi nơi như là “cảnh vực bao la bát ngát” chỉ vì Chúa là “Cực Điểm” (Ultimate Point) mà mọi tạo vật phải qui tụ về”. Cảnh vực thần linh (le Milieu divin) bao la bát ngát tới đâu, thật sự, vẫn cần phải có một Tâm Điểm. Và theo Teilhard de Chardin, Tâm Điểm của vũ trụ chính là Chúa Cứu Thế, “Ngôi Lời của Thiên Chúa (Verbum Dei) (193).

    2/ Vũ Trụ Đồng Qui về một mối là Chúa Cứu Thế

    Đối với Teilhard de Chardin, quan niệm “vạn vật đồng nhất”của Đông Phương và quan niệm “vũ trụ bản vị, ngôi vị” không mâu thuẫn nhau. Tính chất bản vị của vũ trụ đặt nền tảng nơi Đấng Tạo Hóa, là Ngôi Vị Tuyệt Đối. Chính Thực Thể Tuyệt Đối đó đã ban cho mỗi loài được có một bản vị, còn Thiên Chúa là Một Siêu-Đẳng-Ngôi-Vị. Qua tác phẩm của nhà cổ-sinh-vật-học (paleontologist) đã thực hiện những công trình khảo cổ tại Trung Hoa, ta nhận thấy tư tưởng này: Vũ trụ đang biến hóa theo chiều hướng bản-vị-hóa. Nhân loại và vũ trụ được bản-vị- hóa đang đồng qui về “một mối đồng nhất” là Ngôi Vị Tối Cao, chính là Chúa Cứu Thế.

    Tại sao sự sáng tạo nên vũ trụ lại liên quan mật thiết, nội tại với Chúa Cứu Thế, và với sự Cứu Độ?

    Theo cách suy luận thần học của nhà thần học Karl Rahner và Karl Barth thì Cựu Ước tức là Giao ước ký kết giữa Thiên Chúa và dân Chúa tuyển chọn (dân Dothái) đã được thực hiện thi hành ở Tân Ước nơi chính Con Người của Đấng Cứu Thế, vì là “LỜI” của Thiên Chúa. Thánh Gioan đã diễn tả chân lý đó trong Phúc Âm theo Thánh Gioan, đoạn I, câu 1-3, 14: Sau đây là bản dịch ra cổ văn Trung Hoa do học giả nổi tiếng thời cận đại là Ngô Kinh Hùng thực hiện, trong đó ông dùng nhiều thành ngữ, danh từ, điển tích cổ văn để “chuyên chở” một nội dung mới của Thiên Chúa Giáo, chẳng hạn chữ “ĐẠO”. Danh từ này bao hàm nhiều ý nghĩa: “đạo” là đường, “đạo” là bổn phận tùy theo địa vị, cấp bậc như: đạo vợ chồng, đạo làm con..’ “đạo” là lời nói, như đàm đạo. “Đạo”là nguyên lý siêu việt trong triết lý như “Đạo” (Đạo Đức Kinh) của Lão Giáo...Khi dịch đoạn sách Phúc Âm của Thánh Gioan, Ngô Kinh Hùng đã dùng chữ “ĐẠO” (Logos, Verbum, Word of God), để ám chỉ Đấng Cứu Thế là “LỜI” của Thiên Chúa phán ra, vì chính Ngài cũng là Thiên Chúa giáng trần để mặc khải, biểu lộ những mầu nhiệm cao siêu cho nhân loại’ cũng có thể hiểu chữ “ĐẠO” theo ý nghĩa siêu hình, vì Chúa Cứu Thế là Nguyên Lý Tuyệt Đối, là Nguyên Thủy và là Cứu cánh (Alpha and Omega) của vũ trụ và nhờ Ngài mà vũ trụ được tạo thành:

     “Thái sơ hữu ĐẠO, dữ Thiên Chủ giai, ĐẠO tức Thiên Chủ, tự thủy dữ giai. Vi ĐẠO vô vật, vật nhân ĐẠO sinh, thiên địa vạn hữu tư ĐẠO dĩ thành. Tư ĐẠO chi nội, uẩn hữu Sinh Mệnh, Sinh Mệnh tức Quang, sinh linh sở bẩm. Quang chiếu minh minh, minh minh bất lĩnh...Duy Bỉ Chân Quang, phổ chiếu sinh linh, phàm sinh ư thế, tư chi dĩ minh... ĐẠO thành nhân thân, cư ngã sài trung, ngô sài thân đổ, khổng đức chi dung, duy nhất Thánh Tử, vô thượng Quang Vinh, diệu sủng chân đế, sung dật quyết cung.”. (Gioan,I:1-5,9,14) Bản dịch Việt ngữ:” Lúc khởi nguyên đã có (NGÔI)LỜI, và (NGÔI) LỜI ở nơi Thiên Chúa, và NGÔI LỜI là Thiên Chúa, Ngài đã ở cùng Thiên Chúa từ nguyên thủy. Không có NGÔI LỜI thì không có vạn vật, vạn vật nhờ NGÔI LỜI mà sinh ra, trời đất muôn loài tồn hữu nhờ NGÔI LỜI mà thành sự. Trong NGÔI LỜI có tiềm tàng SỰ SỐNG, SỰ SỐNG là SỰ SÁNG cho nhân loại. Sự Sáng chiếu trong u tối, mà u tối không thấu triệt được để lãnh nhận sự Sáng...Chỉ có Ngài là sự Sáng đích thật, chiếu cho mọi người, sinh nơi trần thế, nhờ vậy mà được sáng.... Và NGÔI LỜI thành xác người phàm, cư ngụ ở giữa chúng ta, chúng ta đươc thấy Vinh Quang cao cả của Ngài, Vinh quang mà Chúa Cha ban cho Thánh Tử duy nhất, tự nơi mình tràn đầy Ân Điển và Chân Lý”(194) .

    Suốt dòng lịch sử của vũ trụ và của nhân loại, Thiên Chúa biểu lộ, mặc khải quyền năng qua những kỳ công mà khoa học mỗi ngày vẫn khám phá ra những bí mật và qua các vị “Phát ngôn” (prophet) của Chúa, thường gọi là tiên tri, ngôn sứ. Nhưng đến thời gian đã định, Thiên Chúa đã sai Thánh Tử cũng chính là Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể để mặc khải, phát biểu, phán dạy những chân lý là sự Sáng dẫn đưa nhân lọai đến sự Sống vĩnh cửu. Bởi vậy, theo ý nghĩa của đoạn Phúc Âm trên: muôn tạo vật được tạo dựng bởi Lời Thiên Chúa, và vũ trụ này được cứu độ cũng là nhờ NGÔI LỜI NHẬP THỂ. Vì lý do đó, tất cả vũ trụ đều qui hướng về Chúa Cứu Thế như Tâm điểm Tuyệt đỉnh. Hơn nữa, việc sáng tạo vũ trụ và nhân loại do Ngôi Lời mà có, cũng chính là điều kiện để Ngôi Lời có thể Nhập Thể, nghĩa là mặc lấy xác phàm để cứu độ sinh linh và vũ trụ.

    Vì lý do sâu xa và bí nhiệm nào mà Thiên Chúa đã thực hiện chương trình sáng tạo và cứu độ qua sự Nhập Thể của Ngôi Lời?

    Thưa, chính là Tình Thương vô hạn của Thiên Chúa là động lực của công trình sáng tạo và cứu độ. Bản Thể của Thiên Chúa là Tình Thương vô vị lợi (Agape) .Tình Thương vị tha, vô hạn không phải là một động lực ở ngoài Thiên Chúa, nhưng chính tự Bản Thể. Thiên Chúa hoàn toàn tự mãn, và viên mãn, chỉ vì Tình Thương vị tha vô bờ bến mà tạo dựng nên vũ trụ và nhân loại, khác biệt với Ngôi Vị Thiên Chúa. Cũng vì Tình Thương vị tha vô hạn đó mà Thiên Chúa đã sai Ngôi Lời nhập thể giáng thế để cứu độ chúng sinh. Chính Ngôi Lời Thiên Chúa đã mặc khải Tình Thương vị tha vô biên khi Nhập Thể, chịu Tử Nạn trên Thập giá, và Phục Sinh vinh hiển.

    Chỉ vì Tình Thương vị tha vô biên mà Ngôi Lời, tức Ngôi Hai Thiên Chúa đã tự hạ mình xưống, “tự-hư-vô-hóa” (kenosis, emptying of Christ) làm phận tôi tớ hèn hạ..Thư của Thánh Phaolô gửi Philiphê II:6-8, đã diễn tả quan niệm tự khiêm tự hạ, tự hư vô vì Tình Thương như sau:

“Ngôi Lời đồng bản tính với Thiên Chúa, nhưng chẳng nghĩ mình ngang hàng với Thiên Chúa. Mà hạ mình (Kenosis, Self-Emptying, Self renunciation) nhận làm hạng tôi đòi, phàm nhân. Và khi đã mặc lấy hình thể phàm nhân rồi, Ngôi Lời Thiên Chúa còn tự hạ hơn nữa, là đã vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá”.

    Nói tóm lại, chỉ vì Tình Thương vị tha vô hạn tự trong Bản Thể Thiên Chúa (Thiên Chúa = Tình Thương)mà Ngôi Lời Thiên Chúa đã tự hạ mình Nhập Thể để cứu độ nhân loại tội lỗi. Cũng chính bởi Tình Thương vị tha vô biên đó mà Thiên Chúa, qua trung gian của Ngôi Lời Nhập Thể, đã sáng tạo nên nhân loại và vũ trụ càn khôn. Do đó, quan niệm cứu độ và sáng tạo liên hệ với nhau vì đều phát xuất từ một Tình Thương vị tha vô hạn, và đều qua Trung gian của Chúa Cứu Thế là Ngôi Lời Thiên Chúa.

ĐOẠN IV.   NIỀM TIN VÀO MỘT VỊ THƯỢNG ĐẾ

     Trong chương sáu, đã đề cập đến quan niệm triết lý, siêu hình của các triết gia, các nhà Đạo Học, Phật Học về Một Nguyên Lý Tuyệt Đối trừu tượng, làm nền tảng cho sự hiện hữu của vạn sự vạn vật. Trong chương bảy và trong đoạn này, sẽ bàn luận về niềm Tin vào Một Vị Chúa Tể càn khôn, tạo thành vũ trụ càn khôn, mà theo Truyền Thống dân gian Trung Hoa gọi là THƯỢNG ĐẾ, THIÊN đã được Đức Khổng Phu Tử san định trong Tứ Thư Ngũ Kinh, và theo Truyền Thống dân gian Việt nam, đặc biệt trong Ca dao, Tục Ngữ.., mà mọi người dân Việt, bất kể thuộc tôn giáo nào, thường gọi là “ÔNG TRỜI”. Truyền Thống cố hữu này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay, mà đặc điểm là niềm Tin vào Một Đấng Toàn Năng tạo thành vũ trụ và muôn vật muôn loài.

    Theo các học giả am tường về tôn giáo và các nhà nghiên cứu về văn minh Trung Hoa như L. Wieger, L. Legge.. Trần Trọng Kim, Julia Ching.., ngay từ khi lập quốc, nghĩa là từ đời Nghiêu (2356 B.C), Thuấn (2255 B.C) vẫn có hai dòng tư tưởng giải nghĩa về nguồn gốc của vũ trụ và của con người. Tuy ai cũng đều tin vào Hóa Công như là Nguyên Nhân Đệ Nhất sinh thành ra vũ trụ càn khôn, nhưng theo niềm tin tự nhiên của đại đa số dân chúng, thì vẫn thường gán cho Cỗi Nguồn cao cả đó như “Một Đấng”, rất đáng kính, đáng sợ, đáng tôn thờ, vượt trên hết mọi loài mọi sự; đồng thời, đi song hành lại có luồng tư tưởng nghiêng về lý luận trừu tượng, siêu hình (ngày xưa gọi là”Hình-nhi-Thượng -học”), quan niệm “Đấng ấy” là một Nguyên Lý Siêu Việt. Khuynh hướng này khai triển mạnh vào thời nhà Tống, chịu ảnh hưởng của Lão giáo và Phật giáo, do các môn phái Lý Học, Đạo Học của Chu Hy và Tâm Học của Vương Dương Minh

    Tuy phân biệt hai truyền thống Trung Hoa và Việt Nam, nhưng thật sự, hai truyền thống này cũng là một, vì cùng đặt niềm Tin vào Một Vị Chủ Tể mà người ta có thể lễ bái, đối thoại, cầu khẩn để xin thi ân giáng phước. Cách thế để biểu lộ lòng tôn sùng, kính sợ "Đấng ấy" thường mượn những ngôn từ, hình ảnh theo phương pháp "loại suy" hay “tương tự”,(analo gy, giống như con người, gọi là “thần nhân đồng hình”), nhưng phải hiểu là "Đấng ấy" ở bậc cao siêu vô cùng. Chẳng hạn, "Vị Thiên" hay "Ông Trời"  có thể nghe, xem, nổi giận, thưởng phạt....Vì hai truyền thống rất gần nhau, nên những đặc tính, phẩm tính gì của Vị Thượng Đế hay Thiên trong truyền thống Trung Hoa, thì cũng đúng với niềm Tin của người Việt nam, vì các danh từ Thượng Đế hay “Ông Thiên”, "Ông Trời", vẫn thường dùng trong ngôn ngữ của dân chúng Việt nam. Vả lại, giới sĩ phu Việt Nam, suốt mấy ngàn năm, vẫn nghiền ngẫm Tứ Thư Ngũ Kinh:" Sớm nghiền kinh sử, tối bàn văn chương” (Phan-Trần), nên đã chịu ảnh hưởng rất sâu đậm của văn hóa và tư tưởng Trung Hoa

    Trong Đoạn này, ta sẽ lần lượt xem xét những điểm như: 1/ Danh xưng chỉ Đấng Tối Cao

      2/ Thượng Đế trong Tứ Thư Ngũ Kinh, trong Nho Giáo thời nguyên thủy

      3/ Nhà truyền giáo, cũng như học giả tây phương, đặc biệt Linh Mục Mateo Ricci đã phê phán thế nào về niềm tin vào Vị Thượng Đế, về danh hiệu “THIÊN” trong cuốn sách thời danh"Thiên Chủ thực nghĩa”?

    1. DANH XƯNG CHỈ ĐẤNG TỐI CAO

    Những danh xưng danh hiệu chỉ về Một Ngôi Vị Tối Cao, Một Đấng Thiêng Liêng, tuy thuộc ngôn ngữ thông thường, bất xứng, nhưng đã được siêu việt hóa về ý nghĩa và nội dung, để ám chỉ và biểu lộ một cách “tương tự”, lòng Tin tưởng sâu xa về Một Vị Chủ Tể càn khôn, tạo thành vũ trụ

    Trong Tứ Thư Ngũ Kinh do Đức Khổng Tử san định,_ Ngài chỉ tường thuật những điều đã truyền tụng từ lâu đời trong dân gian, chứ Ngài không sáng tác ra, “thuật nhi bất tác”,_ và trong các sách cổ điển dùng làm sách giáo khoa để thi tuyển học sinh ở Trung Hoa, Việt Nam, Đại Hàn, Nhật Bản, ta nhận thấy những danh xưng như: Đế, Thượng Đế, Thiên, Thiên Chủ, Hoàng Thiên, Thượng Thiên, Hoàng-Thượng Đế, Thiên-Hoàng Thượng Đế....Đặc biệt, thử tìm hiểu nguyên tự, nghĩa thường và nghĩa tôn giáo của các chữ: ĐẾ, THƯỢNG ĐẾ, THIÊN, (ÔNG TRỜI.)..

    a/ ĐẾ, THƯỢNG ĐẾ :

    Theo nguyên tự, chữ ĐẾ là hình vẽ của một người mặc áo thụng:

     (nét (  ) chỉ chữ thượng(  ) là bề trên; sau này người ta thêm hai tay hình ; và Lý Tư đổi phần dưới ra chữ thích(  ), rồi rút gọn lại thành chữ ngày nay). Chữ Đế chỉ vua, nhưng còn có ý nghĩa về tế tự vì các nét chữ giống như lần nứt trên xương, coi như lời “Sấm ký” (oracle bones)

    ĐẾ, nghĩa là vị Hoàng Đế cai trị một đế quốc. ĐẾ trước hết là Vị Thần của triều đại thời cổ, đời nhà THƯƠNG vào khoảng 1766 (BC, trước Chúa Cứu Thế), hoặc theo khoa khảo cổ mới khám phá các di tích thì vào khoảng 1300 BC. ĐẾ chính là Vị Thần của gia tộc nhà Thương theo tôn giáo thờ cúng Tổ Tiên. Vị Thần ĐẾ được thay thế bằng THIÊN khi nhà CHU lên thay quyền nhà Thương.

    b/ THIÊN

    Vào thế kỷ 1, người ta phân tích chữ THIÊN (  )làm hai phần: nét (  ) nhất=một, nét (  ) đại=lớn, ngụ ý chỉ Thiên là Một Đấng Vĩ Đại. Chữ này cũng thuộc loại “xương sấm ký” .

    Nhưng theo cách giải thích của Linh Mục WIEGER ngày nay được nhiều nhà khảo cổ công nhận, thì chữ THIÊN (  ), theo nguyên tự, nét (  ) chỉ không trung bao la và hình (  ) chỉ hình người giang hai tay, hai chân: hội ý có ý chỉ THIÊN là Một Vị Duy Nhất ở trên hết mọi người, Vị THIÊN ở trên cai quản mọi người ở dưới.

    Vị Thần THIÊN thuộc dòng họ nhà CHU (1111-249 B.C). Cũng trong đời nhà Chu, hai truyền thống Đế và Thiên phối hợp với nhau vì dân chúng nhà Thương và nhà Chu cùng chung một văn hóa và chủng tộc. Do đó, mọi người đều nhìn nhận Vị Thần Thượng Đế hay Thiên là cao trọng hơn hết mọi thần khác, kể cả các thần tổ tiên. Vị Thần tối cao đó, người ta có thể cầu khẩn, cúng bái. Thượng Đế hay Thiên là Đấng phán quyết, phân biệt điều thiện, điều ác trong đời sống luân lý. Ngài là Vị Thần tối thượng mà các tổ tiên cũng phải qui phục. Trong việc cầu nguyện hay phụng tự, có thể dùng chung danh hiệu Thượng Đế hay Thiên đều được cả vì cùng chỉ Một Vị Thần Tối Cao.

    Danh từ “Địa” (Đất) như trong danh từ kép “Thiên-Địa” (Trời-Đất), cần được giải thích như thế nào? Trong Kinh Thi và Kinh Thư, danh xưng THIÊN thường xưất hiện riêng biệt, độc lập, nhưng danh từ “Địa” (Đất) khi dùng thì lại ghép với chữ 'Thiên”. Theo các nhà khảo cổ, ngay từ thời nhà Chu (1122-255B.C), việc tế tự, cầu kinh luôn dâng lên Vị Thiên hay Thượng Đế như trong lễ nghi “Tế Thiên (Trời)”, vì Thiên là Đấng Tạo Hóa dựng nên vữ trụ, nhân loại, và các tổ tiên. Sau này, vì ảnh hưởng của môn phái triết lý Âm-Dương, nên chữ Địa (Đất ) mới thấy ghép vào danh từ Thiên, đặc biệt trong khái niệm về việc sáng tạo vũ trụ. Trong phần "Dịch Truyện" của kinh Dịch, thuyết Âm-Dương đã xâm nhập vào Khổng Học nguyên thủy. Theo thuyết Âm-Dương, quẻ “kiền” chỉ thiên hay cha, giống đực, quẻ “khôn” chỉ đất hay mẹ, giống cái. Vũ trụ này được dựng nên là do sự phối hợp của âm-dương hay kiền-khôn (càn -khôn). Thuyết Âm-Dương còn nhấn mạnh đến vai trò của Ngũ Hành: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, tạo nên mối liên quan giữa thiên giới và hạ giới (con người). Do đó, phát sinh ra nhiều điều mê tín hoang đường, chẳng hạn như: vũ trụ này được tạo thành, ít ra một cách tượng trưng, do sự phối hợp của âm-dương, của quẻ “kiền-khôn”. Nhiều điều hoang mang đặt ra như: vũ trụ này do Một Vị Hóa Công sáng tạo hay do Hai thế lực đối nghịch nhau lập nên? Vũ trụ này do Đấng Tạo Hóa an bài hay là nó tự đột phát, tự biến hóa? Theo lịch sử triết học Trung Hoa, ảnh hưởng của phái Âm-Dương không bền bỉ và mạnh mẽ đối với các triết gia thuộc phái Lý Học của Chu Hy hay Tâm Học của Vương Dương Minh, nhưng vì những điều mê tín, pha trộn với quan niệm đa thần, phiếm thần...sai lạc khỏi niềm tin nguyên thủy vào Một Vị Thượng Đế, Chủ Tể vũ trụ, nhân loại và Tổ Tiên..., đã là lý do phát hiện luồng tư tưởng “phủ nhận” Thượng Đế trong triết học sử Trung quốc, chẳng hạn như Tuân Tử (238 B.C?)

    Nói tóm lại, qua ý nghĩa của các danh hiệu Thượng Đế hay Thiên, ta nhận thấy ý niệm về “Ngôi Vị”, “Hữu Ngã” (personal character of God) do những lời cầu kinh, lễ bái dâng lên Thượng Đế hay Thiên. Đấng Thượng Đế là Vị Hóa Công tạo dựng vũ trụ và nhân loại, là Chủ Tể của lịch sử, Căn nguyên của các mệnh lệnh luân lý, Đấng phán xét, thưởng người lành, phạt kẻ dữ...như các lời dẫn chứng của Tứ Thư Ngũ Kinh.(195).

     Vấn đề ý nghĩa của các danh xưng để chỉ Đấng Tối Cao đã gây nên nhiều cuộc tranh luận và hiểu lầm, khó khăn, nhất là khi so sánh, trao đổi, phiên dịch các danh từ giữa Thiên Chúa Giáo và Tam Giáo. Sẽ bàn luận sau về các cuộc bàn cãi của các nhà truyền giáo tây phương, đặc biệt của Linh Mục Mateo Ricci về việc dùng danh từ Thiên, Thiên Chủ, Thượng Đế. Dưới đây, sẽ tìm hiểu những đặc tính hay phẩm tính mà Đức Khổng Phu Tử, và truyền thống dân gian gán cho Vị Thiên hay Thượng Đế

    2. NHỮNG ĐẶC TÍNH CỦA NIỀM TIN VÀO VỊ THIÊN HAY THƯỢNG ĐẾ

    a/ TÍN NGƯỠNG TỰ NHIÊN

    Đây là tín ngưỡng chung của nhân loại, trước những kỳ công lạ lùng của vũ trụ, nhưng rất huyền bí như các các biến cố về đời sống: sinh ra, sự chết và sự biến hóa đều hòa của trời đất. Do đó, dân tộc nào cũng tin vào Thế Lực Siêu Phàm, điều hành vũ trụ này. Theo thói quen và theo lẽ phải, muốn bày tỏ niềm tin và sự kính phục, con người bắt buộc phải dùng ngôn ngữ phàm tục để biểu lộ và diễn tả cho mọi người có thể hiểu biết và thông cảm với nhau được. Do đó, dầu không hiểu rõ bản tính của "Đấng ấy" như thế nào, nhưng một cách tự nhiên, người ta vẫn gán cho Vị Thượng Đế những danh hiệu, phẩm tính theo cách “thần-nhân-đồng hình” và theo phương pháp “tương tự”, nhưng dĩ nhiên, các danh từ, phẩm tính cần phải hiểu theo nghĩa cao siêu hơn bội phần

    Học giả Trần Trọng Kim, trong bộ sách giá trị “Nho Giáo”, quyển thượng, trang 38-39, ông đã toát lược những quan niệm của người xưa về niềm Tin vào Ông TRỜI (THIÊN) hay THƯỢNG ĐẾ như sau:

    “Đã có người, lại có quỉ, có thần, thì tất là có một cái thế lực nào nữa rất to hơn, chủ trương cả toàn thể trong vũ trụ. Cứ lý tự nhiên mà suy ra: nhà có cha, nước có vua, thiên hạ có đế, thì vũ trụ phải có một Đấng nào làm chủ.Nhưng vũ trụ mênh mông mà chỗ nào cũng thấy tầng trời xanh bao bọc khắp cả mọi nơi, người ta mới nghĩ ra Ông Trời.Chắc lúc đầu người Tàu cũng cho ông Trời như là một ông Nguyên hậu ở dưới trần gian này, vậy nên mới gọi ông Trời là Đế, hay là Thượng Đế. Thượng Đế ở trên trời cai quản cả bách thần và vạn vật ở trong vũ trụ, và lại là một đấng chí nhân hay thương dân. Kinh Thi nói rằng: “Hoàng hỹ Thượng Đế, lâm hạ hữu hách, giám quan tứ phương, cầu dân chi mạc” (Đức Thượng Đế rất lớn, soi xuống dưới rất rõ ràng, xem xét bốn phương để tìm sự khốn khổ của dân mà cứu giúp”. Vậy nên người bao giờ cũng phải kính và sợ Trời. Kính Trời và sợ Trời là cơ bản đạo đức của người Tàu”.

    Sau khi tường thuật những khái niệm của dân chúng về niềm Tin vào Một Vị Thượng Đế cai trị hoàn vũ, học giả Trần Trọng Kim cũng cho biết thêm về quan niệm triết lý siêu hình của Khổng Tử về Vị Chủ Tể càn khôn. Đây không phải là một Đấng Thiêng Liêng nào khác với niềm tin vào "Ông Trời" Chủ Tể vũ trụ càn khôn. Vì là một bậc thánh triết lỗi lạc, Đức Khổng phu Tử đã khai triển niềm Tin của dân chúng về Trời hay Đế và diễn tả bằng những lý luận siêu hình (Hình-Nhi-Thượng -Học), cốt để bảo vệ tính cách Cao Siêu Tuyệt Đối của Vị Chủ Tể đó. Bởi vậy, trong truyền thống Tín Ngưỡng Trung hoa và Việt Nam, có thể xác nhận: có một niềm Tin, nhưng có hai khuynh hướng giải nghĩa: một là, theo “phương pháp khẳng định”, tức dùng những danh từ, những hình ảnh rút ra từ thế giới hữu hình, tương đối và mặc cho chúng những ý nghĩa cao siêu; hai là, theo “phương pháp phủ định”, dùng suy luận siêu hình, (như ta cũng thấy nơi các nhà thần bí trong Thiên Chúa Giáo, trong Phật Giáo, Đạo Giáo), đặc biệt trong Lịch sử Triết học Trung Hoa vào thời kỳ Lý Học, và Tâm Học đời nhà Tống. Học giả Trần Trọng Kim đã diễn giảng một cách xác đáng, sự phát triển của dòng tư tưởng đó như sau:

     “Nhưng đó vẫn là quan niệm thuộc về phần hình thức, chưa phải là lý tưởng của những bậc hiền triết. Dần dần về sau những người trí thức nghĩ ngợi sâu xa, mới hiểu rằng không lẽ ông Trời lại nhỏ hẹp như người ta và cũng có hình dáng như ta được, tất là một cái lý chí linh, chí diệu, làm chủ tể cả muôn vật. Muôn vật sở dĩ sinh ra hay là hóa đi đều do ở cái lý ấy chủ trương.Vậy nên mới nói rằng: Trời là bản nguyên của muôn vật......cái lý quang minh, linh diệu vô cùng,tức là Thái cực. (Nho Giáo q. thượng, trg:38-39)

    b/ THƯỢNG ĐẾ: ĐẤNG TẠO HÓA, CHỦ TỂ LỊCH SỬ

    Tứ Thư Ngũ Kinh ít khi dùng những hình ảnh nhân loại để mô tả Thượng Đế, vì Khổng giáo cho rằng Thiên là:” không tiếng, không hơi” (Thượng Thiên chi tải vô thanh vô xú...) (Kinh Thi). Tuy nhiên, trong kinh Thi, Thư cũng ghi chép những lời Thượng Đế phán truyền cho Văn Vương, vị sáng lập ra nhà Chu.

_ Kinh Thi:”Đức Thượng Đế rất lớn, soi xuống dưới rất rõ ràng, xem xét bốn phương, tìm sự khốn khó của dân mà cứu giúp” (Hoàng hỹ Thượng Đế, lâm hạ hữu hách, giám quan tứ phương, cầu dân chi mạc)

 _ Kinh Thư: “Trời nhìn xuống dân chúng” (Thiên giám hạ dân)

_ Kinh Thư:”Trời không thân ai, chỉ thân kẻ biết kính sợ Ngài” (Duy Thiên vô thân, khắc kính duy thân)

_ Thượng Thư:”Trời rất thông minh, nên các thánh quân phải bắt chước Trời, quần thần sẽ khâm phục, dân chúng sẽ an vui” (Duy Thiên thông minh, duy thánh thời hiến, duy thần khâm nhược, duy dân tòng nghệ)

_ Kinh Thư: “Trời đôi khi cũng phẫn nộ” (Đế nãi chấn nộ, Hoàng Thiên chấn nộ)

 _ Kinh Thư: “Điều gì dân chúng ước ao thì Trời cũng chiều theo” (Dân chi sở dục, Thiên tất tòng chi)

    Dân chúng coi Trời như CHA, mọi người là “con của Trời”' vua được mệnh danh là “Nguyên Tử nghĩa là con đầu của Trời:

_ Kinh Thư: “Đã làm người, ai cũng đều là con của Trời', Thiên tử (vua) được gọi là con đầu của Trời” (Phàm nhân giai vân Thiên chi tử, Thiên tử vi chi thủ nhĩ)

    TRỜI đã tạo dựng nhân loại, ban cho đất đai, ruộng vườn, ngũ cốc, gia súc ..và mưa thuận gió hòa để làm ăn sinh sống. Trời cũng can thiệp, tham dự vào lịch sử vào cuộc sống của nhân loại để chọn lựa các bậc Thánh nhân, Hiền Triết thay Trời để cai trị dân. Có thể nói: đó là quan niệm về Thiên trị (Theocracy). Theo ý niệm này, dân chúng Trung hoa tin rằng chính Trời cai quản dân, vua chúa đã lĩnh Mệnh Trời để thi hành. Trước nhất, Trời chọn các vị Thánh nhân đạo đức và đặc biệt các Triết nhân, nghĩa là “tài đức kiêm toàn”. (Quan niệm này cũng giống dân Hy lạp thời cổ, coi: Plato, Socrates).

     _ Kinh Thư :”Than ôi! Trời sinh ra dân có dục vọng, không có chủ thì loạn. Nên Trời sinh ra những bậc thông minh để cai trị dân” (Ô hô! duy Thiên sinh dân hữu dục, vô chủ nãi loạn. Duy Thiên sinh thông minh thời nghệ)

     _ Kinh Thư:” Chỉ có Trời đất là cha mẹ muôn vật. Chỉ có người là linh thiêng hơn vạn vật. Ai thật thông minh thì làm vua đứng đầu. Vua đứng đầu là cha mẹ dân” (Duy Thiên địa vạn vật phụ mẫu. Duy nhân vạn vật chi linh. Đản thông minh tác nguyên hậu. Nguyên hậu tác dân phụ mẫu)

     Kinh Thư chép rằng: Sau khi vua Đại Võ đã trị thuỷ thành công, thì Trời thưởng công mà ban cho “Hồng Phạm Cửu Trù”, tức là các bí quyết trị dân hợp với Ý Trời.

    Tuy Trời ban quyền cho các bậc Thánh Vương, Thánh Triết cai quản dân, nhưng Trời với dân bao giờ cũng tương quan mật thiết, dân là cao quí hơn vua, “ý dân là Ý Trời”, nên Mạnh tử đã viết:” Dân làm quí (nhất), nước (xã tắc) là thứ nhì, vua làm khinh (rẻ)" (Dân vi quí, xã tắc thứ chi, quân vi khinh)

    c/ THIÊN MỆNH,THIÊN NHÂN TƯƠNG DỮ

    Khi bàn về mối tương quan giữa Thượng Đế và nhân loại đã được truyền tụng trong Tứ Thư Ngũ Kinh, các môn đệ danh tiếng của Đức Khổng Tử như Mạnh Tử và các môn phái Lý học, Tâm học đã giải thích những khái niệm căn bản và đã giúp ta hiểu biết ý nghĩa những thành ngữ thông dụng như: Thiên mệnh, Thiên lý, Thiên đạo, Thiên luân, nhân đạo, nhân luân, nhân sự, và đặc biệt quan niệm về”thần-nhân tương dữ” là gì?

    THIÊN MỆNH là gì?

    Chữ “Thiên Mệnh” xuất hiện nhiều lần trong Kinh Thi, Thư, Xuân Thu. “Thiên Mệnh” có ý chỉ cái Ý Chí rất linh diệu, rất cường kiện của một Vị Chủ Tể, Thượng Trí điều hành, an bài mọi sự biến hóa trong vũ trụ. Cái Ý Chí mạnh mẽ đó là Thiên Mệnh hay Đế Mệnh. Thiên Mệnh khác với “số mệnh”, (Fate, Fatalism) hay định mệnh (determinism) hay luật nhân-quả, vì đó là thế lực mù quáng, vô hồn, vô tâm, ác nghiệt gây tai ương cho con người. Nhưng theo Đức Khổng Tử, thì Thiên Mệnh chính là Ý Chí của Đấng Tạo Hóa, vô cùng thương dân, chỉ muốn đem lại an hòa, hạnh phước cho nhân loại mà thôi. Do đó, việc tối quan trọng trong cuộc sống là làm thế nào biết được Ý Trời muốn cho ta làm gì để tuân theo như câu :

     _”Thuận theo Ý Trời thì sống, chống lại Ý Trời thì chết” (Thuận Thiên giả tồn, nghịch Thiên giả vong)

    TRI-MỆNH là điều cần thiết, nhưng Trời vẫn tôn trọng sự tự do phán đoán, lựa chọn điều tốt, loại bỏ điều xấu của mỗi cá nhân. Ngoài ra, Trời sẽ phù trì những ai bền tâm, thiện chí, tự lực tự cường, không nhu nhược, chịu bó tay đợi số mệnh, hoặc vì biếng nhác không chịu hoạt động; những kẻ”há miệng chờ ho”, thì Trời sẽ tuyệt diệt đi, theo cái lẽ “Ưu thắng, liệt bại”:

     _ “Trời không phụ kẻ có lòng tốt” (Hoàng Thiên bất phụ hảo tâm nhân)

     _Kinh Dịch:” Việc hành động của Trời rất mạnh, người quân tử phải theo mà tự cường không nghỉ” (Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức)

     _Trung Dung:" Trời sinh ra muôn vật, tất nhiên vì cái tài lực của từng vật mà đôn đốc thêm vào, cho nên vật nào có thể vun đắp được thì vun trồng cho tốt lên, vật nào nghiêng ngả thì dập nát đi” (Thiên chi sinh vật, tất nhân kỳ tài nhi đốc yên, cố tài giả bồi chi, khuynh giả phúc chi)

    TRI MỆNH là cố gắng làm điều lành điều tốt, vì Thượng Đế là Đấng toàn thiện. Sách “Minh tâm bảo giám” (tấm gương báu soi sáng cõi lòng), dùng làm sách luân lý giáo khoa thư, sưu tập các câu cách ngôn của Đức Khổng Tử và các bậc thánh hiền để dạy người ta sửa tâm rèn tính, có những câu:

    _ Đức Khổng Tử viết:” Ai làm lành, thì Trời báo phúc cho, ai làm điều chẳng lành, Trời lấy vạ mà báo cho” (TỬ viết: Vi thiện giả, Thiên báo chi dĩ phúc, vi bất thiện giả, Thiên báo chi dĩ họa).

    _ Sách Thượng Thư chép:” Ai làm điều tốt, Trời xuống cho trăm điều lành, ai làm điều chẳng tốt, Trời xuống cho trăm điều vạ” (Thượng Thư vân: Tác thiện giáng chi bách tường, tác bất thiện, giáng chi bách ương).

    _Luận ngữ:” Không biết Mệnh Trời thì không phải là người quân tử” (Bất tri mệnh vô dĩ vi quân tử giã)

    _Trung Dung:” Trên không oán Trời, dưới không trách người, cứ bình dị mà đợi mệnh” (Thượng bất oán Thiên, hạ bất vưu nhân, cư dị dĩ sĩ mệnh)

    Nhưng biết được Mệnh Trời,”Tri Mệnh” là điều khó. Cho nên Đức Khổng Tử nói rằng:

    _ Luận Ngữ:” Phải đến năm mươi tuổi mới biết được “Mệnh Trời” (Ngũ thập nhi tri Thiên Mệnh)(196).

     THIÊN-NHÂN TƯƠNG DỮ là gì?

    Qua những lời trích dẫn trong Tứ Thư, Ngũ Kinh, ta nhận thấy, từ thời thượng cổ cho đến nay, dân chúng vẫn một lòng Tin vào Một Vị Chủ Tể hay Thượng Đế, vì Tình Thương vô cùng bao la và với một Ý Định mãnh liệt, đã tạo dựng nên vũ trụ và nhân loại. Do đó, muốn sống an vui, hạnh phúc, con người”linh ư vạn vật” cần phải phụng thờ, kính sợ và thuận theo Mệnh Lệnh của Trời

    Ngoài ra, ta cũng thấy các bậc thánh nhân, hiền triết như Đức Khổng Tử, Mạnh Tử...đã dùng lý trí để suy luận về bản tính, bản thể siêu việt của Vị Chủ Tể toàn tri, toàn năng, toàn thiện mỹ, vượt trên những cách thế diễn tả thông thường của dân chúng. Cái Nguyên Lý tột đỉnh, tuyệt đối làm căn nguyên nguồn gốc của mọi sự tồn hữu của vạn vật, các triết gia gọi là, Thiên Lý, tức Lý Thái Cực, mà Bản Thể, Bản Tính của Lý đó là rộng lớn mênh mông vô hạn, chí linh, chí diệu, bao trùm vạn vật, chính là Vị Chủ Tể càn khôn. Học giả Trần Trọng Kim đã giải thích tư tưởng đó như sau:

     “Tự đời thượng cổ, người Tàu đã có tư tưởng cho người ta sinh ra ai cũng bẩm thụ cái tính của Trời. Cái tính ấy tức là một phần Thiên Lý. Vậy Trời với người quan hệ nhau rất mật thiết lắm.Bởi thế mới lấy pháp tắc tự nhiên của Trời làm mô phạm của người và cho Thiên luân là nhân luân, Thiên đạo là nhân đạo. Kinh Thi nói rằng:” Thiên sinh chưng dân, hữu vật hữu tắc, dân chi bỉnh di, hiếu thị ý đức” (Trời sinh ra dân, có hình phép, dân giữ tính thường, muốn có đức tốt).Trời sinh ra người, cho người có lòng muốn đức tốt, thì người phải lấy Trời làm gốc, phải kính Trời, sợ Trời, phải theo cái bản tính của Trời đã phú cho mà ăn ở cho hợp với đạo Trời (Nho Giáo, quyển I, trg 39-40).

    Khi suy nghĩ về bản tính của nhân loại, các bậc hiền nhân quân tử, đặc biệt Mạnh Tử đã nhận thấy nhiều điều thiện hảo nơi tâm tính của con người:”Nhân chi sơ tính bản thiện”; vì thế, mới cho rằng chính Trời đã phú ban cho bản tính con người mối thiện tâm đó từ khi sinh ra, không phải tự mình mà có được. Do đó, mới có thuyết “Thiên -Nhân Tương dữ”, Trời và Người quan hệ với nhau, hay “Thiên Nhân hợp nhất”, vì chủ trương con người được Trời cho tham dự vào phần Thiên Lý. Để đối lại, con người cũng phải cư xử, hành động thế nào cho hợp với lẽ Trời.

    Cùng một ý niệm như trên, vì chủ trương "nhân sự" phải thuận theo "Thiên Lý", nên Đức Khổng Tử và các thánh triết còn nói câu:” Thiên địa vạn vật nhất thể”. Ba thành ngữ hay cụm từ này có thể gây ra ngộ nhận, hiểu lầm vì cách thức giải thích và cách hiểu biết khác nhau. Thực ra, theo văn mạch và những lời giảng dạy, ghi chép trong Tứ Thư Ngũ Kinh, Đức Khổng Tử hay các vị Thánh Hiền như Mạnh Tử không bao giờ đặt nhân loại hay vạn sự vạn vật ngang hàng với Thiên, (Thiên Tính, Thiên Lý), vì Thiên hay Thượng Đế là Nguyên Lý Tuyệt Đối Siêu Việt trên hết mọi sự mọi loài. Vả lại, nếu tâm hồn con người được phần cao quý và thiện hảo thì chỉ do ân huệ của Trời phú bẩm cho mà thôi. Hơn nữa, Thiên là Tuyệt Đối, hằng hữu, trường tồn, còn nhân loại là loài thụ sinh, bẩm sinh, tương đối, nay còn mai mất thì làm sao có thể so sánh bình đẳng hay đồng đẳng được! Do đó, các thành ngữ đó chỉ là cách diễn tả, biểu lộ theo khuynh hướng tu đức thần bí (Mystic) mà ta vẫn gặp thấy nơi các nhà thần bí trong các tôn giáo. Bởi vậy, thiết tưởng đối với truyền thống chân chính của Khổng giáo, không nên hiểu hay giải nghĩa ý niệm trên theo nghĩa đa thần hay phiếm thần (pantheism ), cho rằng “Thiên-địa-nhân-cỏ-cây-động-vật...đều chung một bản thể hoàn toàn như nhau và quyền phép bằng nhau. Tuy nhiên, trong lịch các đạo giáo ở Trung Hoa hay ở Việt Nam, cũng có triết lý duy vật, duy lý, vô thần hay mê tín dị đoan, đồng hóa Vị Thượng Đế Chủ Tể với vạn sự vạn vật trong vũ trụ vào một khối duy nhất, nhưng đây không phải là niềm tin tưởng chính đáng chung của nhân dân, của các vị thánh vương và các thánh triết như Đức Khổng Tử và Mạnh Tử

     Sách Trung Dung đã dùng chữ “Thiên Đạo” (Way of Heaven)để chỉ một cách bóng bảy Ý Chí của Trời hay Thiên Mệnh như một “Đạo” (Đường) vận hành không ngừng từ thuở đời đời, tạo nên sự quân bình hòa hợp trong vũ trụ thiên nhiên và ở nơi con người. Bởi vậy, muốn sống hạnh phúc an hòa trong cuộc đời, thì “nhân đạo” cũng phải phối hợp với "Thiên Đạo". Trời sinh ra con người, đã khắc ghi vào Lương Tâm, Lương Tri của con người những qui tắc, giới răn có giá trị hằng cửu. Do đó, các nhà tu đức chỉ cần nhìn vào bản tâm, bản tính nguyên sơ, tinh tuyền của lòng mình, gạt bỏ mọi dục vọng làm lu mờ Lương Tâm trong sáng thuở ban sơ, gọi là “sơ tâm”, đơn sơ, tinh khiết như tâm hồn của một trẻ thơ, thì có thể dễ nhận ra Thiên lý và Thiên Đạo để noi theo.

    - Mạnh Tử viết:” Bậc đại nhân mà không mất cái tâm đơn sơ như trẻ nhỏ (con đỏ)” (Đại nhân giã, bất thất kỳ xích tử chi tâm)

     - Mạnh Tử viết:” Trong lòng mỗi người đã sẵn có lòng Trời rồi” (nhất nhân chi tâm, tức Thiên địa chi tâm)

    - Trung Dung viết: “ Biết được lòng người, thì không thể không biết được Trời” (tư tri nhân, bất khả dĩ bất tri Thiên)

      Vì Thiên Đạo và nhân đạo quan hệ với nhau, vì con người được Trời cho một phần Thiên tính, Thiên lý, nên nhờ tồn tâm dưỡng tính, và tu thân tích đức, con người có thể vươn lên cỗi Siêu Việt để nhận biết Trời:

    - Mạnh Tử viết:” Thấu hiểu lòng mình, sẽ biết được bản tính của mình; biết được tính, thì cũng biết được Trời” (Tận kỳ tâm giả, tri kỳ tính dã, Tri kỳ tính, tắc tri Thiên hỹ).

    d/ THỜ TRỜI

    Từ đời các Thánh Vương như vua Nghiêu, vua Thuấn, tín ngưỡng của nhân dân đặt trọng tâm vào lòng kính sợ Trời, luôn theo Mệnh Trời để được sống an hòa hạnh phúc, nên đã coi việc tôn thờ Trời,”Tế Trời” là điều thiết yếu. Do đó, mới lập ra các lễ nghi rất oai linh, chỉ định các vị chủ tế, sắm sửa các lễ vật quí giá và lễ phục trang nghiêm. Sách Lễ ký, (gồm cả Nhạc) đã qui định các luật lệ về tế tự, đặc biệt trong Lễ Tế Thiên. Chỉ nhà vua mới được tế Trời vì vua mệnh danh là 'Thiên tử”, đại diện toàn dân và trực tiếp lĩnh Thiên Mệnh để cai quản quốc gia. Ngoài ra, còn nhiều lễ nghi để tế các vị thần khác, nhưng lòng tín ngưỡng quan trọng thứ hai là thờ kính Tổ Tiên. Bởi vậy, về tôn giáo ở Trung Hoa và Việt nam, chỉ có đạo Thờ Trời và đạo Hiếu,  là quan trọng hơn cả.

 

     _Sách Lễ ký nói:” Muôn vật gốc ở Trời, con người gốc ở tổ tiên” (Vạn vật bản hồ Thiên, nhân bản hồ Tổ)

     _ Luận ngữ:” Người quân tử sợ Mệnh Trời” (quân tử uý Thiên Mệnh)

     _Luận ngữ:” Đức Khổng Tử cầu nguyện từ lâu rồi (suốt đời)” (Khâu chi đảo cửu hỹ).

    Qua câu tuyên bố ở trên, ta biết được ý kiến của Vị Thánh Sư về việc cầu nguyện lễ bái. Tại sao Đức Khổng Tử lại nói: Ngài đã cầu nguyện từ lâu rồi hay vẫn cầu nguyện suốt đời? Theo Ngài, việc tế tự hay cầu đảo không phải chỉ diễn ra khi ta cần cầu xin một ân huệ gì với Trời như xin ơn lành bệnh, nhưng cầu nguyện suốt đời không lúc nào ngưng có nghĩa là chung thân ta phải cố gắng thuận theo Ý Trời, Thiên Mệnh và thực hành những điều Nhân ,Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Bởi vì, nếu ta ăn ở bất nhân thất đức thì việc cầu đảo cũng là vô ích. Ngài nói:

     Luận ngữ:” Phạm tội với Trời, thì còn cầu nguyện vào đâu được” (Hoạch tội ư Thiên, vô sở đảo giã)

    Người xưa tin :”Sống gửi chết về” (sinh ký giã, tử qui giã), vì lẽ rằng: con người “linh ư vạn vật”, đã bẩm thụ một phần Thiên lý, Thần Linh chiêu minh sáng láng rực rỡ của Trời ban cho, nên sau một thời gian vắn vỏi sống tạm trên thế gian này, khi chết, hài cốt, thể phách chôn xuống đất dần dần tan nát đi, nhưng hồn thiêng, tức phần tinh anh của con người sẽ trở về với Trời, đặc biệt những bậc thánh nhân hiền đức sẽ được trở về với Trời nơi ánh sáng huy hoàng:

     _ Sách Lễ ký:”Chết rồi, hài cốt chôn xuống đất dần dần tan đi, còn cái khí tinh anh thì lên khoảng không gian sáng rõ rực rỡ” (Tử tất qui thổ, cốt nhục tệ ư hạ, âm vi dã thổ, kỳ khí phát dương ư thượng vi chiêu minh)

    Niềm tín ngưỡng ở một Vị Thượng Đế rất sâu xa, nên bất cứ công việc gì cũng phải làm theo Thiên Mệnh, Thiên Đạo và giữ tròn Đạo Hiếu đối với Tổ Tiên. Do đó, mới đặt ra chức quan gọi là Quan Chúc, chuyên lo về thiên sự, nghĩa là coi việc cầu nguyện, tế lễ, phúng điếu, soạn lịch. Quan Sử coi việc nhân sự, tức là ghi chép các công trình sự nghiệp của các đế vương đã thực hiện để lưu truyền cho hậu thế noi theo. Việc san định Tứ Thư Ngũ Kinh do các Quan Sử phụ trách. Đức Không Tử, tị tổ của Nho Giáo cũng thuộc giới Quan Sử.

    Trong xã hội cổ Trung Hoa và Việt Nam cũng còn hai giới chức có ảnh hưởng liên quan đến đời sống tôn giáo và xã hội của dân chúng, đó là giới Nho sĩ và giới Vu- Hích( làm nghề thầy cúng, thầy pháp, đồng bóng, đồng cốt). Học giả Trần Trọng Kim đã đã giải thích địa vị và hoạt động của hai giới này, đại ý như sau (Coi Nho Giáo q. I, trg 45-48).

    Như đã bàn luận ở trên, nhân dân và các vua quan kính và sợ Trời, luôn tìm hiểu Thiên Mệnh để tuân theo. Nhưng làm thế nào biết được Mệnh Trời để thi hành, đó là một điều rất khó! Các vị Thánh Vương, các nhà hiền triết, nhờ tu thân tích đức, tồn tâm dưỡng tính, trí tri cách vật, thông hiểu thiên văn địa lý, nhân tâm thế sự...thì mới hy vọng hiểu được phần nào Thiên Đạo để ứng dụng vào nhân đạo, thế sự. Còn đám bình dân vô học thức thì làm sao có thể hiểu được việc nhân sự ra sao để xử trí cho hợp với Ý Trời?

    Do đó, trong xã hội, một giai cấp được trọng dụng là các Nho gia. Nho cũng đọc là Nhu, có nghĩa là “nhu- cầu,” là giới học thức uyên bác, rất được các vua quan, chư hầu và các nhà quyền quí trọng dụng, và cần thiết để hỏi ý kiến, nhất là trong những công việc hệ trọng về thiên sự và nhân sự. Giới Nho gia đã có từ lâu đời trước Đức Khổng Tử. Do đó, Ngài không phải là vị sáng lập ra Nho Giáo; ngài cũng là một nho gia và đã có công san định lại, rồi giải nghĩa những lời giáo huấn của các thánh hiền trong bộ Tứ Thư Ngũ Kinh.

    Đối với đám dân chúng đông đảo, vì thiếu học thức, ít suy nghĩ, nên dễ tin theo các thầy cúng, thầy pháp. đồng bóng đồng cốt..., gọi là Vu-Hích. Học giả Trần Trọng Kim đã phê phán về giới này như sau:

    “Phàm người đời đã bị cực khổ mà lại học hành không có, việc hay dở không biết thế nào, tất là phải chìm đắm vào những điều mê hoặc, và tin những điều quái lạ. Vu là người con gái, hích là ngưồi con trai làm nghề đồng bóng, tức bọn đồng cốt, thầy cúng, thầy pháp v.v lấy điều cát hung họa phúc, dùng những phương thuật huyền hoặc mà đánh lừa những người ngu dại, đem chuyện thần thánh ma quỉ mà dọa nạt người thường để làm nghề kiếm ăn” (Nho Giáo,q. I. trg. 45)

    Thế lực của bọn Vu hích rất mạnh vì được dân chúng mê tín nghe theo. Bởi vậy, các đế vương đời trước đã đặt ra chức quan Tư vu để cai quản, sai khiến và ngăn chặn bọn vu hích không cho mê hoặc dân chúng, làm sai lạc niềm tín ngưỡng chân chính, chính đạo của toàn dân

    Nói tóm lại, từ thượng cổ cho đến ngày nay, trong khắp miền Đông Nam Á như Việt Nam, Trung Hoa, Đại Hàn, Nhật Bản,.... người ta vẫn nhận thấy hai luồng Tín Ngưỡng lớn mạnh nhất, bao trùm đời sống tâm linh tôn giáo và guồng máy cơ cấu tổ chức xã hội, gia đình, đó là đạo THỜ TRỜI và đạo HIẾU. Thật thế, tuy ngày nay không còn công khai “Tế Trời” như xưa, vì trong các nước không còn vị “Thiên tử” để đại diện toàn dân, nhưng trong thâm tâm của mỗi người, dầu thuộc bất cứ tôn giáo, khuynh hướng xã hội hay chính trị nào, theo truyền thống vẫn tiềm tàng, ấp ủ một niềm Tin bất diệt vào một Vị Chủ Tể lân ái, an bài mọi biến cố trong vũ trụ, quốc gia, trong lẽ điều hòa. Niềm Tin ở Trời và lòng yêu mến, tôn kính Tổ tiên  đã in sâu vào tâm khảm mỗi người, nên khi vui mừng, nhất là khi gặp tai ương, hoạn nạn bất ngờ, không còn biết trông cậy vào ai, chỉ còn biết ngửa mặt lên trời mà thốt lên câu cầu cứu:" Trời ơi! ""Chúa ơi!"

3. TÁC PHẨM "THIÊN CHỦ THỰC NGHĨA" của Linh Mục MATTEO  RICCI (1552-1610)

Theo lịch sử, Thiên Chúa Giáo đã du nhập các nước Đông Nam Á như Ấn Độ, Trung Hoa,..rất sớm từ 578. Năm 635, vị tu sĩ  thuộc giáo phái Nestorius( chết năm 451), tên là Alopen  đã đến Tràng An( ngày nay là Tây an), thủ đô của Phật Giáo Trung Hoa đời nhà Đường.  Nhà thám hiểm thời danh Marco Polo( nước Ý) đã đến giúp nhà Nguyên vào cuối thế kỉ 13, thuật lại những di tích lịch sử của Thiên Chúa giáo tại Trung Hoa mà ông đã tìm thấy như cây "Thánh Giá Khải Hoàn" , cây "Thánh Giá cắm vào Bông Sen"( tượng trưng của Phật Giáo)và nhiều ngôi mộ

Năm 1514, những chiếc tàu buôn của Bồ đào nha bắt đầu xuất hiện trên bờ biển Đông Nam Á, mang theo một số Linh Mục làm tuyên uý cho các thủy thủ để giúp đỡ về tôn giáo như ban các bí tích. Năm 1532, Thánh Phanxicô Xavie đặt chân lên đất Phù Tang. Ngài đã tạ thế trên một hòn đảo thuộc hải phận Trung Quốc, ngày 3 tháng mười hai năm 1552, hưởng thọ 46 tuổi. Trước khi nhắm mắt từ giã cuộc đời, Ngài đã rất luyến tiếc chưa được dịp đặt chân lên đất Trung Hoa, nhưng tha thiết cầu xin cho việc truyền giáo tại đây trong tương lai sẽ gặt hái được nhiều kết quả

Năm Thánh Phanxicô Xavie qua đời, thì cũng là năm sinh của một nhà truyền giáo thời danh khác là Linh Mục MATTEO RICCI . Ngài sinh tại Macerata, nước Ý. Trong thời niên thiếu, ngài được thụ giáo với nhà toán học lỗi lạc Christopher Clavius, bạn thân của các nhà bác học Kepler và nhà thiên văn học Galileo. Nhờ những kiến thức về khoa học như toán học, thiên văn, họa bản đồ, chế tạo đồng hồ..., nhà truyền giáo tài ba lỗi lạc này đã được các nhà cầm quyền Trung Hoa thời bấy giờ tiếp đón nồng hậu, ưu đãi. Sau 13 năm nghiên cứu và học chữ Hán, cha Ricci đã có thể dịch bộ Tứ Thư ( Luận -ngữ, Mạnh tử, Đại học, Trung dung) sang tiếng Latinh. Nhờ thông thạo Hán văn, và thông hiểu tư tuởng của thánh hiền, cha Ricci đã trực tiếp trích dẫn những lời văn của Tứ Thư, Ngũ Kinh để trình bày và diễn giảng những giáo lý của Thiên Chúa Giáo, trong cuốn sách "Thiên Chủ Thực Nghĩa"mà cha đã biên sọan và xuất bản lần đầu, 200 cuốn tại Bắc Kinh, năm 1603.

Toàn bộ cuốn sách được chia ra làm hai Phần, gồm tám chương(chapters). Trong Phần I, tác giả đưa ra những chứng cớ về sự tồn hữu của Thiên Chúa và các phẩm tính của Đấng Tạo Thành vũ trụ càn khôn.(chương I); tiếp đến, tác giả dùng các bản văn trong Tứ Thư Ngũ Kinh của Nho Giáo cổ truyền trước đời nhà Tần( Tần Thuỷ Hoàng(221-206 B.C), để phê bình các quan niệm về "Vô" của Lão Trang, và "Không"của Phật học. Tác giả cũng dùng các phạm trù của triết lý Kinh viện như" Tự-lập-giả"(substantia) và "ỷ-lại-giả"(accidens), để phê phán quan niệm "Thái Cực"và "Lý" của Đạo-học-gia(Neo-Confucianism). Cha Ricci cũng đưa ra những lý lẽ tại sao chấp nhận dùng các danh xưng "Thiên" và "Thượng Đế" trong truyền thống tín ngưỡng Trung Hoa; và đặc biệt, để nhấn mạnh về tính chất "hữu ngã", ngôi vị, ngài đã đặt ra danh xưng"THIÊN CHỦ"(chương II). Trong Chương III và IV, tác giả đề cập đến quan niệm "Linh-Hồn"' Hồn thiêng của con người khác với "hồn" của động vật(giác hồn) và của thảo mộc (sinh hồn). Tác giả cũng phi bác ý niệm về"vạn vật nhất thể", hay "tam tài"(thiên-địa-nhân), cho rằng mọi loài trong vũ trụ,( kể cả Lý Thái Cực) đều chung một bản thể. Phần HAI, tác giả phê bình quan niệm của Phật Giáo về luân hồi, và về cấm sát- sinh(chương V). Cha Ricci dùng bản văn trong Thư Kinh để minh chứng  Linh hồn bất tử, sau khi chết, và  công việc phước thiện sẽ được thưởng trên Thiên đàng;  ý muốn, hành vi xấu sẽ bị luận phạt trong địa ngục.(chương VI). Tác giả cũng bàn đến bản tính của nhân loại, gồm điều tốt điều xấu, và bổn phận phải TU THÂN(chương VII). Sau hết, Cha Ricci đề cập đến cách thức tu thân tu đức của giới tu sĩ Thiên Chúa Giáo và đời sống độc thân. Trong ít trang cuối sách, cha Ricci tóm lược "Lịch Sử Cứu Độ" trong Thiên Chúa Giáo do Thiên Chúa mặc khải cho những ai muốn xin lĩnh nhận  Phép Rửa Tội. Dĩ nhiên, nếu ai tự ý muốn  xin chịu Phép Rửa Tội thì còn cần học hỏi thêm nhiều điều giáo lý khác nữa

Sau đây,  chỉ xin chú trọng trình bày quan điểm và các nhận xét của cha Ricci về tín ngưỡng truyền thống của dân chúng Trung Hoa đối với "ĐẤNG THƯỢNG ĐẾ, hay "VỊ THIÊN", đã được ghi chép như thế nào trong Thư- Kinh ( tức là phần I, Chương I, II).       

Do đó, sẽ bàn luận về ba điểm: a/ Chủ đích và phương pháp của cha Ricci khi khởi thảo cuốn sách"Thiên Chúa Thực Nghĩa"' b/ Danh xưng: THIÊN CHỦ c/ Ảnh hưởng và những Thách Đố  đối với tác phẩm thời danh đó. Xin lưu ý:( Các chú thích ở đây như  số chương (chapter), số đoạn ( paragraph divisions:1-596),  số trang..,  ghi theo bản dịch ra Anh văn, tựa đề:"The True Meaning of The Lord of Heaven" do Douglas Lancashire and Peter Hu kuo-chen,S.J. The Institute of Jesuit Sources, St. Louis,1985)

a/    CHỦ ĐÍCH CỦA TÁC PHẨM

Năm 1583 Cha Matteo Ricci và Cha Michele Ruggieri đặt chân lên đất Trung hoa. Cha Ricci đã dùng chính sách "Hội Nhập Văn Hóa" để đối thoại với giới trí thức, tức là các nho gia. Ngài mặc phẩm phục của nho sĩ, và coi mình như một "nho sĩ Tây Phương". Vì  cha Ricci muốn Thiên Chúa Gíao mặc bộ áo Trung Hoa, nên cha đã đàm đạo trực tiếp với giới lãnh đạo tinh thần, chính trị và văn hóa trong nước, hy vọng có thể cảm hóa họ để họ tìm hiểu giáo lý của Thiên Chúa Giáo và nhờ họ sẽ gây ảnh hưởng đến đại quần chúng.  Cũng nên nhận xét ở đây: vì khi mới tiếp xúc với văn hóa Trung Hoa, cha Ricci đã học hỏi và phiên dịch Tứ Thư Ngũ Kinh, nên Cha hâm mộ "Nho Học Nguyên Thủy" đời Đức Khổng Tử, Mạnh Tử..hơn là  Tân-Nho Học( Neo-Confucianism) theo Lý Học của Chu Đôn Di hay Tâm Học của Vương Dương Minh.    

Thực vậy, khi nghiên cứu và phiên dịch các sách của thánh hiền, cha Ricci đã tìm thấy những điểm tương đồng, hòa hợp giữa tư tưởng của các Thánh Hiền và dân chúng Trung Hoa với niềm Tin Công Giáo, chẳng hạn như : Một Vị Thiên Chúa độc nhất trong vũ trụ, linh hồn bất tử, người lành được thưởng, kẻ dữ bị phạt, nhân chi sơ tính bản thiện...Đặc biệt, cha Ricci chú trọng đến quan niệm Tu Thân trong Nho Giáo, vì ngài cho rằng một người lương thiện suốt đời lo tu thân tích đức, cố gắng ăn ngay ở lành, thì thể nào cũng sẽ gặp được Thiên Chúa Chân Thật!

Cuốn sách" Thiên Chủ Thực Nghĩa" không phải là cuốn sách "giáo lý", trình bày hết mọi đề tài trong Đạo Thiên Chúa, nhưng chỉ đề cập đến những vấn đề mà "Lương Tri" và Lý Trí tự nhiên của con người có thể tìm hiểu được. Do đó, các nhà bình phẩm gọi tác phẩm của cha Ricci là" Sách đối thoại Tiền-Phúc Âm"( pre-evangelical dialogue). Chủ đích của cha là để "ĐỐI THOẠI" vối các văn nhân, quân tử trong nền văn hóa Trung Quốc. Đây cũng là bước đầu của công trình "Hội nhập Văn hóa" giữa Thiên Chúa Giáo và các tôn giáo hoàn cầu. Bởi vậy, cha Ricci chỉ nêu ra những vấn đề mà các văn sĩ có thể dùng Lý Trí, Lý Lẽ để hiểu biết được, chẳng hạn như : tìm hiểu ý nghĩa của đời sống, tại sao sinh ra , sống làm gì, chết rồi đi đâu? hoặc vũ trụ này "tự nhiên" mà có, hay do Một Vị Hóa Công tạo thành? Trong mấy trang cuối cùng của cuốn sách, cha có đề cập đến một vài "mầu nhiệm" mà Thiên Chúa đã mặc khải cho loài người như: Chúa Cứu Thế là Con Thiên Chúa, Ngài giáng trần để cứu độ nhân lọai, Ngài Thăng Thiên để làm đấng trung gian môi giới giữa Thiên Chúa và nhân lọai. Sau đây, tôi xin trích và dịch từ nguyên bản Hán văn về việc dùng Lý Trí để tìm chân lý:

"Kim tử dục văn Thiên Chủ Giáo nguyên, tắc ngô trực trần thử LÝ dĩ đối, đả trượng Lý phẫu tích. Hoặc hữu dị luận, đương tất tích biện, vật dĩ đản ngã. Thử luận Thiên Chủ chính đạo công sự dã, bất khả dĩ tư tốn phế chi" DỊCH: Bây giờ, Quí vị nho gia muốn học biết các nguyên lý của giáo huấn về Thiên Chúa, thì tôi (Ricci) xin phân trần thẳng thắn các Lý lẽ để đối đáp, tôi chỉ dùng LÝ để phân tích mà thôi. Nếu quí vị nhận thấy điều gì khác lạ không chấp thuận thì  xin cứ biện luận, nhưng xin đừng xuyên tạc. Vì chúng ta đang bàn luận về những nguyên lý có tính chất phổ quát về Thiên Chúa, nên tôi không thể vì sự khiêm tốn của cá nhân mình mà chối bỏ sự thật được. (coi" Thiên Chủ Thực Nghĩa", chương  I, đoạn 19-27, trang 68-69)

b/ DANH XƯNG: THIÊN CHỦ

PHẦN MỘT, chương một, Cha Ricci bàn luận về Đấng Thượng Đế. Ngài dùng các lời của thánh hiền trong Nho Giáo trước đời nhà Tần (Tần Thủy Hoàng, 221-206 B.C), để dẫn chứng về sự hiện hữu của Một Đấng Tạo Thành vũ trụ càn khôn; Ngài cũng đề cập đến các phẩm tính của Đấng Tạo Hóa như: tạo dựng vũ trụ, tự hữu, vĩnh cửu, duy nhất...Ngài cũng tìm cách  để phiên dịch các từ ngữ thần học của Thiên Chúa Giáo sang ngôn ngữ Trung Hoa. Đây là nhiệm vụ khó khăn nhất của một nhà truyền giáo là: làm thế nào để "Hội Nhập Phúc-Âm vào các nền văn hóa", nhất là đối với một nền văn minh  cựu trào như các dân tộc Á châu?  Dùng danh xưng từ ngữ nào trong tiếng địa phương tương xứng, tương đương có khả năng chuyên chở được nội dung ý nghĩa thần học của  Giáo lý? Mặt khác, danh xưng mới chế tạo ra, không quá ngây ngô, xa lạ, "lai căng" đối với dân bản xứ? Do đó, điều kiện quan trọng đòi hỏi nơi nhà truyền giáo và các nhà thần học là phải am hiểu, thông thạo cả Giáo Lý lẫn nền văn học, ngôn ngữ của nơi mình giảng đạo. Khó khăn này, ngày nay, vẫn luôn luôn đặt ra cho chúng ta..

Trong phần đầu của Đoạn IV này, đã giải thích ý nghĩa các danh xưng như: Đế, Thượng Đế, Thiên..vẫn được truyền tụng trong dân gian và trong Tứ Thư, Ngũ Kinh. Các nhà truyền giáo và cha Ricci đã phải học hỏi, suy nghĩ rất thận trọng trong việc lựa chọn một danh xưng thích hợp để phiên dịch từ ngữ Latinh DEUS(GOD) ra tiếng  Hoa ngữ. Điều khó khăn này cũng đã gặp thấy ở Nhật Bản và Việt Nam. Có giải pháp dùng từ ngữ Latinh, rồi "âm" sang tiếng bản quốc, chẳng hạn: Deus, âm sang tiếng Nhật là:"Deusu", sang Việt ngữ là "Dêu"(Chúa Dêu); Gratia(ân phúc), âm sang Nhật ngữ và Việt ngữ là"garasa"' Kinh Kính Mừng cổ bằng tiếng Việt là:" Ave Maria, đầy garasa Chúa Dêu ở cùng Bà"...Giải pháp này có cái lợi là không sợ "danh xưng mới chế tạo"làm thay đổi nội dung, ý nghĩa trong thần học giáo lý. Nhưng có nguy cơ làm cho Thiên Chúa Giáo trở thành đạo ngoại lai, "đạo tây", xa lạ với văn hóa ngôn ngữ dân tộc; ngoài ra, các tiếng "deusu", hay "dêu"có nghĩa xấu, bất xứng trong ngôn ngữ bình dân! Hơn nữa, theo nhận định của một số thừa sai, sợ rằng dân chúng bản xứ có thể hiểu lầm, coi vị thần mang tên mới này(Chúa Dêu) là một vị thần mới của tây phương đem đến và khác với Vị Thiên hay Thượng Đế, hay Ông Trời mà họ vẫn tôn kính là Đấng Tạo Hóa. Một giải pháp khác, đã được các tu sĩ Phật Giáo( thế kỉ ba, bốn) dùng, khi khởi sự truyền đạo Phật từ Ấn Độ qua Trung Hoa. Đó là phương pháp gọi là"cách-nghĩa"(ko yi, ge yi; coi: "A Short History of Chinese Philosophy", by Fung Yu Lan, trang 242). Theo cách thức này, người ta dùng các danh từ và tư tưởng của Lão-Trang như "Vô", "Vô Vi", "Hữu". Hữu Vi"...để  chuyển ý, hay giải thích bằng loại suy(interpretation by analogy),  tức là một cách "tương tự", những quan niệm của Phật Giáo Ấn Độ, vì người ta cho rằng: tư tưởng của Trang Tử gần giống lý thuyết của Phật học. Môn phái Thiền tông, Thiền học ở Trung Hoa được xây dựng theo phương pháp này. Do đó, Phật học đã đồng hóa, pha trộn với tư tưởng, văn hóa và đã phát triển tương quan với truyền thống Trung quốc. Phương pháp này có nguy cơ là làm sai lạc, xuyên tạc nội dung ý nghĩa của giáo lý của đạo" gốc". Vả lại, muốn dùng phương thức này, cần phải thông thạo, và nghiên cứu tường tận triết học Trung Hoa thì mới có thể so sánh được. Nhưng đây cũng là một thách đố đối các nhà truyền giáo ngoại quốc, nếu thực sự muốn đem Đạo vào Đời, hay đem Phúc Âm Hội Nhập vào các nền văn hóa, văn minh của các dân tộc, theo gương Thánh Phao lô Tông đồ và Thánh Tôma Aquinô đã dùng ngôn ngữ và triết học Hy-lạp để giải thích Phúc Âm, khởi thủy đã mặc bộ áo của văn hóa Do thái giáo.

Sau khi phiên dịch Tứ Thư, Ngũ Kinh, cha Ricci và các linh mục Dòng Tên đã nhận thấy vết tích "hữu thần" trong tín ngưỡng của dân chúng Trung Hoa. Hai từ ngữ có thể dùng để phiên dịch danh từ "Deus"trong tiếng Latinh là "Thượng Đế", và "Thiên".  Chữ Thượng Đế mang tính cách"hữu ngã", bản vị, nhưng có nguy cơ là như muốn hoàn toàn đồng hóa về ý nghĩa giáo lý giữa Thiên Chúa Giáo và Khổng Giáo; vả lại, Lão Giáo bình dân cũng thờ vị thần tên là Thượng Đế. Nếu dùng chữ "Thiên" thì sợ ý nghĩa chữ này hàm hồ( có khi chỉ trời xanh) thiếu tính chất "hữu ngã". Do đó, cha Ricci đã sáng chế ra chữ mới: ghép chữ Thiên với chữ Chủ thành ra:"THIÊN CHỦ",(The Lord of Heaven) có ý chỉ Một Vị Chủ Tể " Hữu Ngã"( personal) cai trị muôn vật trên trời dưới đất  trong vũ trụ. Danh xưng này vẫn còn truyền tụng và phổ thông cho đến ngày nay tại Trung Hoa và Việt nam. Ngoài ra, danh từ "Thượng Đế" cũng được dùng để chỉ Thiên Chúa. Cũng vì thế, Trung Hoa gọi Đạo của các thừa sai, đặc biệt của cha Ricci rao giảng là Thiên Chủ Giáo(Lưu ý: chữ Catholicism, catholic  trong tự điển, cũng dịch là Thiên Chủ Giáo.)

Có thể vì chủ trương đem Đạo vào đời, vào Văn Hóa, vì muốn Phúc Âm "mặc bộ áo Trung Hoa", nên cha Ricci và một số đồng nghiệp đã lựa chọn các danh từ phổ thông trong dân chúng, rồi "thanh tẩy" và ban cho chúng một nội dung thần học mới. Do đó, người ta không lấy làm lạ khi thấy cha Ricci dùng các danh từ đã phổ biến trong giới Phật tử để dịch những danh từ thần học trong sách Giáo Lý, chẳng hạn, như: Thiên đàng, Địa ngục, ma quỉ(mara) Thiên thần(deva), Linh Hồn. Danh từ "Thánh"cũng rất phổ thông trong Khổng Giáo để chỉ các bậc hiền nhân quân tử, như thánh hiền, thánh vương, là những người khôn ngoan thông thái, đạo đức(sage) Chữ "thánh" trong văn hóa Trung Hoa không chỉ sự thiêng liêng, cao cả của các bậc thần linh( deity). Trong thần học giáo lý công giáo, chữ "thánh", có nghĩa là linh thiêng, thánh thiện( holy, saint, sacred), phản nghĩa với "thánh" là "tội nhân", là "phàm tục"(profane). Cha Ricci đã ghép hai chữ"thánh" và "thần"( divinity) thành ra:"thánh thần", một tĩnh tự để chỉ vị thánh hiền(sage). Sau này, Giáo lý Công Giáo dùng danh từ "Thánh Thần" để chỉ Ngôi Ba Thiên Chúa là Đức Chúa Thánh Thần,( Holy Spirit), trong khi giáo phái Tin Lành(Protestants) dịch là "Thánh Linh". Từ thế kỉ 18, người thánh thiện được gọi là bậc"thánh nhân", hay bậc "thần thánh". Cha Ricci đã dùng chữ "thánh thần" , trong nguyên tác Hán văn như sau:

"Thế nhân tuy "thánh thần", bất đắc dĩ Vô vật vi Hữu", dịch nghĩa:Dầu là bậc thánh hiền nhất trong thế giới này, cũng không thể lấy "hư vô",( không có gì hết) mà làm ra có cái gì được( sách dẫn chứng, đoạn số 72, trang 102)

Ngoài ra,  cha Ricci đã phải sáng tác ra những danh từ mới để phiên dịch các danh từ và ý niệm của triết học và thần học Kinh Viện, chẳng hạn: cha dùng chữ kép"tự-lập-giả"để dịch chữ"substantia", và chữ "ỷ lại giả" để dịch chữ "accidens". Ngày nay, các học giả dùng danh từ "tự-lập-thể" và "ỷ- phụ-thể"(coi,  như trên, đoạn số 83, trang 108)

c/  ẢNH HƯỞNG CỦA TÁC PHẨM VÀ NHỮNG THÁCH ĐỐ ĐỐI VỚI GIÁO HỘI NGÀY NAY

Khi Cha Ricci cho phát hành sách "Thiên Chủ Thực Nghĩa", thì ngài cũng đã nổi tiếng là một nhà khoa học và toán học trong giới nho sĩ Trung Hoa. Do đó, tác phẩm của ngài được các giới trí thức hoan nghinh hưởng ứng, đặc biệt vì ngài đã dùng các lời vàng ngọc của Thánh Hiền để dẫn chứng cho các lý lẽ trong tác phẩm. Sau đây, sẽ bàn về:1/ Tầm ảnh hưởng rộng lớn của tác phẩm; 2/Cần bổ khuyết và tiếp tục công trình của cha Ricci như thế nào?

1/ ẢNH HƯỞNG RỘNG LỚN CỦA TÁC PHẨM

Tinh thần và mục đích của sách "Thiên Chủ Thực Nghĩa" là để "Hội Nhập" Phúc Âm, hay Thiên Chúa Giáo vào văn học và ngôn ngữ Trung Hoa. Đó là phương pháp truyền đạo của một học giả Tây Phương, Cha Matteo Ricci, đã dùng chính cách suy luận và tư tưởng của Trung Hoa để trình bày, và giới thiệu Thiên Chúa Giáo với giới Nho gia. Ngày nay, phương pháp này đã được Công Đồng VativanII (1962-1965) khai triển để đem Phúc Âm hội nhập vào các nền văn hóa các dân tộc. Do đó, tầm ảnh hưởng của sách "Thiên Chủ Thực Nghĩa" thật lớn lao từ thời đại cha Ricci cho đến ngày nay

Thật vậy, nhờ dùng Lý Trí Tự Nhiên và Triết lý để suy luận, các Nho gia đã có thể tìm hiểu được một phần nào hệ thống triết lý- thần học của Thiên Chúa Giáo, và họ đã nhận ra những điểm tương đồng, những "giao điểm" giữa hai luồng tư tưởng, khiến họ nỗ lực nghiên cứu, so sánh Thiên Chúa Giáo với những giá trị cổ truyền.  Nỗ lực "Đối Thoại" giữa các tôn giáo cũng đã lan tràn sang các cánh đồng truyền giáo ở Nhật Bản, Đại Hàn, và đặc biệt ở Việt Nam với cha Đắc Lộ. Khai thác và khai triển kho tàng đạo đức của nền văn minh kỳ cựu bậc nhất của nhân loại, Đạo TU THÂN _ như cha Ricci đã nhận xét_ sẽ giúp con người"Nhân chi sơ tính bản thiện", tìm gặp được Thiên Chúa chân thật. Việc dùng các lời dẫn chứng rút ra từ Tứ Thư, Ngũ Kinh, một cách chính xác và thích hợp, đã gây được sự cảm phục và thích thú cho độc giả. Đặc biệt, dùng chính ngôn ngữ Trung Hoa như danh xưng "THIÊN CHỦ", Thượng Đế...và các danh từ triết lý thần học , luân lý...để chuyển ý, phiên dịch, và mặc cho chúng một nội dung, một ý nghĩa mới,  hoàn hảo hơn: đó là thành quả và công trình lớn lao nhất của cha Ricci đã thực hiện và đi tiên phong. Các vị thừa sai Dòng Tên đến giảng đạo sau cha Ricci, vào cuối thời nhà Minh như cha Giulio Aleni, và cha Francois Noel, cha Alexandre de la Charme trong thời nhà Thanh..cũng đã theo đường lối và phương pháp của cha Ricci

Lịch sử  kể lại, một số đông các nho sĩ và các vị thượng quan trong triều đình như Feng Ying-ching, Hsu Kuang-ch'i.. đã đọc tác phẩm và xin tòng giáo. Vua Khang Hy(1662-1723) nhà Thanh(1644-1911), đã nghiên cứu sách "Thiên Chúa Thực Nghĩa" trong sáu tháng , sau đó, đã ra chiếu chỉ bãi bỏ lệnh cấm giảng đạo, vào tháng ba, năm 1692

Nói tóm lại, nhờ phương pháp "hội nhập văn hóa", người ngoài đạo Công giáo cảm thấy gần gũi, thân thiện, vì có cơ hội thuận tiện, dễ dàng tìm hiểu thêm về giáo lý của Đạo mới;  đồng thời các vị thừa sai và các tín hữu cũng học hỏi được nhiều điều quí hóa trong Khổng Giáo, Nho giáo để củng cố Đức Tin vững mạnh hơn. Lịch sử còn minh chứng, nhờ cuộc tranh luận về những đề tài trong cuốn sách của cha Ricci, đã gây nên một phong trào tìm hiểu tư tưởng và triết lý Á Đông, khởi nguồn cho thời kỳ Khai Minh(Enlightenment) vào thế kỉ 17,18 tại Âu Châu

2/ CẦN BỔ KHUYẾT và TIẾP TỤC CÔNG TRÌNH CỦA CHA RICCI NHƯ THẾ NÀO?

Trước khi  thẩm định giá trị hay phê bình  sách "Thiên Chủ Thực Nghĩa", ta nên đối xử một cách "công bằng" đối với cha Ricci, nghĩa là không phải chỉ phê phán, nhận định theo quan điểm của chúng ta ngày nay, nhưng nên "đặt mình" vào hoàn cảnh xã hội, tôn giáo vào thời kì cha Ricci sinh sống, cách đây hơn 400 năm và tìm hiểu nền giáo dục tu đức của Dòng Tên, và khuynh hướng thần học thời bấy giờ. Lại nữa, dầu có thiện chí nhiệt tình theo đuổi và thực hiện một chính sách thích đáng cho việc truyền giáo là đem Phúc Âm của Chúa Cứu Thế hội nhập vào văn hóa Trung Hoa, nhưng vì khả năng của một cá nhân bị hạn chế, không thể nghiên cứu tường tận, trong một thời gian ngắn , cả một kho tàng văn chương triết lý phong phú của Trung quốc ! Vả lại,  vì khoa thần học về các tôn giáo(theology of religions) chưa được phát triển như ngày nay, thời Công ĐồngVaticanII, nên đa số các thần học gia thời cha Ricci còn giải thích một cách hạn hẹp ý nghĩa câu" Ngoài Hội Thánh(Công Giáo), không có sự cứu độ", tức là chỉ có một Đạo thật là Thiên Chúa Giáo có thể dạy người ta đến với Chúa được mà thôi , còn các đạo khác đều lầm lạc do tội tổ tông di truyền, cho nên không có giá trị gì dẫn đưa đến  Cứu Độ

Về quan điểm thần học, cha Ricci và Dòng Tên, theo cách giải thích của Thánh Âucơtinh(353-430), quả quyết rằng: nhờ lòng nhân từ của Chúa thương ban và muốn cho hết mọi người được cứu độ, nên nhìn nhận có thể có những giá trị luân lý rất cao siêu, những điều thiện hảo trong các tôn giáo ngoài Thiên Chúa Giáo. Vì quan điểm thần học và chính sách "Hội Nhập Văn Hóa"khác biệt giữa Dòng Tên và các Dòng Phanxicô, Đaminh, lại pha trộn thêm những yếu tố không phải tôn giáo như sự tranh giành ảnh hưởng , quyền lợi chính trị, hãnh diện chủng tộc giữa người Bồ, Tây(Tây Ban Nha)..,.tất cả những sự xáo trộn đó đã gây nên cuộc tranh chấp lịch sử, gọi là:" Cuộc tranh chấp về Lễ nghi( Rites Controversies, coi Julia Ching,   sách đã dẫn, trang 19-24)

Sau15 năm học ngôn ngữ và nghiên cứu sách Thánh Hiền, cha Ricci đã bắt đầu soạn bản thảo sách "Thiên Chủ Thực Nghĩa".  Theo một số nho sĩ  đồng thời với cha Ricci và các học giả Trung Hoa thời nay cho rằng cha Ricci đã không có đủ thời giờ để tìm hiểu sự biến chuyển của dòng tư tưởng Khổng Học từ thời Đức Khổng Phu Tử cho đến trào lưu Lý học của Chu Hy và Tâm học của Vương dương Minh. Vì thế, cha Ricci đã chỉ chấp nhận Khổng Giáo thời nguyên thủy và phi bác phái Lý học , Tâm học.. Cha Ricci cũng không chấp nhận Lão giáo và Phật giáo, vì cho rằng: Khổng học luôn chống lại Phật học! Nhưng theo lịch sử triết học Trung Hoa, các nho sĩ, đặc biệt vào thời nhà Tống, nhà Minh,  đã chịu ảnh hưởng sâu đậm của các triết thuyết của Phật học( Thiền Học), và Lão học, tạo nên một hòa đồng tôn giáo-triết lý. Hơn nữa, Phật giáo đã phải nương nhờ vào Nho giáo để tồn tại.

Vì những khuyết điểm như trên, một số học giả ngày nay cho rằng cha Ricci đã không hiểu đúng ý nghĩa của các danh xưng để chỉ Nguyên Lý Siêu Việt như: "Vô" của Lão Giáo, "Không" của Phật Học, "Thái Cực", "Khí", "Lý" của Chu Hi(1130-1200). Những danh từ đó, chẳng qua là cách diễn tả Chân Lý Siêu Việt bằng "phương thức phủ định"(via negativa): "Vô" hay"Không", không có nghĩa là "Không có gì hết"

Để tạm kết: đây cũng là một thách đố lớn lao đối với công cuộc "Hội Nhập Phúc Âm" vào các dân tộc Á châu. Đường hướng mục vụ , nguyên tắc chỉ đạo đã được cha Ricci đặt ra, và được Hội Thánh khuyến khích áp dụng như lời Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tuyên dương công trạng của cha Matteo Ricci, nhân dịp 400 năm ngày sinh nhật của cha: "Xưa kia các Giáo Phụ của Hội Thánh đã hòa hợp Thiên Chúa Giáo với văn hóa Hy lạp, thì cha Matteo Ricci cũng đã xác tín một cách đúng đắn là niềm Tin vào Chúa Cứu Thế sẽ không làm thương tổn cho nền văn hóa Trung Hoa, trái lại, còn làm phong phú và kiện toàn hơn nữa"(diễn văn ngày 25 tháng Mười năm 1982)

ĐOẠN V.   “ÔNG TRỜI “ VIỆT NAM

    Theo truyền thống cố hữu của dân tộc Việt nam thì niềm Tin vào Một Đấng "Bề Trên" đã được biểu lộ trong lễ nghi tế tự, ca dao, tục ngữ, truyện cổ tích, văn thơ..đặc biệt trong lời kêu cứu cầu xin chân thành đặt hết ước vọng của cuộc đời vào sự quan phòng của Một "Ông Trời", tuy cao sang vô cùng, nhưng cũng rất gần gũi, thân thiết, luôn lắng nghe loài người cầu khẩn, than van:

       “Lạy Trời mưa xuống” ...

       “Ông Trời có mắt!”

       “Trời ơi!”

    Đấng Cao Cả đó không phải là một nguyên lý hay một ý tưởng mông lung mơ hồ, huyền hoặc, trừu tượng, nhưng “giống như” (tương tự) như một con người có thể cảm thông những nỗi vui mầng, sầu khổ của đời sống. Đấng ấy không phải là vòm trời xanh, không phải là biển khơi, sông núi hùng vĩ..không phải là một vị thần thánh tầm thường, nhưng Siêu phàm, vượt trên muôn sự muôn loài và đáng tôn kính bằng danh xưng “ÔNG TRỜI”. Danh từ “ÔNG” biểu thị một ngôi vị, hữu ngã, một bản vị biệt lập, siêu việt hơn trời xanh, và làm CHỦ (CHÚA) của vũ trụ càn khôn

    Từ khi còn sinh sống như một bộ lạc cho đến lúc thành lập được một qui chế quốc gia, trải qua bao thăng trầm của lịch sử khai quốc, dựng nước, người dân Việt luôn biểu lộ lòng khao khát TÂM LINH, hướng về Đấng Tối Cao mà họ gọi là “ÔNG TRỜI”. Do đó, cho đến ngày nay, mọi người Việt Nam, dầu sinh sống ở bất cứ nơi nào trên trái đất này, dầu theo bất cứ tôn giáo nào, hay chịu ảnh hưởng của học thuyết ngoại lai nào, cũng đều công nhận một chân lý, một sự thực hiển nhiên này là: Đạo Thờ Trời, và Đạo Hiếu là niềm Tin cố hữu của mọi người Việt Nam. Một câu hỏi thường đặt ra, đặc biệt đối với người ngoại quốc muốn tìm hiểu  tình hình tôn giáo ở Việt Nam: “Người Việt nam theo Đạo nào”? Có thể trả lời mà không sợ sai lầm rằng: Hầu hết dân chúng Việt Nam đều tin có Ông Trời, và thờ kính Tổ Tiên.” Nguyên tắc và tỉ lệ này vẫn đúng, ngay khi áp dụng vào tình hình  "Phật giáo ở Việt nam".  Theo truyền thống của Phật học từ Ấn Độ truyền bá qua Việt nam, trực tiếp hay qua ngả Trung Hoa, rất khó mà quả quyết được Đức Phật  có dạy các tín đồ phải tin vào Vị Chủ Tể vũ trụ hay không? Như lịch sử, kinh sách cho biết, về vấn đề này, Ngài thường giữ thái độ im lặng, không trả lời. Nhưng khi Phật giáo được truyền vào nước ta thì dân chúng Việt nam đã có sẵn câu trả lời rõ ràng về vấn đề có hay không có “ÔNG TRỜI”. Tuy mến chuộng Đạo Từ Bi của Phật Tổ, nhưng là người Việt nam, họ không thể chối bỏ niềm Tin cố hữu vào Ông Trời được, cũng như không thể không cúng giỗ Tổ Tiên, Ông Bà khi đã qua đời, vì tin rằng: “chết là thể phách, còn là tinh anh”; dầu chết về phần xác, nhưng hồn thiêng của Ông Bà vẫn còn ở với con cháu, “sự tử như sự sinh”. Họ không thể hoàn toàn chấp nhận lý thuyết Luân Hồi (samsara) Nhân-Quả (karma) theo triết lý Ấn Độ, vì Luật Nhân-Quả là một Luật “lạnh lùng, vô hồn”, nhưng dân Việt luôn tin tưởng vào một Ông Trời đầy lòng thương xót. Họ cũng không thể tin rằng: sau khi chết, hồn thiêng của Ông Bà lại phải “luân hồi”đầu thai làm nhiều kiếp khác nhau, có khi “làm thân trâu ngựa”. Ông Bà đã ra người thiên cổ thì cũng vẫn tồn hữu để phù hộ con cháu. Theo luật Nhân-Quả, công việc của mỗi cá nhân làm, sẽ tạo cho chính mình một cái nghiệp (karma), và chỉ có chính mình mới có thể đổi cái nghiệp của mình mà thôi, không thể nhờ ai giúp được, kể cả việc cầu xin Đức Phật cứu vớt cũng là vô ích. Nhưng dân chúng Việt nam đã sửa đổi lại quan niệm Nhân-Quả, bằng Đạo Hiếu, tức là tình liên đới bền vững giữa ông bà cha mẹ và con cháu, ở đời này, cũng như ở bên kia thế giới. Do đó, mới có câu: “Phúc Đức tại mẫu”, hay câu:” Đời cha ăn mặn, đời con khát nước! hay "Quít làm cam chịu"! Bởi thế, dầu có vẻ trái ngược với giáo thuyết của Phật giáo, trong thực tế đại đa số Phật tử Việt nam vẫn Thờ Trời, vẫn theo Đạo Ông Bà. Số người Việt nam hoàn toàn chỉ theo triết lý của Phật học mà thôi, không tin có "Trời", "không tin hồn thiêng bất tử", thì chỉ là thiểu số. Số người thường xuyên đi lễ Chùa,  thực hành Quy Y Tam Bảo, Ngũ giới, Bát Quan Trai Giới,  không phải đa số. Nhưng trong gia đình, đại đa số tín đồ vẫn  giữ Đạo Hiếu như cúng giỗ Ông Bà.   Cần phân tách tường tận như trên để tránh ngộ nhận, hiểu lầm. Vì nếu cho rằng: "người phật tử Việt nam" là”vô thần”, thì không đúng sự thật, vì họ cũng tin có "Ông Trời" như mọi người khác. Nhưng nếu cho rằng: “Đa số người Việt Nam theo Đạo Phật", thì cũng nên nói cho rõ hơn: đó là “Phật giáo du nhập từ Ấn Độ",  hay là Phật giáo đã được hội nhập với tín ngưỡng Đạo Thờ Trời, và đạo Hiếu ở Việt nam? Như đã phân tích ở trên, trên phương diện thực hành của “Phật giáo Việt Nam”thì “yếu tố” niềm tin vào Ông Trời và Đạo Hiếu đã rất mạnh và trổi vượt hơn lý thuyết về luân hồi, nghiệp báo của Phật học từ Ấn độ đem vào văn hóa Việt nam. Nói cách khác, Phật giáo Việt nam cũng tin ở "Ông Trời" và thờ cúng Ông Bà theo truyền thống dân Việt như  tín đồ của Phật Giáo Hòa Hảo, Cao Đài Giáo. Bàn thờ "Thông Thiên", hay "Thiên Nhãn", biểu tượng của Niềm Tin vào "Đấng Linh Thiêng". Theo Lão Giáo và theo Khổng giáo như các vị nho sĩ, giới cầm quyền, quan lại, vua chúa.., cũng tin tin tưởng ở Vị Thiên, ở Thiên Mệnh, ở Thượng Đế. Người theo Thiên Chúa Giáo hoàn toàn tin vào “Đức Chúa Trời” là Đấng Tạo Hóa. Do đó, đã rõ ràng, hầu hết dân chúng Việt Nam đều đặt niềm Tin vào Ông Trời: đó mới thật là Đạo chung cho cả dân tộc Việt nam. Chính niềm Tin chung này là mối giây liên kết của mọi phần tử trong cộng đồng dân tộc. Cần phải nhận định một cách sáng suốt như trên, với một mục đích duy nhất  cốt để các tôn giáo hiểu biết và tôn trọng giá trị của nhau, tạo nên sự yêu thương, tương thân tương ái, và đem lại an vui cho dân tộc. Nếu ai cũng hiểu biết sự thật về hiện trạng tôn giáo ở Việt Nam là: hầu hết đồng bào Việt nam, dầu theo tôn giáo nào, Phật giáo, Khổng giáo, Lão giáo, hay Thiên Chúa giáo, đều thờ Trời và giữ đạo Hiếu, vì đó là niềm tín ngưỡng căn bản và quan trọng nhất, thì không còn có vấn đề “quốc giáo” hay đặt ưu thế của một tôn giáo nào trên các tôn giáo khác, vì quyền lợi riêng, hoặc vì mưu đồ chính trị. Dân tộc Việt Nam lúc nào cũng cần sự đoàn kết của mọi giới đồng bào đồng hương cùng chia sẻ một niềm tin chung, "khoan dung, độ lượng"(tolerance) để tạo nên sức mạnh tinh thần hòa hợp xây dựng đất nước. Lịch sử thế giới, và Việt Nam cho thấy: các cuộc “thánh chiến” bao giờ cũng gây nên những cuộc tàn sát thảm khốc, ngay cả đối với những người ruột thịt cùng chung huyết thống, cùng một chủng tộc.

     Sau đây, ta có thể minh chứng “Đạo chung của dân tộc Việt nam” bằng những đề mục như:

1.  Ông Trời trong văn chương bình dân, tức Ca Dao, Tục Ngữ(197)

2.  Ông Trời trong văn chương bác học, trong thi phú

3.  Lễ Tế Nam Giao

4.  Các nhà truyền giáo nhận xét về niềm Tin chung của dân tộc Việt nam: đặc biệt Linh mục Đắc Lộ

    1.  ÔNG TRỜI TRONG CA DAO TỤC NGỮ

    Theo các nhà nghiên cứu về tôn giáo, thì niềm Tin vào một Đấng Tạo Hóa là một niềm tin tự nhiên của con người có trí khôn, biết suy luận. Đứng trước vũ trụ bao la, bát ngát, đầy những huyền bí, mầu nhiệm, con người tự cảm thấy mình vô cùng bé nhỏ, hèn hạ, Hư Vô! Bởi vì mỗi người chúng ta có làm gì được đâu ? Đầu, mình, tứ chi, lục phủ ngũ tạng không phải chính chúng ta hay cha mẹ chúng ta tạo ra mà có! Nhìn lên trời xanh: các vì sao, các hành tinh...mà khoa thiên văn ngày nay khám phá ra những sự lạ lùng, ngoài trí tưởng tượng. Chung quanh ta: nào sông núi, biển khơi, nào cầm thú, thảo mộc...Tất cả đều ở ngoài ta, và ta không có một quyền lực gì trên chúng cả. Ta còn hay mất thì chúng vẫn tồn tại như thường. Một giây phút nào đó, ta muốn cho trái tim ta tiếp tục đập, nhưng nếu nó ngừng lại, thì ta cũng phải chịu vậy! Ngoài ra, trên trần gian này, con người phải chịu biết bao  đau khổ, tai uơng bất trắc. Có những đau khổ do tâm lý, do dục vọng lăng loàn của con người gây nghiệp báo cho mình, nhưng cũng có nhiều thiên tai như động đất, bão lụt, hạn hán..mà con người không gây ra nhưng cũng phải hứng chịu, vì nó nằm ở ngoài quyền năng của ta. Đứng trước những huyền bí của vũ trụ bao la đó, con người biết suy nghĩ đã đưa Tâm Linh hướng về một Đấng Tạo Hóa có quyền năng giải đáp mọi thắc mắc ưu tư của đời sống. Nguyên Lý Siêu Việt đó, là cội nguồn của vũ trụ và của con người, và đã được dân chúng Việt Nam tuyên xưng là: "ÔNG TRỜI"!

    a/ DANH XƯNG

    Ngoài danh xưng phổ thông”Ông Trời”, dân chúng Việt Nam còn quen dùng nhiều danh xưng khác như: Tạo Hóa, hay Con Tạo để chỉ Ông Trời tạo dựng vũ tru; Hóa Công, Thợ Trời để sánh ví Ông Trời như một tay thợ tài giỏi vô cùng, một kỹ sư sáng tạo nên trời đất; và danh từ Hóa Nhi hay Trẻ Tạo. Ngoài ra, dân chúng cũng quen thuộc với các danh xưng như: Ngọc Hoàng, Hoàng Thiên, Thượng Đế, Thiên Chúa, Chúa Trời...

    b/ NHỮNG PHẨM TÍNH CỦA ÔNG TRỜI

    _ Qua cách xưng hô “Ông Trời”, ta nhận thấy: người bình dân nhìn lên vòm "trời" bao la, tô điểm bằng những vì sao, mặt trời, mặt trăng..do đó, "trời" là biểu tượng, hình ảnh của cái gì cao sang, tốt đẹp hơn hết mọi vật mọi loài trên mặt đất này. Đó chỉ là trời xanh, hay không trung xa tít mù mịt mà thôi! Vì là loài có trí khôn, tự nhiên con người đặt ra những câu hỏi như : Ai làm nên trời xanh lạ lùng như thế? Chắc hẳn, phải có một Vị làm Chủ đã tạo dựng nên nó. Do đó, con người hướng Tâm Linh lên một Quyền Lực Thiêng Liêng, làm Chủ Tể muôn loài. Vì thế, người bình dân đã xưng "Đấng ấy" là“ÔNG” nghĩa là một Đấng Hữu Ngã, Hữu Vị, Thượng Trí, Uy Quyền, đầy Tình Thương Xót, có thể lắng nghe những lời cầu kinh, và có thể ban ân giáng phước cho nhân loại:

        Lạy TRỜI mưa xuống

        Lấy nước tôi uống

        Lấy ruộng tôi cày

        Lấy bát cơm đầy

        Lấy khúc cá to

        -Lạy Trời! mưa thuận gió đều

         Cho đồng lúa tốt, cho chiều lòng em!

    _”Ông Trời” thật là Đấng Tạo hóa, là Vị Hóa Công tài tình tạo dựng muôn vật muôn loài. Ngài là Đấng Quan Phòng, điều khiển, bảo vệ và dưỡng nuôi cho nhân loại được tồn tại và vũ trụ vận chuyển điều hòa. Sự sống sự chết đều ở trong quyền phép của Trời; hôn nhân cũng do kế hoặch của Trời để cho nhân loại được tồn tại như câu:”có âm dương, có vợ chồng”; ngày /đêm, sáng /tối, loài cầm thú, thảo mộc có giống đực, giống cái, loài người có nam có nữ ...tất cả đều do Ông Trời dựng nên:

       - Trời sinh, Trời dưỡng.

        -Trời sinh voi, Trời sinh cỏ.

        -Cha mẹ sinh con, Trời sinh tính.

        -Sinh hữu kỳ, tử vô hạn.

        -Bĩ cực, thái lai.

        -Trời sinh con mắt là gương,

          Người ghét ít ngó, người thương ngó hoài.

        -Trông trăng mà thẹn với Trời,

          Soi gương mà thẹn với người trong gương.

        -Trên rừng có cây bông kiểng,

          Dưới biển có cá hóa long,

          Con cá lòng tong ẩn bóng ăn rong,

          Anh đi Lục tỉnh giáp vòng,

          Tới đây Trời khiến cho lòng thương em!

        -Chữ nhân-duyên, thiên tải nhất thì,

         Giàu ăn, khó nhịn, chứ có lo gì mà lo!

     _ “Ông Trời” rất công bằng, công minh chẳng thiên vị ai, thưởng kẻ lành phạt kẻ gian ác. Nhưng ý định và phán quyết của Trời rất cao siêu, loài người nhiều khi không hiểu thấu được. Người đời thường phán xét theo bề ngoài, nhưng Ông Trời “dò xét tâm can”. Vì thế, kẻ thiển cận, nông cạn, hay thiếu nghị lực, thiếu kiên nhẫn, đâm ra kêu trách, than vãn.

        - Trời có mắt.

        - Không có Trời ai ở với ai!

        - Trời quả báo, ăn cháo gẫy răng,

          Ăn cơm gẫy đũa, xỉa răng gẫy hàm.

        - Trời làm một trận lăng nhăng,

       ông hóa ra thằng, thằng hóa ra ông.

        - Phí của Trời, mười đời chẳng có.

        - Biết sự Trời, mười đời chẳng khó.

        - Chê của nào, Trời trao của ấy.

        - Trời sao Trời ở chẳng cân,

           Kẻ ăn không hết, người lần chẳng ra!

        - Trời nào có phụ ai đâu?

           Hay làm thì giầu, có chí thì nên.

     _”Ông Trời”là Đấng thương xót vô cùng, vì Yêu Thương là bản tính của Ngài, nên Ngài đã dựng nên vũ trụ cho nhân loại hưởng dùng; Ngài hay tha thứ các lỗi lầm của con người yếu đuối. Đặc biệt, Ngài phù giúp những người thiện tâm, thiện chí và can đảm chiến đấu với những nghịch cảnh để xây dựng sự nghiệp, giúp nha, giúp nước:

        -Trời đánh còn tránh miếng ăn.

        -Làm trai quyết chí tu thân,

         Công danh chớ vội, nợ nần chớ lo!

         Khi nên, Trời giúp công cho,

         Làm trai năm liệu, bảy lo mới hào.

         Trời sinh, Trời chẳng phụ nào,

         Phong vân gặp hội, anh hào ra tay.

         Trí khôn rắp để dạ này,

         Có công mài sắt, có ngày nên kim..

    2.      “ÔNG TRỜI” TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH

    Niềm Tin Tự Nhiên vào Một Đấng Hóa Công, hay “Ông Trời” còn được ẩn tàng dưới hình thức câu truyện cổ tích, hay ngụ ngôn. Những câu truyện có vẻ ly kỳ, hoang đường.., nhưng thật ra chứa đựng những tư tưởng về lòng ái quốc, về nguồn gốc, triết lý nhân sinh, và tin ngưỡng của dân gian. Có những truyện cổ tích được truyền khẩu, từ xa xưa tới ngày nay, cốt để dạy một bài học về luân lý đạo đức, "ác giả ác báo" như truyện Tấm cám, hoặc về hôn nhân, tình nghĩa vợ chồng như truyện Trầu cau, v.v. Sau đây là truyện DƯA HẤU, xuất hiện từ đời Hùng Vương, đã nói lên lòng tín ngưỡng của dân tộc đối với Đấng Tạo Thành ra mỗi người, và luôn hộ phù nuôi dưỡng chúng ta, đúng như câu tục ngữ: “Trời sinh, Trời dưỡng”

    Vào đời vua Hùng Vương thứ 18, một cậu con trai 7 tuổi tên là Mai Yển, khôi ngô dĩnh ngộ, được nhà vua nhận làm con nuôi, và đổi tên là An Tiêm. Vì An Tiêm là một tài trai, có ý chí, cần cù làm việc, nên vua còn ban cho một tỳ thiếp để làm vợ, và sinh được một bé trai. Hai vợ chồng gây nên sự nghiệp lớn, được mọi người kính nể. Nhưng An Tiêm thường nói cho bạn bè biết:” Sự thành công của anh là nhờ Trời ban và công lao khó nhọc, tần tiện của vợ chồng anh, chứ anh chẳng cậy nhờ ai, không nhờ vả ơn vua ban lợi lộc”. Có kẻ nịnh thần tâu cho vua Hùng biết An Tiêm đã nói như thế, nên nhà vua nổi giận, bắt vợ chồng và đứa con trai đầy ra đảo Nga Sơn (Thanh Hóa), chỉ tiếp tế lương thực trong 4 tháng, rồi để mặc kệ cho chết đói!

    Nhưng dầu ở ngoài đảo hiu quạnh, An Tiêm vẫn an ủi vợ con, hãy can đảm lên và tin tưởng vào “Ông Trời”: “Trời sinh, Trời dưỡng”, “Trời sinh voi, Trời sinh cỏ”. Sống chết do Trời và cũng tại ta.

    Một hôm đi dạo trên đảo, An Tiêm thấy con bạch hạc nhả hột xuống đất, và một loại cây giây leo mọc lên, tàu lá xanh tươi, xum xuê lạ thường, lại có trái thơm ngon, lắm nước ngọt ngào và rất sai trái. An Tiêm bảo vợ con:” Không trồng mà được ăn, đó là Trời cho ta đấy”.

    Ít lâu sau, các thương gia người Tàu ghé qua đảo để đổi chác hàng hóa, thấy trái “tây qua” thơm ngon, rất nhiều nước ngọt để giải khát, nên vừa ăn vừa tấm tắc khen ngon: “hẩu lớ!, hẩu lớ! (hảo = tốt lắm! tốt lắm!), nên về sau người ta gọi là trái DƯA "HẤU”. Tiếng đồn khắp nơi về trái dưa hấu thơm ngon ngọt đó, nên nhiều thương gia ghé lại mua, Vì thế, chẳng bao lâu, vợ chồng An Tiêm trở nên giầu có. Một hôm, nhà vua sai người đến đảo xem, vợ chồng và đứa con còn sống hay đã chết đói rồi, thì được bá cáo là An Tiêm làm ăn rất giầu có. Vua Hùng vương mới hiểu ra Ý Trời đã giúp An Tiêm, nên triệu về triều đình trả lại chức tước cho anh. Vua lại truyền cho trồng dưa hấu khắp nơi, và đổi hòn An Tiêm thành “An Tiêm Sa Châu”. Ngày nay, “Trời” cho ta thưởng thức trái dưa hấu thơm ngọt vào dịp Tết Đoan ngọ (tháng năm, ở miền Bắc) và vào dịp Tết Nguyên Đán ở miền Nam (đặc biệt dưa hấu cầu Đúc, bán tại bến Ninh Kiều, Cần Thơ' và dưa hấu ruột vàng, ở Chắc cà Nả, Sóc Trang) (198).

    Qua câu truyện Quả Dưa Hấu, đã rõ ràng người xưa muốn dạy con cháu đời đời phải đội ơn Trời đã sinh ra và dưỡng nuôi ta. “Có Trời mà cũng có ta”. Mọi sự bởi Trời mà có: Trời ban cho ta hột giống, và mưa nắng..nhưng Trời cũng buộc ta phải làm việc như cầy cấy thì mới có của mà ăn: "tay làm, hàm nhai"

    3/ “ÔNG TRỜI” TRONG VĂN CHƯƠNG BÁC HỌC

     Chữ “Văn chương Bác học” chỉ những bài thi phú, truyện..do giới sĩ phu sáng tác. Dĩ nhiên, các văn thi sĩ trí thức này cũng đã thấm nhuần truyền thống tín ngưỡng dân tộc, lại thêm kiến thức uyên bác về Khổng học, Lão học và Phật học, tức “Tam Giáo”, cũng gọi là “Tam Giáo đồng lưu”, hay “Tam Giáo đồng nguyên”. Về phương diện tín ngưỡng, qua các tác phẩm sáng tác, ngâm vịnh, ta có thể quả quyết: niềm Tin cổ truyền vào “Ông Trời” rất sâu xa và mãnh liệt, vì các sĩ phu đã hấp thụ được các quan niệm triết lý về Thiên Mệnh của Khổng giáo. Cũng như giới bình dân Việt nam, các văn thi sĩ không cho rằng vũ trụ nhân sinh được điều khiển bằng”Luật Nhân-Quả, Luân hồi”, nhưng do một Vị Chủ Tể càn khôn mà họ gọi là THIÊN, THIÊN MỆNH, THƯỢNG ĐẾ, hay NG ỌC HOÀNG...Ngoài ra, các vị hiền triết Việt nam cũng chủ trì Đạo Hiếu, vì là truyền thống của nòi giống Lạc Hồng, và cũng thích hợp với Tam Cương, Ngũ Thường.

       Thương khóc non sông với quốc dân,

       Tài hèn không vớt được trầm luân.

       Lòng này chưa hả thân đã chết,

        Thẹn xuống Hoàng Tuyền gặp cố nhân

 (Bài thơ tuyệt mệnh của Sào Nam Phan Bội Châu (1867-1940)

    Sau đây, sẽ trình bày một ít thơ văn tiêu biểu cho niềm Tin cổ truyền vào “Ông Trời”, cũng là Vị Hóa Công tạo thành vũ trụ.

    a/ Lý thường Kiệt (1036-1105)

        Nam quốc sơn hà Nam đế cư,

        Tiệt nhiên định phận tại Thiên thư.

        Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?

        Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

    Dịch nghĩa: Núi sông nước Nam thì vua nước Nam ở. Rõ ràng phận đã định ở trong cuốn sổ của Trời. Làm sao bọn giặc lại lấn cướp (đất của ta)? Chúng mày rồi xem sẽ bị thua bại hết.

    Bài thơ bất hủ này được danh tướng triều Lý (1009-1225) là Lý Thường Kiệt làm, để nêu lên chính nghĩa của dân tộc chống lại ngoại xâm quân nhà Tống (1075-1078). Nên lưu ý: Phật giáo rất thịnh hành trong triều đại nhà Lý. Vậy mà, qua bài thơ trên, ta biết được tướng công Lý Thường Kiệt chịu ảnh hưởng sâu đậm triết lý Thiên Mệnh của Khổng giáo, tức là niềm Tin cố hữu của dân tộc vào “Ông Trời”. Chính niềm Tin vào Ông Trời đã định đoạt số mệnh cho dân tộc Việt nam, đó mới là sức mạnh quật khởi để chiến thắng ngoại xâm là những kẻ “nghịch “lại Ý Trời”: “Thuận Thiên giả tồn, nghịch Thiên giả vong”

    b/ Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585)

       Trời sinh, Trời ắt đã dành phần

       Tu hãy cho bền, dạ có nhân.

       Khó chớ oán thân, thân mới nhẹ,

       Giàu mà yêu chúng, chúng càng gần.

       Bạo hung chỉn đã gươm mài đá,

       Phúc Đức rành hay cỏ đượm xuân

       Chớ có hại nhân mà ích kỉ,

        Giấu người, khôn dấu được Linh-Thần

 (Có Phúc có Phần: Thi ca cổ điển, tập I, Bảo Vân, trang 34)

    Bài thi trên rút ra từ quyển Bạch vân thi tập, ta nhận thấy Trạng Trình là bậc hiền nhân quân tử. Ông thấu suốt lẽ huyền bí của vũ trụ và nhân sinh. Ông tin rằng “Trời” là một Đấng Tạo Hóa, là một Vị Linh-Thần cầm quyền sinh tử, và dạy con người phải Tu thân tích đức, phải giữ đạo Nhân, giàu lòng thương xót, không nên thù oán làm hại ai. Ông Trời là quan án, thấu suốt tâm can, thông biết mọi sự bí ẩn, sẽ xét xử công minh và ban phần Phúc Đức, miễn là con người phải phấn đấu, bền tâm thiện chí, không than thân trách phận khi gặp nguy khó. Đây là một áng thơ đượm tính chất triết lý tôn giáo về nhân sinh, về đạo lý làm người, về mối liên hệ giữa Trời và phận sự con người sống trên đời này, và phần phúc về đời sau.

    c/ Nguyễn Khuyến (1835-1909)

             “ÔNG TRỜI”

        Cao cao muôn trượng ấy là Tao

        Dẫu pháo thăng thiên chẳng tới nào.

        Nhắn bảo dưới trần cho chúng biết:

        Tháng ba, tháng tám, Tớ mưa rào.

    Nguyễn Khuyến cũng gọi là”Cụ Tam Nguyên Yên Đổ", tinh thông Hán văn, vì đã ba lần đậu giải nguyên, nhưng đặc biệt cũng rất lỗi lạc và sở trường về văn nôm. Ông sáng tác đủ mọi thể văn: ca, từ, thi, phú..Lời văn nhẹ nhàng, đơn giản, trôi chảy, nhưng ý tứ rất dồi dào, kín đáo, đượm tính chất khôi hài giễu cợt mà thâm thuý, rất gần với lối văn của ca dao tục ngữ. Đó cũng là phản ảnh tính tình đơn sơ chất phác, nhưng vui vẻ, hay nói “đùa giỡn” của người dân Việt. Ông hay làm thơ tự vịnh, tự trào (tự cười mình), hoặc chế nhạo bạn hữu một cách thân tình, hay châm biếm thói đời một cách nhẹ nhàng, độ lượng, khoan dung. Qua bài Vịnh “Ông Trời” ở trên, ta thấy lời văn có vẻ bình dân, vui cười, thân mật, nhưng ý tưởng thật sâu xa, nghiêm chỉnh: Ông Trời là Đấng cao siêu vô cùng, tuy không một ai có thể thấy, hay hiểu thấu được, nhưng "Đấng ấy" vẫn điều khiển mọi hiện tượng trong vũ trụ này!

    d/ Nguyễn Công Trứ (1778-1858)

             Chí Nam Nhi.

       Thông minh nhất nam tử,

       Yếu vi thiên hạ kỳ.

       Chót sinh ra thì phải chi chi,

       Chẳng lẽ tiêu lưng ba vạn sáu.

       Đố ky sá chi Con Tạo,

       Nợ tang bồng quyết trả cho xong.

       Đã xông pha bút trận thì gắng gỏi kiếm cung,

       Làm cho rõ tu mi nam tử.

       Trong vũ trụ đã đành phận sự,

       Phải có danh mà đối với núi sông.

       Đi không, chẳng lẽ về không.

    Đây là bài hát nói, tiêu biểu nhất cho quan niệm sống của Nguyễn Công Trứ và của các vị nho sĩ Việt nam. Lấy ngay cuộc đời của ông ra làm bằng chứng, ta thấy ông là một người tài trai có chí hướng rất cao, theo truyền thống giáo dục của nho gia. Ông đã tự đặt cho mình một “gánh nợ”, một bổn phận phải chu toàn trong đời sống, vì đó là một ân huệ, như “lưng vốn” mà Trời đã ban cho, không được ăn chơi, tiêu xài, phung phí, vô ích, làm uổng công Trời đã tạo dựng nên. Đó là món nợ phải trả cho chính mình, cho gia đình và cho tổ quốc. Dầu gặp nhiều nghịch cảnh, nhiều chông gai khó khăn, cũng phải ra công chiến đấu, không lùi bước. Trong cuộc đời Nguyễn Công Trứ, ông đã trải qua bao nỗi gian nan: nghèo đói, lận đận về khoa cử; khi  xuất thân ra làm quan, từ chức đại thần, thượng thư giáng xuống làm lính thú...nhưng lúc nào ông cũng kiên trì theo đuổi lý tưởng, không giận thân, không trách Trời. Chỉ khi nào đã làm tròn phận sự mà Trời đã trao phú, lúc đó, ông mới được thảnh thơi, ngao du sơn thủy, vui hưởng cảnh an nhàn!

    Cũng như các vị nho sĩ Việt nam, Nguyễn Công Trứ tin vào Thiên Mệnh tạo dựng và điều hành vũ trụ vạn vật. Ông ít dùng danh xưng như Thiên, Đế, Thượng Đế, Hoàng Thiên, nhưng thường dùng các danh từ lấy trong ca dao tục ngữ như: Tạo Hóa, Con Tạo, Hóa Công, Thợ Trời, Ông Trời, Ông Xanh. Khi thấy cảnh đời biến đổi khôn lường, hoặc những nghịch cảnh trớ trêu, khó giải nghĩa như: đôi khi kẻ gian ác được khoẻ mạnh, giầu có, còn người hiền đức lại bệnt tật, nghèo túng...Dầu vậy, các văn thi sĩ không mượn thuyết Nhân-Quả để biện minh, chẳng hạn như: “kiếp trước” đã làm điều gian ác, nên mới “báo ứng”, phải chịu lận đận đau khổ, mặc dầu ở kiếp này vẫn ăn ngay ở lành! Nhưng qua văn thơ, ta thấy họ giữ một thái độ quân tử, điềm tĩnh, ung dung, an phận, “chờ thời thế đổi thay”, “con Tạo xoay vần”theo lẽ “Tuần Hoàn” như câu:” không ai giầu ba họ, không ai khó ba đời”; do đó, các vị "quân tử" không giận hờn oán trách ai, nhưng  lại có thái độ tự tín, ung dung thư thái.

    Ta đọc thấy trong văn thơ, đôi khi họ dùng danh từ như: Hóa Nhi, Trẻ Tạo, do thành ngữ chữ nho "Tạo Hóa tiểu nhi” (Theo tích truyện đời nhà Đường, Đỗ Thẩm Ngôn đau nặng, có bạn là Tống Chi Vấn đến thăm. Thẩm Ngôn nói bỡn cợt với bạn rằng: ngao ngán thay trẻ tạo hóa làm ta khổ sở!). “Hóa Nhi đa hí lộng!” (Trẻ Tạo Hóa thích vui chơi lắm!). Sánh ví Tạo Hóa như trẻ nhỏ trẻ thơ, không phải về phương diện ý thức, tài năng, vì Đấng Tạo Hóa thì thông biết mọi sự, còn trẻ thơ thì không biết gì, nhưng họ muốn mượn hình ảnh về thái độ, tánh tình của trẻ thơ hay biến báo, thay đổi nhưng ngây thơ, vui đùa, vô tư, không ác ý, không muốn làm hại ai, để so sánh sự biến hóa bất ngờ, vô thường trong cuộc đời như trò chơi của trẻ con. Cuộc đời biến hóa thiên hình vạn trạng như:"bức tranh vân cẩu, vẽ người tang thương” hay “cuộc đời bể dâu” (tang điền biến vi thương hải, thương hải biến vi tang điền) .

    Mặc dầu không thể hiểu được lẽ huyền bí của vũ trụ, nhưng đứng trước những nghịch cảnh, những mâu thuẫn của cuộc đời, các nhà hiền nhân quân tử, không oán trách số phận, hay nghiệp báo, nhưng vẫn tin tưởng vào Ông Trời chí công, vô tư, và thương xót vô cùng. Do đó, một mặt, họ phú thác mạng sống cho Trời lo liệu, đồng thời họ giữ thái độ tự tại, lạc quan, đùa cợt giống “như trẻ nhỏ”, hoàn toàn tin tưởng vào cha mẹ, để tâm hồn được an vui, khuây khỏa, chờ thời, “Bĩ cực thái lai”. Thái độ “vui đùa”, coi cuộc đời là một “hí trường”, cũng là một nét đặc thù trong văn hóa, và tánh tình vui vẻ của nguời dân Việt .

       - Hóa Nhi thăm thẳm ngàn trùng” (Nhị độ Mai)'

       - Trẻ Tạo Hóa đành hanh quá ngán,

          Chết đuối người trên cạn mà chơi” (Cung oán) 

       - Ngồi buồn mà trách Ông Xanh,

         Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười (N.C. Trứ)

       - Tạo Hóa gây chi cuộc hí trường

          Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương

          Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo

          Nền cũ lâu đài bóng tịch dương (Bà Thanh Quan)

    e/ Nguyễn Du và Truyện Kiều (1765-1820)

Mở đầu (câu thơ 1-6)

        Trăm năm trong cõi người ta,

         chữ “Tài” chữ “Mệnh” khéo là ghét nhau.

        Trải qua một cuộc bể dâu,

        những điều trông thấy mà đau đớn lòng.

        Lạ gì bỉ sắc tư phong?

        Trời Xanh quen thói má hồng đánh ghen.

-------------------------------------------------------------------------

Đoạn kết (câu 3241-3252)

        Ngẫm hay muôn sự tại Trời

        Trời kia đã bắt làm người có thân.

        Bắt phong trần, phải phong trần,

        cho thanh cao, mới được phần thanh cao.

        Có đâu thiên vị người nào,

        chữ “Tài” chữ “Mệnh” dồi dào cả hai.

        Có tài mà cậy chi tài,

        chữ tài liền với chữ tai một vần.

        Đã mang lấy “Nghiệp” vào thân,

        cũng đừng trách lẫn Trời gần, Trời xa.

        Thiện căn ở tại lòng ta,

        chữ “Tâm” kia mới bằng ba chữ tài!

     Lời mở đầu và đoạn kết ở trên đã tóm lược được chủ đề của Truyện Kiều, giúp ta tìm hiểu tâm sự, và triết lý về nhân sinh của nhà đại văn hào Nguyễn Du. Theo cách giải thích thông thường, từ xưa tới nay, thì Nguyễn Du viết Truyện Kiều để gửi gấm tâm sự của mình vào nhân vật chính trong truyện là Thúy Kiều: Nàng đã yêu và thề hứa lấy Kim Trọng, nhưng đã lỗi lời thề khi “bán mình chuộc cha”. Nguyễn Du xuất thân từ cửa Khổng sân Trình, dòng họ lâu đời đã chịu ơn “mưa móc” của nhà Lê, nên lấy sự trung thành với vua Lê làm trọng, vì”trung thần bất sự nhị quân”. Nhưng vì thời cuộc đổi thay mà ông phải miễn cưỡng ra giúp nhà Nguyễn, chẳng khác nào Thúy Kiều đã phụ tình với chàng Kim; do đó, một cách kín đáo, ông đã gửi tâm sự của đời mình vào nhân vật Thúy Kiều.

    Nếu nghiên cứu Truyện Kiều cẩn thận hơn, ta sẽ thấy, ngoài việc gửi gấm tâm sự riêng, Nguyễn Du còn muốn giải nghĩa một chủ đề triết lý rộng lớn hơn nữa, liên quan đến vận mệnh của mỗi cá nhân và đặc biệt của cả dân tộc Việt nam: đó là Triết lý” Tài- Mệnh tương đố”.Đây mới thực sự là chủ đề chính yếu của Truyện Kiều.

    Sở dĩ Truyện Kiều được mọi tầng lớp dân chúng yêu chuộng, từ vua quan đến giới bình dân, vì Nguyễn Du là một thiên tài đã cảm thông và đã “thi vị hóa” được nỗi niềm tâm trạng uẩn khúc, khắc khoải, lo âu về vận mạng của mỗi cá nhân và của cả dân tộc Việt nam. Theo dòng lịch sử, về mặt đối ngoại, dân tộc ta luôn phải đương đầu, chiến đấu triền miên với phương bắc để giành quyền tự chủ, và về phía nam, để mở mang bờ cõi. Không kể những thiên tai, bão lụt, hạn hán thường xẩy ra..., các triều đại vua chúa, sứ quân tranh giành ngôi báu, trong một xã hội phong kiến đầy bất công bạo lực, “cá lớn nuốt cá bé”. Chính bản thân Nguyễn Du cũng là nạn nhân của thời cuộc loạn lạc, tranh quyền, nhiễu nhương đời Nam-Bắc phân tranh, vua Lê, Chúa Trịnh, nhà Tây Sơn khởi nghĩa, rồi nhà Nguyễn thống nhất. Đọc bài "Chiêu hồn thập loại chúng sinh”, của Nguyễn Du, ta biết thêm: là một bậc thiên tài, văn nhân thi sĩ, Nguyễn Du đã cùng cảm thông với những nỗi đau khổ triền miên của mỗi cá nhân và của quê hương xứ sở, và cùng thắc mắc về ý nghĩa của cuộc nhân sinh: tại sao một người dân đất Việt hiền hòa, cần cù, nhẫn nại làm ăn sinh sống, mà lại phải gánh nhiều nỗi”truân chiên”khổ sở như thế? Thiết tưởng đây mới chính là chủ đề trọng yếu của Truyện Kiều mà thi hào Nguyễn Du đã muốn mượn triết thuyết của “Tam giáo đồng lưu” tức Khổng, Lão, Phật, nhất là niềm tin dân gian vào “Ông Trời”, và Đạo Hiếu của dân tộc Việt nam, để biện minh cho thuyết”Tài-Mệnh tương đố”, như sẽ trình bày sau đây

    Một số người cho rằng: Nguyễn Du đã dùng thuyết Luân Hồi (samsara) và luật Nhân-Quả (karma), để cắt nghĩa tại sao Thúy Kiều đã không làm gì nên tội, lại còn hy sinh hạnh phúc cá nhân để làm tròn đạo Hiếu đối với cha, thế mà suốt mười lăm năm chịu biết bao tủi nhục, long đong khổ sở? Và họ mượn thuyết nhân -quả, để giải nghĩa rằng: vì “kiếp trước”Kiều đã làm điều gian ác, nên phải lãnh lấy “ác quả” ở kiếp này. Sau mười lăm năm lưu lạc, vì Kiều đã làm điều phước đức, nên được rút tên ra khỏi sổ “đoạn trường” (khỏi vòng luân hồi), để được đoàn tụ với người tình cũ là Kim Trọng. Giải thích như thế là chưa đầy đủ, vì trong suốt câu truyện, nhà nho Nguyễn Du đã giảng giải, và biện minh cho nhiều triết thuyết khác nữa, nhất là niềm tin tự nhiên của dân chúng Việt Nam vào “Ông Trời” và đạo Hiếu. Vả lại, Nguyễn Du đã không theo đúng “luật nhân-quả” (ngũ giới), khi “cho phép” Thúy Kiều mượn bàn tay uy quyền của Từ Hải để hành hạ, và trả thù những người đã làm hại mình, một điều chẳng những trái với đạo từ bi, hỉ xả, mà còn gây thêm nên nghiệp chướng cho mình nữa!. Ngoài ra, Nguyễn Du cũng đã lồng vào những màn” đồng bóng, gọi hồn” như Đạm tiên báo mộng, nói tiên tri... đó là những dị đoạn mê tín, “biến thể” của Lão giáo, thịnh hành trong giới bình dân

    Bởi vậy, Triết lý trổi vượt nhất làm chủ đề cho toàn truyện, đó là niềm tín ngưỡng chung của dân chúng Việt Nam vào một Vị Hóa Công mà ta gọi là:”ÔNG TRỜI”. Trong tác phẩm, thi hào Nguyễn Du đã kêu đến danh “Ông Trời” hơn 33 lần! (tại Trời, nhờ Trời, thấu tới Trời, đạo Trời, cơ Trời, ...). Triết lý quan trọng thứ hai và cũng là “duyên cớ” đã giải thoát Thúy Kiều khỏi vòng tục lụy, chính là vì nàng đã giữ trọn Đạo Hiếu, nên được Trời cứu vướt khỏi cảnh lưu lạc để đoàn tụ với người yêu và gia đình. Do đó, câu thơ nhiệm mầu như chiếc đũa thần đã biến cuộc đời "đoạn trường” thành hoan lạc, và kết thúc tấn tuồng ảo hóa, đó là: “ Hiếu-Tâm đã động đến Trời”.

    Gần đây, có một số người phê bình Nguyễn Du và Truyện Kiều theo thuyết” số mệnh” tiêu cực, nghĩa là Thúy Kiều đã cam phận, thụ động, không làm gì hết, mặc cho bánh xe cuộc đời lôi cuốn, chẳng hạn như, vì buông theo tình cảm bồng bột, thiếu đắn đo suy xét kĩ càng, Thúy Kiều đã liều mạng, nhẹ dạ nghe lời chàng Sở Khanh dụ dỗ mà chạy trốn khỏi lầu xanh, rồi bị Tú bà bắt lại:

       “Cũng liều nhắm mắt đưa chân,

         Thử xem con Tạo xoay vần đến đâu!

    Nhưng nếu ta theo dõi mọi tình tiết diễn biến trong vai Thúy Kiều, ta sẽ nhận thấy nàng luôn cố gắng làm hết cách để giữ thế chủ động, để định đoạt đời sống của mình, vì nàng tin rằng: một người thành tâm thiện chí muốn xây dựng cuộc đời, dầu gặp cảnh ngộ éo le, thì Trời cũng sẽ trợ giúp cho thoát nạn:” Bĩ cực, thái lai”. Đây cũng là một triết lý mà các nho gia gọi là “luật Tuần Hoàn”, nghĩa là Hóa Công tạo dựng vũ trụ càn khôn, luôn thay đổi, xuân, hạ, thu, đông, ngày đêm, âm-dương điều hòa. Trong đời sống con người thì có lúc thịnh, lúc suy, lúc vui, lúc buồn. Do đó, điều quan hệ không phải là thành công hay thất bại, nhưng là quyết chí, bền tâm làm điều tốt, dầu gặp khó khăn, thì chung cuộc, Trời cũng sẽ phù trợ cho. Ta thấy Nguyễn Du đã dùng chính miệng hai nhà sư Tam Hợp và Giác Duyên để giải thích ý nghĩa biến cố Thúy Kiều được cứu vớt khỏi chết chìm trong sông Tiền Đường, và bắt đầu cuộc sống mới an vui như sau:

       “Sư rằng:”Phúc họa đạo Trời,

         Cỗi nguồn cũng ở lòng người mà ra.

         Có Trời mà cũng có ta,

         Tu là cõi phúc, tình là giây oan.”

    Sau đây ta sẽ tìm hiểu: 1/ thuyết “Tài -Mệnh tương đố” đã ứng nghiệm trong đời sống của thi hào Nguyễn Du và nhân vật Thúy Kiều như thế nào? 2/ Niềm tin ở Ông Trời và Đạo Hiếu đã giải gỡ những khúc mắc của đời người ra sao?

    1/Thuyết Tài-Mệnh tương đố đã ứng nghiệm trong đời sống Nguyễn Du và nhân vật Thúy Kiều

    Nhìn ngắm thiên nhiên và quan sát vũ trụ, thì thấymuôn vật muôn người đều khác biệt, không giống nhau, không bằng nhau: thật là “trăm hoa đua nở, muôn hồng nghìn tía”. Về nhân loại, vì “nhân linh ư vạn vật”, nên Trời ban cho thân hình đẹp đẽ, lại có trí khôn thông minh để học hỏi, suy luận, và tài năng sáng chế các dụng cụ .Hóa Công đã sáng tạo ra con người một cách tài tình: không ai giống ai (ngay cả người sinh đôi, sinh ba, sinh bốn..cũng vẫn thấy sự khác biệt). Do đó, chữ “TÀI”, theo nghĩa rộng, bao gồm hết mọi tài năng mà Trời phú bẩm cho mỗi người khi sinh ra trên mặt đất này như: ý chí tự do, trí tuệ, tình cảm, thân xác, sắc đẹp, sức khoẻ và các năng khiếu tự nhiên về mỹ thuật. Đấy chẳng qua là “vốn liếng” tùy ý Trời ban cho mỗi người, không đồng đều. Nhưng mỗi người phải phát triển tài năng thiên phú của mình, và tùy khả năng, hợp tác với Trời để tô điểm cho bộ mặt trái đất ngày càng xinh đẹp, và sinh nhiều lợi ích cho nhân loại hưởng dùng.

    Chữ “MỆNH”, hiểu theo truyền thống Nho giáo, tức Thiên Mệnh, Thiên Ý, tức là "Ý Trời" đã xếp đặt, điều khiển, an bài, quan phòng mọi sự xẩy ra trong vũ trụ; do đó, "Mệnh"đây chính là số phận, số mệnh hoặc hoàn cảnh, thời thế, cảnh ngộ, tai nạn .., bao gồm cả những hiên tượng thiên nhiên như bão lụt, động đất, hạn hán, hay già nua bệnh tật, chết... Vì những cảnh ngộ đó, có khi thuận lợi nhưng thường là những nghịch cảnh, xẩy đến ngoài khả năng ước đoán, định đoạt, lựa chọn, ngoài ý muốn của ta, nên một số người bi quan, yếm thế, thiếu ý chí, thiếu nghị lực để chiến đấu với những khó khăn ấy, nên đâm ra buồn nản thất vọng, buông xuôi, hoặc than thân trách phận và “trách Trời”, cho rằng: Ông Trời ghen ghét, đầy đọa con người! Họ đã hiểu sai thuyết “Tài-Mệnh tương đố”, cho rằng: con người tài hoa và số mệnh luôn ghen ghét, đố kị, nghịch nhau, tiêu diệt nhau

       “Chữ Tài, chữ Mệnh khéo là ghét nhau”

       “Hồng nhan/ bạc Mệnh”

        Trời Xanh quen thói má hồng đánh ghen”

    Trái lại, người có ý chí tự do mạnh mẽ, thành tâm thiện chí, thì lại coi những nghịch cảnh chẳng qua là những “cơ hội, những “thử thách” mà Ông Trời muốn dùng để tôi luyện ý chí và lòng dũng cảm của các vị anh hùng, của những tấm lòng trung kiên, cao thượng, vì lẽ nếu “trận đánh càng khốc liệt thì chiến thắng càng vinh quang”.Mặt khác, kinh nghiệm cho ta thấy: những bậc thiên tài, tạo nên sự nghiệp lớn lao cũng là những vị gặp nhiều gian lao thử thách hơn người phàm. Giả như có ai may rủi được”ngồi mát, ăn bát vàng”, thì người đời cũng khinh thường, vì người ấy chẳng có công trạng gì.

    Cũng có người giải thích bằng luật “ luật bù trừ”, hay “luật quân bình”, nghĩa là Ông Trời chí công vô tư, chẳng thiên vị ai, chẳng ghen ghét ai, nhưng hễ Trời ban cho ai nhiều “lưng vốn ”, tài năng, thì cũng đòi hỏi người đó phải khó nhọc, vất vả hơn để sinh nhiều lợi tức. Đó cũng là lẽ "công bằng"

    Trời cho Thúy Kiều vừa nhan sắc, lại thông minh, đa tài cầm ca, thi họa, thêm tình cảm dạt dào, tình tứ, bản tính tự nhiên của nàng là người có đức hiếu thảo đối với cha mẹ, nên khi gia đình gặp hoạn nạn nguy biến, thì lập tức, không do dự đắn đo, một mình nàng dám hy sinh hạnh phúc riêng tư để cứu vớt gia đình, nàng lại có tình chung thủy với người yêu, thương dân yêu nước, trọng lễ giáo... chỉ vì Trời đã phú bẩm cho Thúy Kiều nhiều tài năng và nhiều đức tính tốt, trổi vượt hơn người, nên cũng đòi hỏi nàng phải chiến đấu với nhiều nghịch cảnh hơn. Cô em là Thúy Vân, một mẫu người “trung bình” về mọi mặt, nên cuộc đời được phẳng lặng, êm ru như một mệnh phụ tầm thường, nên không có gì đáng làm gương cho ai cả. Thúy Kiều có hoàn toàn buông xuôi đầu hàng cho số mệnh, hay nghịch cảnh không? Theo các diễn biến, tình tiết trong truyện, ta thấy Thúy Kiều luôn cố gắng vươn lên khỏi cảnh bùn lầy nhơ nhớp, lầm than. Nàng đã quyết tâm chốn thoát chốn thanh lâu mấy lần, nhưng đã bị bọn Sở khanh lừa dối. Tuy là con người đa tình, nhưng nàng đã biết tự chủ, sáng suốt để khuyên người yêu Kim Trọng kiềm chế dục vọng, và tôn trọng lễ giáo. Cũng vì thương dân nước sống trong cảnh giết chóc mà nàng đã khuyên Từ Hải ra hàng, để rồi mắc họa vào thân. Những sự kiện đó chứng tỏ nàng không chịu đầu hàng cho số mệnh, nhưng với thành tâm thiện chí, nàng cố gắng làm chủ đời mình; ngay khi có hoàn cảnh có thể tái hợp lại với người yêu cũ, nhưng vì một lý tưởng cao hơn, nàng đã tự ý quyết định đổi tình yêu vợ chồng ra tình bạn hữu.

    Đời sống và sự nghiệp của thi hào Nguyễn Du đã phản ánh trong nhân vật Thúy Kiều. Thật thế, Nguyễn Du xuất thân là một nho sĩ, theo đạo “tam cương ngũ thường”, với tài “kinh bang tế thế ", đã ra làm quan, và sung làm chánh sứ sang cống bên Tàu. Ông rất uyên thâm về thuyết “Thiên Mệnh”của Khổng Tử, đặc biệt thuyết “tính thiện”của Mạnh Tử: “nhân chi sơ tính bản thiện”. Theo lịch sử Triết Học Trung Hoa, triết thuyết này đã được các nho sĩ như Vương Dương Minh (1472-1528) giải nghĩa thêm và lập ra phái Tâm Học. Như đã trình bày về phái Tâm Học, ở đoạn trên, chữ “TÂM”, hiểu nghĩa là “Lương Tri, Lương Tâm”, tức là “nơi” gặp gỡ giữa con người và Thượng Đế.  Chính tại“nơi”thâm cung, thâm Tâm, con người được Đấng Hóa Công cho khả năng biết phân biệt điều Tốt phải làm, và điều Xấu phải tránh. Do đó, Nguyễn Du đã đánh giá chữ “Tâm”, tức Thiện Chí của con người cao quí hơn, gấp ba lần chữ "tài"! Người có Thiện Tâm, quyết chí  thực hành điều tốt , điều phải, thì Trời sẽ giúp cho thắng vượt mọi gian nan thử thách.

    Gặp thời nhiễu nhương, loạn lạc, ông đành sống ẩn dật, để giữ  khí tiết của bậc trung thần, chờ thời cơ thuận tiện sẽ lại xuất chính. Nhưng ông không phải là người yếm thế, tiêu cực, hoàn toàn đầu hàng cho số phận, số kiếp, mà không làm gì cả! Trái lại, là một nho sĩ cương nghị, thành tâm thiện chí, ông đã từ giã cảnh nhàn du sơn thủy, để trở về giúp dân cứu nước, mặc dầu biết trước sẽ gặp bao khó khăn, bực bội với tân trào. Là một kẻ sĩ tài ba, Nguyễn Du luôn thi thố tài năng, bằng những hoạt động ngoại giao như đi sứ sang Trung Quốc, hay sáng tác thơ văn. Có người cho rằng: nhân vật Từ Hải mà ông đã mô tả trong truyện Kiều, nói lên ý chí hào hùng bất khuất của ông chống lại các bất công của thời phong kiến. Vì ông tin tưởng rằng: với thành tâm thiện chí, thì Trời sẽ giúp cho thành công:”Hoàng Thiên bất phụ hảo tâm nhân”

Thân phận nàng Kiều, số phận Tố Như (Nguyễn Du) cũng tương tự như vận mệnh của cả dân tộc Việt Nam. Thật vậy, suốt dòng lịch sử từ khi lập quốc cho tới ngày nay và có thể trong tương lai, dân tộc Việt nam luôn phải đương đầu với mọi nghịch cảnh. Nhưng nhờ niềm tin mạnh mẽ vào “Ông Trời”, và vào đạo Hiếu đối với Ông Bà, nên người Việt Nam chúng ta, dầu gian nan khổ sở, vẫn vui vẻ chịu đựng phấn đấu để phát huy văn hóa và trường tồn!

    Trong tiểu sử của thi hào Nguyễn Du, không thấy nói đến có lúc nào ông đã “xuất gia tu hành”! Do đó, qua câu thơ:” Tu là cõi phúc, Tình là giây oan”, thì ta phải hiểu chữ “Tu” có nhiều nghĩa. Theo nghĩa hẹp, "tu" là bỏ gia đình để vô ở trong tu viện. Nhưng đối một nho sĩ "kinh bang tế thế" như Nguyễn Du, chữ “tu”, ở đây nên hiểu theo ý nghĩa của Nho giáo, tức  "Ngũ thường": tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ; đây là một lý tưởng cao, một kế hoạch lớn. Điều quan trọng là phải theo một thứ tự ưu tiên. Trước hết phải "tu thân", phải rèn luyện tính khí cho kiên cường, không để cho tình tư dục lấn áp.  Chữ “ Tình”ở đây không hiểu theo nghĩa hẹp là "ái tình"( tình ái giữa trai-gái, vợ-chồng), nhưng là gồm tất cả "thất tình" của con người là: hỉ, nộ, ai, cụ, ái, ố, dục (vui, giận, xót thương, sợ, yêu, ghét, ham muốn). Do đó,  ý nghĩa của câu thơ của Nguyễn Du là: muốn sống hạnh phúc, an vui, quân bình thì phải "Tu Thân"nghĩa là biết "sửa mình", sống“tự chủ”, đức độ, ý chí, biết điều khiển và kiểm soát được "thất tình", là những tình cảm bồng bột, lăng loàn. Một người sống hoàn toàn buông thả theo tình cảm đưa đẩy, thiếu lý trí sáng suốt để phân biệt Phải/trái, sẽ phạm nhiều điều sai lỗi, và gây ra  tội ác, đau khổ cho mình và cho người khác: "no mất ngon, giận mất khôn". Bởi vậy, chắc hẳn cụ Nguyễn Du không khuyên người đời: muốn được hạnh phúc thì chỉ có cách là "đi tu", trốn tránh cuộc đời, và khinh chê đời sống vợ-chồng! Nhưng trong mọi hành động, cư xử, nên đặt lý trí sáng suốt trên tình cảm bồng bột mù quáng.   

    2/ Niềm Tin vào Ông Trời và Đạo Hiếu đã giải gỡ những khúc mắc của đời sống

    Niềm tin cổ truyền của dân tộc Việt Nam vào Đấng Thiêng Liêng Cao Cả và vào Đạo Hiếu là chìa khóa giải gỡ mọi tình tiết éo le, khúc mắc của cuộc đời thi hào Nguyễn Du, và của Truyện Kiều: “Hiếu-Tâm đã động đến TRỜI”. Nguyễn Du đã diễn tả Ông Trời bằng những phẩm tính như là Vị Hóa công tạo dựng vũ trụ, mọi việc xẩy ra trên đời do Trời an bài, định đoạt. Ông Trời là vị thẩm phán tối cao, rất công bằng, thưởng kẻ lành, phạt kẻ dữ. Ông Trời không ghen ghét ai, không thiên vị ai, nhưng Trời được hoàn toàn tự do ban phát ân huệ, tài năng cho mỗi người tùy Thiên Ý, Thiên Mệnh, một cách nhưng không, nghĩa là con người không có quyền đòi hỏi, hay phân bì. Nhưng nếu Trời ban cho ai nhiều tài năng, thì cũng đòi hỏi người đó nhiều trách nhiệm. Bởi vậy, khi Nguyễn Du viết:” chữ Tài, chữ Mệnh khéo là ghét nhau”, hay “ Tài-Mệnh tương đố”, thì nên hiểu là: Ông Trời “thách đố”những bậc tài hoa phải thi thố tài năng hơn người bình thường.

    Nói tóm lại, theo triết lý nhân sinh của nhà đại văn hào Nguyễn Du, thì số phận của một cá nhân, hay vận mệnh của một dân tộc sinh sống trên cõi đời này, không ai là không phải chiến đấu với mọi nghịch cảnh, để lập thân cho mình và giúp ích cho nhân quần xã hội. Đời người là một hí trường, đầy gian lao “thử thách” không ngừng. Do đó, phát sinh hai thái độ trái ngược nhau: một là thái độ bi quan tiêu cực, đầu hàng, buông xuôi theo “số mệnh”, “há miệng chờ ho”, không làm gì cả; hai là, thái độ “tự cao tự đại”, không cần ai cả, không tín ngưỡng, tự mình xây dựng cuộc đời, mặc dầu cảm thấy đời sống đầy chông gai, bi đát, vượt quá khả năng của con người. Qua Truyện Kiều, thi hào Nguyễn Du đã muốn chứng minh một đạo sống “trung hòa”, quân bình của dân chúng Việt Nam “Có Trời mà cũng có ta”. Triết lý nhân sinh này đã giúp cho dân tộc ta vừa quyết tâm chiến đấu với mọi gian nguy, khổ sở, vừa nhẫn nại, chịu đựng, bền tâm, tin tưởng vào một tương lai sáng lạng: Ca dao có câu:”Lửa thử vàng, gian nan thử đức”. Thiết tưởng đó mới thật sự là tâm sự mà thi hào Nguyễn Du đã muốn gửi một bài học vào trong Truyện Kiều cho hậu thế. Tâm sự đó Nguyễn Du ước mong đồng bào nhận biết và thông cảm , qua hai câu thơ:

        “Bất tri tam bách dư niên hậu

          Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?”

 (không biết hơn ba trăm năm sau này, thiên hạ còn ai khóc Tố Như (Nguyễn Du) không?)

    g/ Hàn Mặc Tử Nguyễn Trọng Trí (1913-1940)

    Trong cuốn “Việt Nam Văn Học Sử Yếu”, khi viết đề mục “ Mấy nhà thi sĩ hiện đại”, Dương Quảng Hàm đã liệt kê hai nhà thơ nổi tiếng trong phái làm “thơ mới”, để phân biệt với thời các vị thi sĩ làm thơ theo”đường luật”. Hai nhà thi sĩ đó đều là những người theo Thiên Chúa giáo: thi sĩ Hàn Mặc Tử Nguyễn Trọng Trí, và Thế Lữ Nguyễn Thứ Lễ (1907-?). Cả hai đều đem lại cho thi giới Việt Nam một nguồn thi hứng mới lạ , thanh thoát, lên cõi huyền bí, trên cảnh tiên giới.  Nguồn cảm hứng của thi nhân không chỉ giới hạn vào cõi đời tục lụy này, nhưng còn bắt nguồn từ một niềm Tin của một Đạo Giáo cao siêu, vào Tình Thương vô bờ bến của Thượng Đế. Thi sĩ Thế Lữ chỉ biểu lộ tâm tư hùng mạnh, giầu tình yêu, giầu mộng tưởng lên cõi cực lạc, qua tập “Mấy vần thơ”, như bài thơ "Nhớ rừng”, hoặc “Tiếng sao Thiên thai”, v.v. Riêng thi sĩ Hàn Mặc Tử đã đưa vào thi giới Việt Nam những đề tài huyền bí, mầu nhiệm thấm nhuần một Đức Tin Siêu Việt, và một niềm Hy Vọng cứu thoát trong cơn đau khổ dằn vật, vì  bệnh phong. Cho đến lúc từ giã cuộc đời, tâm hồn thi nhân  vẫn được tràn ngập Tình Yêu của Chúa. Những đề tài trong thơ  Hàn Mặc Tử có thể xa lạ đối với những người ở ngoài đức Tin Thiên Chúa Giáo, như: mầu nhiệm về Bản Thể Siêu Việt của Đấng Thượng Đế là :"Một Chúa Ba Ngôi” : Ngôi Cha, Ngôi Con, tức là Chúa Cứu Thế giáng trần để cứu độ, và Chúa Thánh Thần. Thi sĩ Sảng Đình Nguyễn Văn Thích (1891-1978) đã sáng tác một bài thơ bằng hán văn để tán tụng Mầu Nhiệm Cao Cả đó như sau:( Bài thơ này đã được Thi sĩ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu khen ngợi, tán thưởng và họa lại)

     “Duy nhất Thiên Chủ hữu Tam Vị

     Thánh Phụ, Thánh Tử, Thánh Thần thị.

     Tạo thành vạn vật, Tể càn khôn,

     Toàn tri, toàn năng, toàn thiện mỹ”

    Dương Quảng Hàm đã bình luận về Thi sĩ Hàn Mặc Tử:" Ông ưa tả cảnh đêm tối, cảnh trăng sao, cảnh sương mù (Đà lạt trong mơ) là những cảnh hợp với tâm hồn thê lương, ảm đạm của ông...

     Cái ý nghĩ về sự chết chiếm cả tâm hồn ông, nhiều khi khiến ông như điên như dại, nhưng cũng khiến ông nâng thần trí lên chỗ cao xa, sáng láng (Xuân như ý), ước ao một cuộc đời lý tưởng tốt đẹp, và ca tụng, cầu nguyện Đức Chúa Trời (Say thơ)." Lời nhân định trên của nhà phê bình văn học thời tiền chiến thật xác đáng. Nhờ Đức Tin Thiên Chúa Giáo, thi sĩ đã đi sâu vào mầu nhiệm “Một Chúa Ba Ngôi”, là căn bản giáo lý của Thiên Chúa Giáo. Bản Tính Thiên Chúa được định nghĩa là Tình Yêu Thương Vô Biên. Dầu Ba Ngôi Vị phân biệt nhau, nhưng chỉ có Một Chúa mà thôi, vì Ba Ngôi Vị thương mến nhau vô cùng, không hề có một chút gì bất đồng, hoặc hơn kém, cho nên “dẫu Ba mà Một”. Với một tâm tư nặng tình cảm dân tộc, lại thấm nhuần giáo lý cao siêu về Tình Thương vô cùng của Chúa,  thi sĩ Hàn Mặc Tử đã cảm hứng, và sáng tác ra những vần thơ ca tụng “Chúa Trời”, với mầu sắc, âm thanh, hình ảnh rất lạ lùng, chưa hề thấy trong văn đàn Việt Nam từ cổ chí kim. Bởi vậy, dầu thi sĩ là người đau khổ nhất vì mắc bịnh phong, nhưng cũng là một tâm hồn tràn trề hy vọng, phú thác, bình an, nhờ niềm Tin vào Tình Thương vô cùng của ”Ba Ngôi Thiên Chúa”, đặc biệt “Ngôi Hai xuống thế làm người “để chia sẻ thân phận hẩm hiu của nhân loại tội lỗi, cần được cứu độ.

       “Sáng vô cùng và sáng láng cả mọi miền,

       Không u ám như cõi lòng ma quỷ.

       Vì có “Đấng” hằng sống hằng ngự trị,

       Nhạc thiêng liêng dồn trổi khắp hư linh.”

 “Đêm Xuân cầu nguyện”:

       Ta chắp hai tay lại quỳ hoan hảo,

       Ngửa trông cao, cầu nguyện trắng không gian.

       Để vừa dâng vừa hiệp bốn mùa xuân,

       Nở một lượt giầu sang lên Thượng Đế......

      

       Tôi van lơn thầm nguyện Chúa Giêsu,

       Ban Ơn xuống cho mùa xuân hôn phối,

       Xin tha thứ những câu thơ tội lỗi

       Của bàn tay thi sĩ kẻ lên trăng:

       Trong bao đêm xao xuyến vũng sông Hằng....

 

 Bài “RA ĐỜI”, diện tả tâm tư ngày lễ Giáng Sinh của Chúa Cứu Thế:

 

       “Ôi, cao sang khôn ví trọng ai bì!

       Trên nước cả có vô vàn châu báu,

       Trí rất ngớp bởi chưng xuân hồn hậu,

       Đã ra đời, theo lệnh của “Ngôi Hai”.

       Ôi thánh tai, thánh tai, và thánh tai!

       Cả trời bỗng nổi lên muôn điệu nhạc,

       Rất trọng vọng rất thơm tho man mác,

       Rất phương phi trên hết cả anh hoa.......

    Về mặt văn học, tuy theo tân học, nhưng Hàn Mặc Tử làm thơ Đường luật cũng rất hay, đã được nhà văn lão thành Sào Nam Phan Bội Châu tán thưởng. Trong các bài thơ, thi sĩ thường dùng những danh từ mượn ở các đạo giáo Việt Nam như: “trượng phu lời”, “quân tử ý”, “giầu muôn hậu Từ Bi”..., nhưng ông đã đem vào một nội dung ý tưởng mới rút ra từ Thánh Kinh, hay giáo lý của Thiên Chúa Giáo.

    Trong văn hóa, và văn chương thi phú Việt Nam, do ảnh hưởng của đạo Hiếu, địa vị của người Mẹ, biểu tượng của tình thương, của gia đình, luôn được các văn nhân thi sĩ ca tụng. Riêng đối với đồng bào Thiên Chúa Giáo, Đức Trinh Nữ Maria giữ một địa vị rất quan trọng trong đời sống đức tin, bởi vì Bà là Mẹ Chúa Cứu Thế, và cũng là Mẹ phù trợ các môn đệ theo Chúa. Hơn nữa, Mẹ Maria còn là biểu hiệu của lòng thương xót đối với đoàn con cái còn lưu lạc nơi trần thế, đầy đau khổ. Nhớ lại những năm khói lửa kinh hoàng, tại các xóm Đạo ở ngoại ô như Chí hòa, Trung Chánh, Xóm mới, Gò vấp... (nơi tập trung dân di cư công giáo), mỗi chiều tối, từ trong các gia đình văng vẳng lời cầu kinh Mân Côi, để xin Đức Mẹ phù hộ cho chồng con, cho gia đình được bình an. Theo truyền thống, hằng năm hành hương nơi linh địa "Đức Mẹ LaVang";  trong tháng năm tổ chức rước kiệu và ca vãn dâng hoa. Sinh sống ở Hoa Kỳ, mỗi năm hàng chục ngàn đồng hương Việt Nam lũ lượt kéo nhau về dự Đại Hội Thánh Mẫu tại miền Carthage, Missouri. 

    Thi sĩ Hàn Mặc Tử đã diễn tả một cách thâm thúy, đầy tâm tình trìu mến, cậy trông vào sự che chở của người Mẹ hiền đối với đoàn con đau khổ. Lời thơ của thi nhân rất thành thật, tao nhã, linh hoạt và cảm động, nhất là khi nghe bài phổ nhạc hòa âm của Hải Linh: âm điệu, âm thanh rất nhẹ nhàng, bay bổng, lung linh, diễm lệ: “AVE MARIA”, Mẹ Sầu Bi! Đây là bản hòa âm tuyệt tác, xứng đáng góp phần vào kho tàng phụng vụ, và nghệ thuật của Giáo Hội hoàn vũ để ca tụng  Mẹ Chúa Cứu Thế và cũng là Mẹ các tín hữu:

       Lạy Bà là Đấng tinh tuyền thanh vẹn,

       Giầu nhân đức, giầu muôn hậu từ bi.

       Cho tôi dâng lời cảm tạ phò nguy,

       Cơn lâm lụy vừa trải qua dưới thế.

       Tôi cảm động rưng rưng hai dòng lệ:

       Dòng thao thao bất tuyệt của dòng thơ.

       Bút tôi reo như châu ngọc đền vua,

       Trí tôi hít bao nhiêu là khí vị...

       Và trong miệng ngâm câu ca huyền bí,

       Và trong tay nắm một nạm hào quang...

       Đây rồi! đây rồi! Chuỗi ngọc vàng kinh,

       Thơ cầu nguyện là thơ quân tử ý,

       Trượng phu lời và tông đồ triết lý,

       Là Nguồn Trăng yêu mến Nữ- đồng- trinh.

       Là Nguồn Đau châu lụy Nữ-đồng-trinh.

    Thơ Hàn Mặc Tử đã đem vào thi giới Việt Nam một dòng thi tứ mới, rất lạ lùng. Đức Tin vào Một Thiên Chúa yêu thương vô cùng, vào Chúa Cứu Thế tự nguyện chịu khổ hình Thập Giá để đền tội thay cho nhân loại, cùng với Mẹ Sầu Bi...Tất cả nguồn đạo lý cao siêu, “ ân sủng”huyền bí, thật sự đã thấm nhập và cải hóa con người đau khổ nhất đời của thi nhân, thành một con chiên ngoan đạo, vừa nhận biết giá trị hoan lạc, vinh quang của đau khổ, vừa cảm mến những tâm hồn quảng đại hy sinh vì bác ái mà ông gọi là những "Thiên Thần", chính là các Nữ Tu đang tận tụy săn sóc bịnh nhân. Bởi vậy, trong đau khổ ngút ngàn, ông không tuyệt vọng, nhưng ca tụng “những kỳ công huyền diệu của Đấng Tối Cao”.

        “Hỡi những Thiên Thần trên trời,

       Những Thiên Thần của Thiên Chúa,

       Những Thiên Thần Hòa Bình và Hoan Lạc!

       Xin hãy ban xuống cho tôi một vòng hoa.

       Tôi muốn tắm trong biển cả hào quang,

       Trong tình thương cao cả,

       Vì cõi trần gian nhiều phép lạ,

       Khiến người người đều im lặng cung chiêm

       Những kỳ công huyền diệu của Đấng Tối Cao.

      

       Hỡi những Thiên Thần trên trời

       Những Thiên Thần của Thiên Chúa,

       Những Thiên Thần Hòa Bình và Hoan lạc!

       Hãy tung lên những cánh hoa Hồng,

       Những bông hoa Sen với khúc nhạc du dương,

       Những điệu nhạc tỏa hương thơm ngát.

       Hãy đổ đầy nhân đức, chí can trường,

       Niềm hạnh phúc vô biên

       Vào tâm hồn các nữ tì của Thiên Chúa.”

    2. “ÔNG TRỜI” TRONG LỄ TẾ NAM GIAO

    Dân chúng Việt nam thờ nhiều thần, cùng với tín đồ của các tôn giáo như Phật giáo, Khổng giáo, Lão giáo, Thiên chúa giáo, đạo thờ Tổ Tiên...tất cả đều tin tưởng vào Một Đấng Linh Thiêng vượt trên hết các thần thánh, mà họ gọi là Ông Trời. Tục lệ "tế Nam Giao" đã biểu dương lòng tín ngưỡng đó, bằng những lễ nghi đầy ý nghĩa linh thiêng, và uy nghiêm kính cẩn. Mục đích của lễ tế Nam Giao là để tôn thờ  Vị Chủ Tể càn khôn, có quyền ban ân giáng phước và xua đuổi tà ma khỏi gây ác họa cho dân nước. Ông Trời làm Chủ vũ trụ bao la, nên không đặt bàn thờ để tế Ngài ở trong đền miếu nhỏ bé, nhưng ở ngoài lộ thiên, tượng trưng cho sự quyền năng vô biên bao trùm vạn vật. “Nam” có ý chỉ phía nam, theo địa lý cổ truyền, phía nam là hướng ánh sáng, và phía bắc là hướng tối tăm. “Giao”là tương giao, giao hòa gặp gỡ. Bởi đó, Nam Giao là nơi giao hòa gặp gỡ giữa Trời và dân con Trời, ở phía nam, hướng tốt lành của dân tộc Việt Nam, đầy ánh sáng, thảo mộc xanh tuơi, phong thuận gió hòa (ca dao:” Lấy vợ đàn bà, làm nhà hướng nam).

     Linh mục Đắc Lộ, vào năm 1628, đã được dịp chứng kiến cuộc lễ Tế Nam Giao do vua Lê Thần Tông đóng vai Thiên Tử để làm chủ tế, ngày Tết Nguyên Đán. Ngày 30 tháng chạp, Chúa Trịnh Tráng cùng với đoàn vệ binh đi xuống sông tắm rửa sạch sẽ, một cử chỉ có ý nghĩa “tống cựu nghinh tân”. Nửa đêm đến giờ giao thừa, thì nổ súng thần công, báo hiệu năm cũ đã qua, năm mới bắt đầu. Sáng ngày mồng một Tết, chúa Trịnh cùng với các quan, bốn ngàn lính, ba ngàn ngựa, ba trăm voi tiến vào đền vua Lê Thần Tông, để rước vua ra làm chủ sự lễ Tế Nam Giao. Khi lễ tế đã hoàn tất, thì bắn ba phát súng thần công để báo hiệu cho dân chúng biết. Tiếp theo, chúa Trịnh và đoàn tùy tùng hộ tống nhà vua trở lại đền vua để chúc mừng năm mới.

    Linh mục Đắc Lộ đã giải thích ý nghĩa về mặt tôn giáo, tín ngưỡng của lễ Tế Nam Giao như sau: Trong ngày Tết Nguyên Đán là ngày trọng nhất trong năm, người Việt Nam đã tôn kính ba cấp bậc về “Phụ Tính” (fatherhood). Ở cấp bậc dưới, là tôn kính Tổ Tiên đã qua đời, và chúc tuổi cho ông bà cha mẹ còn sống; ở cấp hai, là chúc thọ nhà vua như vị thiên tử, thay Trời để cai trị dân nước, cũng được gọi là” dân chi phụ mẫu” (cha mẹ của dân); ở cấp cao hơn hết, là Tế Trời trong lễ Tế Nam Giao: Trời là Vị “Thượng Phụ” đã tạo dựng nên nhân loại và vũ trụ càn khôn (coi: Catechismus, ngày thứ nhất).(199).

    Linh mục Léopold Cadière, một nhà truyền giáo, rất am tường về văn hóa và đạo giáo ở Việt Nam, đã mô tả và giải thích về lễ Tế Nam Giao như sau:

    Đền Nam Giao đời nhà Nguyễn được dựng về phía nam Kinh Đô Huế, trên một gò đất cao gồm bốn cấp bậc chồng lên nhau. Bậc cao nhất có hình tròn (hình bánh dày) tượng trưng cho Trời, đo được 42 mét đường kính. Hai cấp thấp hơn có hình vuông (hình bánh chưng), tượng trưng cho Đất (bốn cạnh chỉ bốn phương trời), một nền dài 85 mét, một nền dài 165 mét. Nền thấp nhất ngang bằng với nền đất trồng thông, có hình chữ nhật, dài 390 mét và rộng 265 mét.

    Chỉ một mình nhà vua được gọi là Thiên Tử (con Trời) đại diện cho thần dân làm chủ tế, như vị giáo chủ. Trước khi đến tế lễ, nhà vua phải được thanh tẩy tại Trai cung. Khi việc tế tự đã hoàn tất, nhà vua phải trở lại Trai cung để báo cáo về các lễ nghi đã được thực hiện đầy đủ, trang nghiêm kính cẩn.

    Tế Nam Giao là một biểu dương sâu xa nhất của dân tộc Việt nam đối với Đấng Tối Cao, đối với Vị Thiên Chủ. Dân chúng tham dự một cách sốt sáng nhiệt tình, lễ nghi diễn ra trang trọng đầy ý nghĩa tượng trưng.

    Linh mục Cadière viết lại cảm tưởng như sau: lễ Tế Nam Giao đã mặc một vẻ trang trọng uy nghi tương xứng với sự cao cả của “Đấng” mà dân chúng tôn thờ, tương xứng với sự tin tưởng tinh tuyền đối với Vị Chủ Tể, tương xứng với tâm tình sâu xa nẩy nở trong lòng người Việt Nam.Tin tưởng vào quyền lực vô biên của một Ông Trời, đó là một niềm tin cao quý và tinh tuyền nhất trong các tín ngưỡng Việt Nam. Cũng vậy, Tế Nam Giao chính là biểu lộ long trọng của niềm tin ấy, Tế Nam Giao là một lễ nghi cao cả nhất trong việc phụng tự của người Việt Nam”(200).

    3. CHA ĐẮC LỘ VÀ NIỀM TIN VÀO “ÔNG TRỜI “ CỦA DÂN VIỆT

    Giá trị cao quí nhất của “bốn ngàn năm văn hiến” của dân tộc Việt Nam là gì?_ Thưa chính là niềm Tin ở Ông Trời và Đạo Hiếu, tức là chết không phải là hết, nhưng Hồn Thiêng của Ông Bà vẫn còn tồn tại với con cháu. Do đó, để “khai quật” kho tàng quí giá còn chôn giấu trong tâm tưởng dân chúng Việt Nam từ bao nhiêu đời, Cha Đắc Lộ đã xếp đặt những bài suy luận về niềm tin tự nhiên vào Ông Trời, và ước vọng trường sinh bất tử của con người “linh ư vạn vật”, là những bài học đầu tiên trong sách Giáo lý. Đây là phương pháp sư phạm để dạy Giáo lý, theo một trật tự “hợp lý”, nghĩa là khởi đầu từ Văn Hóa, Tự nhiên để vươn lên Mặc Khải, Siêu nhiên. Vì lòng ngưỡng mộ nền văn hóa tốt đẹp của dân Việt, và vì lòng nhiệt thành muốn chia sẻ Tin Mừng của Chúa Cứu Thế cho đồng bào, cha Đắc Lộ đã tận tụy nghiên cứu ngôn ngữ và tìm hiểu phong tục tập quán để có thể “dĩ văn tải Đạo”, dùng văn từ thích hợp để truyền bá những chân lý của Đức Tin Thiên Chúa Giáo.

    Danh xưng ĐỨC CHÚA TRỜI

    Bên Trung quốc, cha Matteo Ricci xuất bản cuốn”Thiên Chủ Thực Nghĩa”. Sách này đã làm chấn động dư luận Trung quốc thời bấy giờ (và cho đến ngày nay). Vua Khang Hy nhà Thanh, các bậc nho gia, quan lại đều đã tìm đọc. Cha Đắc Lộ đã kể một câu truyện hi hữu như sau: Khi cha đang giảng giáo lý cho tân tòng thì có một vị sư đưa cho ngài coi một cuốn sách viết bằng chữ nho. Nhà sư cho biết: cách đây gần 30 năm, cụ thân sinh của nhà sư đã theo phái đoàn Việt nam đi triều cống vua Trung quốc và đã được tặng cuốn sách ấy đem về nước. Khi cụ thân sinh chết thì trối lại cho con cháu, nhưng trong nhà không ai hiểu được các lý lẽ viết trong cuốn sách ấy. Vừa rồi khi nghe cha Đắc Lộ giảng giáo lý thì thấy các lý lẽ mà cha vừa nói, giống như các tư tưởng có trong cuốn sách kia.(201).

    Có thể cha Đắc Lộ đã đọc sách “Thiên Chủ Thực Nghĩa” của Cha Ricci, nhưng khi áp dụng vào hoàn cảnh đặc biệt của địa phương, Cha Đắc Lộ đã biến chế, thích nghi, để “hội nhập” vào văn hóa Việt Nam một cách rất tài tình. Trong vấn đề hội nhập văn hóa, ngài đã nghiên cứu tường tận tâm lý, tâm tình, trình độ văn hóa của mọi giới trong xã hội thời bấy giờ để trình bày giáo lý mới một cách thích hợp.

    Muốn giảng Tin Mừng cho đại chúng, công việc cấp bách phải làm là tìm những danh từ thích hợp có âm hưởng thuần tuý của Việt ngữ, lại có khả năng chuyên chở được nội dung ý nghĩa thần học của Thiên Chúa Giáo. Do đó, câu hỏi quan trọng là: trong ngôn ngữ Việt nam, danh xưng nào xứng đáng để “đặt tên” cho Đấng Tạo Thành vũ trũ càn khôn? Có vị thừa sai đề nghị dùng chữ “Chúa Dêu”. Chữ “Dêu”phiên âm bởi chữ Latinh “Deus”, có nghĩa là Chúa. Nhưng cha Đắc Lộ và cha Francesco Buzomi đã bác bỏ, vì chữ “dêu”không có nghĩa tốt đẹp trong các tiếng Việt thông dụng. Vả lại, sợ rằng người Việt Nam nghĩ tưởng đó là một vị thần mới từ đâu đem đến chăng? Cha Đắc Lộ  biết bên Trung Hoa, thời bấy giờ, đã dùng danh từ Thượng Đế của người Trung Hoa, và danh từ “Thiên Chủ” do cha Ricci ghép hai chữ “Thiên” và “Chủ”. Đối với cha Đắc Lộ, ngài không thích dùng hai từ ngữ này, vì là chữ Nho, không thông dụng, không thuần túy Việt ngữ. Ngài chỉ tạm dùng danh từ “Thiên Chúa” (Thiên Chủ) do cha Ricci sáng tác ra, trong khi đi tìm một chữ vừa có âm điệu Việt ngữ, vừa biểu lộ được niềm tin “sẵn có” của dân tộc Việt Nam: đó là tiếng mà mọi người thường kêu xin:”ÔNG TRỜI”. Danh xưng này dễ hiểu, và quen thuộc với mọi giới đồng bào. Dĩ nhiên, khi dân chúng kêu “Ông Trời”, “Trời ơi!”, thì không có ý chỉ trời xanh mênh mông, nhưng chính là một Vị, một Đấng, một Ông, cao sang làm CHỦ(CHÚA) cả vòm trời xanh. Cha cũng tránh không dùng các danh từ trừu tượng, vô-bản-vị như: Lý, Thái Cực, Đạo, Khí, Vô, Không. Theo Lịch sử Triết học Trung Hoa, những ý niệm kia đã bắt nguồn từ quan niệm “Vạn vật nhất thể”, hoặc của phái Lý-Học (Chu Hi:1130-1200) và Tâm-Học (Vương dương Minh:1472-1528). Để củng cố cho ý niệm “bản vị”, "ngôi vị", "hữu ngã", cha Đắc Lộ đã hợp tác với các Thày Giảng thông thái người Việt Nam,( các vị nho sĩ, cựu tu sĩ Phật Giáo) để sáng tác ra danh từ “ĐỨC CHÚA TRỜI”, đầy ý nghĩa tôn giáo và âm hưởng Việt Nam. Tại sao dùng chữ "Trời "? Vì lấy ý nghĩa và thành ngữ ở Kinh Thánh:”Chúa của trời đất (coi:sách Tông đồ Công Vụ 17:24 và Luca 10:21). Tại sao dùng chữ Chúa? Chữ Chúa bởi chữ nho “Chủ”, dùng để chỉ vị nguyên thủ quốc gia như Chúa Trịnh, Chúa Nguyễn. Còn chữ “Đức”dùng để chỉ tước vị cao trọng. Lúc đầu, cha Đắc Lộ dùng chữ: “Đức Chúa Trời-Đất, theo ý nghĩa câu thành ngữ: “Trời che, Đất chở”. Về sau rút gọn lại thành:ĐỨC CHÚA TRỜI. Đây cũng là một quyết định khôn ngoan, hiểu biết tâm tình mộ đạo của người bình dân Việt nam, thờ kính  nhiều thần thánh như thần sông, núi, thiên lôi, hà bá....Cha Đắc Lộ muốn giúp họ chỉ thờ phượng, kính mến Một Chúa Siêu Việt là Đức Chúa Trời mà thôi. Còn toàn thể các loài thụ sinh như các vị thành lập các đạo giáo, các thánh nhân, các bậc hiền nhân quân tử, hồn thiêng của Ông Bà tổ tiên, ... (kể cả chín phẩm thiên thần, và ma quỉ (tiếng Phạn là mara).. đều do Đức Chúa Trời tạo dựng nên, vì thế, ta không thể đặt các vị đó ngang hàng bằng Đức Chúa Trời được! Cha Đắc Lộ cũng đã đề cao niềm tin tuyệt đối của dân tộc Việt Nam vào “Ông Trời”, trong lễ Tế Nam Giao. Hàng năm, vào dịp Tết Nguyên Đán,, một lễ tế đặc biệt của dân Việt do nhà vua, đại diện cho quốc gia làm chủ tế.

    Theo giáo lý mặc khải của Thiên Chúa Giáo, các tín hữu phải tin: “Một Đức Chúa Trời Ba Ngôi”. Đây là một mầu nhiệm cao sâu nhất trong đạo, vượt quá sự hiểu biết của trí khôn nhân loại. Nhờ Chúa mặc khải thì ta mới biết có chân lý tuyệt đối đó, nhưng vẫn không thể hiểu rõ yếu tính của mầu nhiệm đó:” Ba Ngôi Vị phân biệt nhau, lại hợp nhất hoàn toàn nên "Một Thiên Chúa" mà thôi!”

    Bên Trung Hoa, cha Matteo Ricci trong sách “Thiên Chủ Thực Nghĩa”, và cha Michele Ruggieri trong sách “Thiên Chủ Chân Lục”, đã không đề cập, cũng không diễn giảng về Mầu Nhiệm “Một Chúa Ba Ngôi”cho các độc giả người Trung Hoa, lấy lý do là họ khó hiểu, và công việc trình bày giảng dạy đòi hỏi nhiều công phu nghiên cứu.Ý kiến và lập trường của cha Đắc Lộ thì khác. Theo Ngài, Mầu Nhiệm”Một Chúa Ba Ngôi”, vừa là tâm điểm của Đạo Thiên Chúa, vừa là nòng cốt liên quan mật thiết đến ơn Cứu Độ. Trước khi chịu phép Rửa tội, người tân tòng cần phải được dạy dỗ về mầu nhiệm này, bởi vì ý nghĩa của nhiệm tích này là dâng hiến, thánh hiến người được rửa tội cho “Một Đức Chúa Trời Ba Ngôi”, để họ được sạch mọi tội, trở thành con Chúa và được sống đời đời. Công thức đọc khi rửa tội là: “Tôi rửa bạn (ông bà, anh chị...) Nhân Danh Cha, và Con, và Thánh Thần” (Ego te baptizo in Nomine Patris et Filii et Spiritus Sancti).(202).

    Về cách dùng Việt ngữ để diễn tả những quan niệm mới về Thần học, cha Đắc Lộ đã mượn một số danh từ bằng chữ nho do cha Ricci đặt ra trước, chẳng hạn chữ “Tính” (natura, essentia) để chỉ “Bản Tính” của Đức Chúa Trời là phép tắc vô cùng, trọn tốt trọn lành vô cùng, ở khắp mọi nơi...Đặc biệt và tài tình hơn cả là việc cha Đắc Lộ dã dùng chữ nôm “NGÔI” dịch ra từ chữ nho “VỊ” để diễn tả ý niệm “bản vị, nhân vị” (Person) trong thần học Thiên Chúa Giáo. Chữ “Ngôi” rất phổ thông trong ngôn ngữ Việt Nam như: ngôi vua, ngôi báu, ngôi thứ trong làng.... Sách giáo lý dậy rằng: “Hỏi: có mấy Đức Chúa Trời? Thưa: có Một Đức Chúa Trời mà thôi. Hỏi: Đức Chúa Trời có mấy Ngôi? Thưa: Đức Chúa Trời có Ba Ngôi: Ngôi Nhất là Cha, Ngôi Hai là Con, Ngôi Ba là Thánh Thần.”.

    Theo thần học Thiên Chúa Giáo dạy: chỉ có Một Đức Chúa Trời mà thôi (không thể có ba Chúa Trời được). Chúa Con, tuy bình đẳng hoàn toàn bằng Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, nhưng có “Ngôi Vị” phân biệt với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Chúa Cha, hoàn toàn bình đẳng với Chúa Thánh Thần và Chúa Con, nhưng có “Ngôi Vị” riêng biệt với hai “Ngôi” kia. Chúa Thánh Thần cũng hoàn toàn bằng hai “Ngôi” kia, nhưng có “Ngôi Vị” khác với Chúa Cha và Chúa Con. Bởi vậy, tuy” Ba Ngôi” phân biệt nhau, nhưng chỉ có” Một Đức Chúa Trời” mà thôi! Bản Tính của Đức Chúa Trời là Tình Thương Yêu vô cùng. Do đó, chính bởi Ba Ngôi Thương Mến nhau vô cùng, nghĩa là không khi nào có sự chia rẽ bất hòa, hoàn toàn bình đẳng, đồng thuận, đồng ý về mọi phương diện..., cho nên dẫu “Ba Ngôi”, nhưng “Một Chúa” mà thôi!

    Mầu nhiệm” Một Chúa Ba Ngôi” là mầu nhiệm cao cả nhất, vì vượt quá quá sự hiểu biết của lý trí và kinh nghiệm của nhân loại. Khi dạy giáo lý cho tân tòng, cha Đắc Lộ có cảm tưởng là: dân chúng Việt Nam không khó chấp nhận Mầu Nhiệm”Một Chúa Ba Ngôi” bằng tin Con Thiên Chúa là Đấng phép tắc vô cùng, tốt lành vô cùng, thế mà lại hạ mình xuống mặc lấy xác phàm, làm người yếu hèn như mọi người chúng ta. Chính Mầu Nhiệm”Ngôi Hai xuống thế làm người” mới thật sự lạ lùng, khó tưởng tượng được! Đây là một nhận xét rất tinh tế về tâm tình mộ đạo của người dân Việt, vì họ thường biểu lộ tình cảm sợ hãi, tôn kính đối với những hiện tượng, cảnh vật lạ lùng, kỳ dị hay “linh thiêng”, mà trí khôn nông cạn của loài người không thể hiểu, không thể cắt nghĩa được. Do đó, mặc dầu không thể hiểu được mầu nhiệm thuộc về bản tính cao siêu của Chúa, là mầu nhiệm”Một Đức Chúa Trời Ba Ngôi”, nhưng các tân tòng sẵn sàng tin theo, vì lời Chúa và lời Hội Thánh truyền dạy. Mặt khác, cha Đắc Lộ đã thực hiện một kế hoặch mục vụ tân tiến là :áp dụng giáo lý vào phụng vụ, nghĩa là đem những tín điều đã học được trong giáo thuyết, áp dụng thực hành trong phụng vụ. Đây là một cách “sống đạo” rất linh động. Chẳng hạn, cha Đắc Lộ đã thánh hóa, dâng hiến ba ngày Tết Nguyên Đán để tôn kính mầu nhiệm “Một Chúa Ba Ngôi”

ĐÀM ĐẠO: ĐẤNG TẠO HÓA, HAY “ÔNG TRỜI” CÓ NGÔI VỊ KHÔNG?

    Trong Tứ Thư Ngũ Kinh và trong  tín ngưỡng dân gian, ta nhận thấy rõ ý niệm về một “Đấng” Tạo Hóa hay “Ông Trời” Siêu Việt, “KHÁC BIỆT”, nhưng cũng gần gũi với tạo vật. “Đấng “đó có một bản vị, ngôi vị khác với các nhân vị khác. Đấng đó cai quản muôn vật muôn loài, và đường lối, tức “Đạo” của Đấng Thượng Đế hay Thiên, gọi là Thiên Mệnh. Muốn được hạnh phúc, con người phải bắt nhân đạo thuận theo thiên đạo. Người bình dân Việt Nam hay Trung Quốc vẫn ôm ấp một niềm tin sâu xa vào Đấng Bề Trên: người Việt gọi là “Ông Trời”, và người Hoa gọi là “Thiên-Lão-Tổ”

    Lễ Tế Nam Giao vào dịp đầu Xuân, hay việc dựng bàn thờ “Ông Thiên” ở trước nhà, chứng minh cho niềm tín ngưỡng ấy. Gần đây, những cuộc bách hại tôn giáo ở Trung quốc do phong trào “Cách mạng văn hóa”, cũng không thể dập tắt được truyền thống hữu thần trong Khổng-Mạnh.

    Quan niệm “Thiên trị” ngày xưa coi Trời là Đấng cầm quyền sinh tử và thưởng phạt, đã đặt ra “Hồng Phạm Cửu Trù” và “Nguyệt Lệnh” để vua chúa ( Thiên tử, con Trời) phải tuân theo trong việc thay Trời mà cai trị nước. Nếu vị quân vương làm trái Thiên Mệnh, thì sẽ gây ra tai họa cho toàn dân. Đó là quan niệm Trời và Người có tương quan đến nhau:”Thần- Nhân tương dữ”!

    Quan niệm “ Trời và người liên hệ với nhau”, trong sách Kinh Thánh Cựu Ước kể truyện vua Đavít phạm tội và Thiên Chúa đã phạt toàn dân phải chết vì dịch tễ (2 Sam 24:10-15)

    Khi Thiên Chúa Giáo được truyền sang Trung Hoa và Việt Nam, các vị thừa sai ngoại quốc đã gặp khó khăn trong việc chuyển ý, chuyển ngữ, phiên dịch, tạo những từ ngữ mới trong tiếng bản quốc để có thể diễn tả một cánh xứng hợp với nội dung thần học trong sách giáo lý của Hội thánh. Vì không đủ thời giờ, vì thiếu tài liệu nghiên cứu về văn hóa, ngôn ngữ và  các tư tưởng triết lý siêu hình của Trung Hoa và Việt Nam, nên một số các vị giáo sĩ Tây phương đã ngần ngại hoặc lo sợ “rối đạo, lạc đạo”khi dùng các danh từ thuần tuý địa phương, “bản quốc”, để diễn tả các ý niệm trong sách Giáo lý của Thiên Chúa Giáo. Những do dự và ngộ nhận, hiểu lầm trong quá khứ đã gây bất mãn đối với các dân tộc đã có một nền văn hiến kỳ cựu, khả kính. Ngày nay, nhờ “khoa thần học về các tôn giáo” (theology of Religions) phát triển, nhờ sự nghiên cứu tường tận về các nền văn hóa, nên vấn đề “tranh luận về lễ nghi, phong tục”, hay việc phiên dịch các từ ngữ được dễ dàng hơn. Những danh xưng thông dụng nhất để chỉ Đấng Tạo Hóa, là những danh từ như: Thiên Chúa (Chủ), Thượng Đế, hay Đức Chúa Trời, được dùng trong các sách giáo lý và phụng vụ

    Những điểm dị biệt

    Nếu so sánh quan niệm về Một Đấng tạo thành vũ trụ càn khôn, giữa Thiên Chúa Giáo và Tam Giáo, ta còn thấy một số điểm dị biệt :

    1/ Theo các sách cổ điển và niềm tín ngưỡng dân gian như Cadao, Tục ngữ...danh từ “Thượng Đế”, “Thiên”, hay “Ông Trời” ..thường mang một ý nghĩa cao siêu về một Đấng có bản vị, hữu ngã, “Khác” với mọi loài mọi vật trong trời đất. Chữ “Đế”, khởi thủy là Vị Thần thuộc dòng họ nhà Thương (chừng 1300 B.C). Có thể là một vị tổ tiên đã được thần thánh hóa, và ta nhận thấy “tính chất hữu ngã, nhân vị” của vị thần ấy “khác” với các vị thần khác. Do đó, chữ “Thượng Đế” được dùng để chỉ một vị Chủ Tể tối cao hơn hết mọi vị thần.

    Danh từ “Thiên” hay “Trời”, không có ý chỉ trời xanh mênh mông mịt mù, nhưng là ám chỉ một “ÔNG TRỜI”, Đấng Linh Thiêng ẩn náu làm chủ, tạo dựng nên không trung bao la huy hoàng kia. Có thể chữ “Thiên” xuất hiện vào thời nhà Chu (khoảng 1111-249 B.C). Tuy nhiên, nếu so sánh về nguyên tự, ta thấy chữ”Thượng Đế” biểu lộ đặc tính hữu ngã, bản vị, ngôi vị hơn chữ Thiên (Trời). Nhưng chữ “Thiên” đã biến hóa, hoặc là nghiêng về ý nghĩa “Nội Tại” (Immanence) hơn là “Siêu Việt (Transcendence), hoặc mang một ý nghĩa “huyền bí” (mystical) hay “phiếm thần” (pantheism), rồi trở thành một quyền uy về luân lý trong vũ trụ, một Vị Thượng Trí, một Ý Chí định đoạt số phận của nhân loại. Sau này, muốn nhấn mạnh đến tính chất Siêu Việt, Hữu Ngã của “Thiên”, nên thêm chữ “Chủ”, thành ra chữ “Thiên Chủ (Thiên Chúa)như đang thông dụng cho đến ngày nay. Nói tóm lại, hai danh xưng Thượng Đế và Thiên đã được dùng chung thay thế cho nhau, từ thời nhà Chu, để chỉ Đấng Tối Cao,Vị Chủ Tể vũ trụ càn khôn (203).

    2/ Quan niệm về “Thiên Mệnh”, “Thiên Tử” trong Nho Giáo cũng khác tín điều về “Ngôi Hai Thiên Chúa” là “Con Thiên Chúa” giáng trần để cứu độ nhân loại. Theo văn hóa cổ truyền, các thánh vương đời xưa được coi là “Thiên Tử” (con Trời) vì lãnh Mệnh Trời để cai trị dân. Vị quân vương là vị trung gian giữa Trời và dân (  ). Nhưng đây chỉ là dã sử, hay truyền tụng, chứ không phải một biến cố lịch sử, nghĩa là không có một vị thánh vương nào dám quả quyết đã được Trời sai đến hoặc được uỷ thác một sứ mệnh đặc biệt, trong một hoàn cảnh lịch sử rõ ràng để cứu nhân độ thế, kể cả vua Nghiêu, vua Thuấn, Đức Khổng Tử, Thày Mạnh Tử, hay Đức Phật Thích Ca.

    Theo lịch sử dân tộc Do thái, Thiên Chúa độc nhất “YAHWEH”đã có một Giao Ước với các lãnh tụ của dân như: Abraham, Moses, Davit...Đó là thời Cựu Ước. Đến thời gian đã ấn định, Thiên Chúa đã thiết lập một Giao Ước mới, gọi là Tân Ước. Theo giao ước mới này, Thiên Chúa đã sai chính “Thánh Tử”, tức Ngôi Hai Thiên Chúa “xuống thế làm Người”, “mặc lấy xác phàm” như mọi người chúng ta, trừ tội lỗi.. Ngài đã” Nhập Thể” trong một ngôi vị là Chúa Cứu Thế lịch sử. Vì thế, Ngài mới là Vị “Thiên Tử” chính thực đã giáng trần để cứu độ sinh linh.

    3/ Nho Giáo chú trọng đến “động thể” của Nguyên Lý Siêu Việt, nghĩa là suy xét về các hành động của Nguyên Lý ấy biểu lộ trong vũ trụ, thiên nhiên. Do đó, các triết gia ít suy luận về bản thể “Tĩnh”, “bất biến”, “hằng hữu”, và các "phẩm tính”của Đấng Tự Hữu. Vì xét theo động thể, nên các nhà hiền triết đã đặt ra nhiều danh xưng để gọi Nguyên Lý Siêu Việt, tùy từng khía cạnh biến hóa như: “Lý Thái Cực, Vô cực, Đạo, Tâm, Chân Như....Ngoài ra, các triết gia cũng không dùng luận lý để chứng minh sự hiện hữu của Đấng Tạo Hóa như các nhà triết học Hy lạp hay Thánh Tôma đã làm.

    4/Theo Thần Học và Triết Học, Đấng Tạo Hóa vừa có tính chất Siêu Việt (Transcendent) vừa có tính chất Nội Tại (Immanent). Theo tôn chỉ trên, ta thấy Đông phương nhấn mạnh vào đặc tính Nột Tại hơn là Siêu Việt. Do đó, sự khác biệt giữa Thiên Chúa Giáo và Tam Giáo được nổi bật trong cách kiến trúc các thánh đường. Thiên Chúa Giáo chú trọng đến khía cạnh Siêu Việt của Thiên Chúa, nên xây tháp cao”chọc trời”. Còn Đông phương thì nhấn mạnh vào đặc tính Nội tại, tiềm ẩn của Vị Hóa Công trong vũ trụ, nên xây nền Tế Trời trên một khoảng đất trống rộng giữa thiên nhiên (đền Nam giao về phía nam kinh đô Huế), hoặc xây cất chùa, miếu..lẩn lút dưới vòm cây để hòa hợp với cảnh thiên nhiên như thể giữa thế giới thiêng liêng và nhân thế có sự giao hòa mật thiết với nhau. Cũng vì lẽ đó, triết lý Đông phương thiên về những quan niệm như: Vạn vật nhất thể, Thiên-Nhân hợp nhất, Thần-Nhân tương dữ, Tam tài (Thiên-Địa-Nhân)

    5/ Về phương diện tế tự, Đông phương không cấm cá nhân cầu nguyện, nhưng thiếu những lễ nghi phụng tự linh đình, trọng thể, sầm uất, và tập họp dân chúng đông đảo, hoặc  tổ chức thường xuyên những lễ kỷ niệm. Trong Do thái giáo, toàn dân dành ngày Sabbat để thờ phượng Yahweh. Thiên Chúa Giáo dâng ngày Chúa Nhật (ngày của Chúa) để tham dự Thánh Lễ và làm các việc đạo đức, từ thiện. Sự sùng kính, cúng giỗ của tín đồ các đạo giáo có tính cách cá nhân, ít khi tổ chức những cuộc rước sách, hay lễ nghi có đông đảo quần chúng tham dự. Việc cúng giỗ, lễ chùa là việc của cá nhân hay gia đình. Lễ Tế Nam Giao được tổ chức mỗi năm một lần, dưới sự chủ tế của vị quân vương, đại diện toàn dân, còn đại đa số dân chúng thì dựng bàn thờ”Kính Thiên” ở trước nhà.

    6/ Thiên Chúa Giáo hay KyTô Giáo bắt nguồn từ Kinh Thánh Cựu Ước của Do Thái Giáo. Khác với các dân tộc lân bang thờ nhiều thần, dân Do Thái chỉ thờ một Vị Thần độc nhất vô nhị. Vị Thần này vô hình vô tượng, vô cùng cao siêu trên mọi thần thánh khác. Theo Kinh Thánh, dân Do Thái miễn cưỡng gọi Vị Thần Tối Cao đó bằng danh xưng “Yahweh” và “Elohim”. Khi hiện ra với Maisen, Thiên Chúa độc nhất vô nhị đã mặc khải danh hiệu Ngài là Y H W H=YaHWeH, nghĩa là "ehjeh aser ehjeh" được phiên dịch là “Ta là Đấng Tự Hữu”, hay “Ta là Đấng Có” (Ego eimi hoon), hay “Ta có sao Ta có vậy”(204).

    Cũng nên giải thích thêm, các nhà ngữ học cho rằng tiếng Trung Hoa và Việt Nam không có động từ cùng loại với động từ “to be” (Anh ngữ), être (Pháp), sein (Đức), esse (Latinh)...”To be” không phải chỉ có nghĩa “Là” thế này, thế kia, nhưng đặc biệt trong triết học, siêu hình học, còn có nghĩa là “tự lập”, “tự tại”, “tự tồn tại” (self-subsistence). Khi triết gia Descartes viết:” Cogito, ergo sum” (I think, therefore I am), tạm dịch sang tiếng Việt là: “Tôi suy tưởng, nên Tôi hiện hữu”. Mỗi khi phải phiên dịch động từ “to be” theo nghĩa triết học thì mượn động từ “hữu” hay “có”.

    Do đó, “Yaheh” được hiểu là “Ta là Đấng Tự Hữu (Tự chủ, Tự Tồn tại), vì bản tính của Thiên Chúa là một bản thể tự lập tuyệt đối, là chính sự Hiện Hữu. Dịch như trên là chú trọng vào phần bản thể “Tịnh” của Thiên Chúa. Ngày nay, nhiều học giả về Kinh Thánh chú ý đến khía cạnh “Động Thể”, nghĩa là Thiên Chúa luôn can thiệp vào lịch sử cứu độ, biểu lộ thánh ý qua các lời tiên tri để giải phóng, phù giúp dân Chúa (coi Sách Xuất Hành 6:6..). Có thể nói danh từ “Yahweh” hàm ẩn ba ý nghĩa: Thiên Chúa can thiệp vào các biến cố lịch sử của nhân loại, nhưng Chúa vẫn là Đấng Siêu Việt, là Chúa Quan Phòng mọi sự, mọi loài, Ngài hiện hữu trong mọi biến cố của Lịch Sử Cứu Độ, Ngài là Chúa của vũ trụ càn khôn. Do đó, thay vì phiên dịch”Ta là Đấng Tự Hữu”, có thể dịch là:”

    “Ta sẽ có sao Ta sẽ có vậy” (I shall be what I shall be). Câu: “Ta là Đấng Tự Hữu” diễn tả sự “Tự lập” Tự thể, tức bản thể “Tịnh” (static ontological) của Chúa, câu :”Ta sẽ có sao Ta sẽ có vậy” diễn tả khía cạnh “Động “ của Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử.

    Ngoài danh xưng Yaweh, Kinh Thánh Cựu Ước còn dùng tiếng “Elohim” để chỉ Thiên Chúa độc nhất vô nhị. Theo nguyên tự, tiếng Elohim chỉ các thần (số nhiều). Nhưng được dùng trong Kinh Thánh Cựu Ước để chỉ một Thiên Chúa chính thực và duy nhất. Hai danh xưng này phối hợp trong câu: “Ngươi hãy nhìn nhận Thượng Đế (Yahweh) là Thiên Chúa (Elohim) ngươi, không có Chúa nào khác nữa.” (Dt 4,35). Ở đây ta thấy cả hai Thánh Danh đều chỉ một Thiên Chúa có Ngôi Vị Siêu Việt, khác với mọi loài, mọi vật.

    7. Trong Kinh Thánh Tân Ước, chữ hy-lạp “Theos” được dùng để chỉ Thiên Chúa. Theo nguyên tự tối cổ, chữ “Theos” ám chỉ tín ngưỡng đa thần của Hy lạp, trong đó vị thần tối cao là Zeus, cha của các thần khác. Nhờ sự suy luận triết học và siêu hình học của các triết gia Plato và Aristotle, ý niệm và nội dung của chữ “Theos” đã được thanh lọc và biến đổi để xưng hô Một Vị Thần độc nhất trên các thần khác.

    Các vị Thánh Ký ghi chép sách Kinh Thánh Tân Ước đã dùng danh xưng “Theos”để chỉ Thiên Chúa trong các tác phẩm. Tuy mượn danh từ trong triết lý Hy Lạp, nhưng các vị thánh ký chỉ chú trọng đến sự kiện lịch sử Chúa đã mặc khải cho Mai sen, và đặc biệt nơi nhân vật lịch sử mới xuất hiện là chính Đấng Cứu Thế. Đối với các tín hữu thời Tân Ước, Đấng Cứu Thế lịch sử chính là hiện thân của Thiên Chúa. Họ không lưu ý đến ý niệm siêu hình, trừu tượng về “Theos” của các triết gia Hy Lạp. Các thánh ký đều viết: “Vị Thiên Chúa mà Đấng Cứu Thế mặc khải cũng chính là Vị Thiên Chúa của dân Do thái và các tổ phụ, Thiên Chúa của Abraham, Isaac, Jacob “ (coi Matt.15:31,22:32, Marc 12:26; Lk 1:68, 20:37;Acts 13: 17, 22:14; 2 Cor.6:16; Heb 11:16). Vị Thiên Chúa đó là “Cha” của Đấng Cứu Thế (coi Rom 15:6; 2 Cor 1:3, 11:31; Eph.1:3). Vị Thiên Chúa đó có phẩm tính siêu việt như một bản vị biệt lập, khác các loài thụ tạo. Ngài là Đấng Tạo Hóa, là Chúa Tể thời gian và can thiệp vào dòng lịch sử của nhân loại. Ngài đối thoại với loài người, lắng nghe lời cầu khẩn và ban truyền các lề luật các giới răn. Bản thể của Thiên Chúa là Tình Thương vô biên đã được tỏ hiện trong thời Cựu Ước, đặc biệt được mặc khải nơi Nhân Vị của Đấng Cứu Thế trong thời Tân Ước.

    Nói tóm lại, trong truyền thống thần học và triết học, Thiên Chúa Giáo luôn đề cao sự Siêu Việt Tuyệt Đối của Ngôi Vị Thiên Chúa, khác với mọi loài thụ tạo. Quan niệm về sự sáng tạo từ “Hư Vô” (ex nihilo) chứng minh cho tính chất Siêu Việt Tuyệt Đối đó. Chỉ một mình Đấng Tạo Hóa là “Tự Hữu”, “Vô Thủy vô Chung. Ngài sáng tạo muôn vật từ “hư không”, nghĩa là vạn vật đã có một khởi thủy rồi sau mới có biến hóa. Đạo giáo Đông Phương cũng nhìn nhận sự Siêu Việt của Vị Chủ Tể càn khôn, nhưng không đề cập đến lý thuyết về sự “tạo dựng từ hư vô” (creatio ex nihilo); vì theo cách suy luận “nhất nguyên luận”, nên không thích “phân biệt” (distinction). Do đó, Đông Phương thường nhấn mạnh tính chất “Nội Tại” của Vị Chủ Tể nơi vạn sự vạn vật, còn Thiên Chúa Giáo và triết lý Tây Phương thì ưa thích luận lý “biện biệt” và đề cao bản tính Siêu Việt Tuyệt Đối của Vị Chủ Tể trên hết mọi sự mọi loài trong vũ trụ.



Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!