Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng

Gs. Nguyễn Văn Thành
Mục Lục

Chương I : Cuộc-đời muôn màu muôn sắc

Chương II : Chiếc cầu tre lắc lẻo

Chương III : "Tin là Yêu"

Chương IV : Con đường Đức-tin diệu vợi

Chương V : Ánh-sáng đến trong thế-gian

Chương VI : Trời mới - Đất mới

Chương VII : "Tấm và Cám" trong nội tâm của Chúng ta

Chương VIII : Đức Kitô trở lại trong vinh quang

Chương IX : Chuyển hoá môi trường

Chương X : Mầu-nhiệm Thánh-giá

Chương XI : Rao giảng Tin-mừng

Chương XII : Hướng đến một nền Thần học Việt Nam

Chương XIII : "Anh em hãy vui luôn..."

Chương XIV : "Đức Kitô là tất cả"

Chương XV : Trong Đức Kitô

Chương XVI : Thiên Chúa làm "Bụi đất"

Chương XVII : "Xin đừng sợ"

Chương XVIII : Hỡi Tín-hữu, ngươi ta ai?

Chương XIX : Đức-tin và Văn-hoá

Chương XX : Thay lời kết - Hãy trao cho nhau một tấm lòng...

CÙNG MỘT TÁC GIẢ

Lắng Nghe, Một Quà Tặng Vô Giá !

Lòng Tự Tin - Hành trang cho ngàn năm thứ ba

Khung trời mở rộng bằng con đường thuyên giải

Bản câu hỏi về tính tình

Phát Huy Quan Hệ Xã Hội Trong Vấn Đề Giáo Dục Trẻ Em Tự Kỷ

Trong Đức Kitô

Nguy cơ Tự Kỷ (nơi trẻ em từ 0 đến 7 tuổi)

Trẻ Em Tự Bế (Autistic Children) - Phương thức giáo dục và dạy dỗ

Quan hệ mẹ con : Bài học đầu tiên của cuộc sống

Phương Pháp Tâm Vận Động

Trẻ Em Chậm Phát Triển

Đồng Cảm Để Đồng Hành

Lắng Nghe Chúa Thánh Thần

Đối Thoại Một quê hương Tình Người

Nguyễn Trãi, Vạn Xuân và Đại Việt

Con Đường Bao Dung

Huyền Sử Việt Nam

Tư Duy và Hành Động

Trong Đức Kitô
Chương XIX : Đức-tin và Văn-hoá

   Đã một thời Trần Thủ Độ - vị công thần sáng lập Nhà Trần - đào hầm gài bẫy, tìm cách tận diệt mọi con cháu Nhà Họ Lý. Nhưng rồi vào cuối đời, Nhà Trần lại trở thành nạn nhân của Hồ Quí Ly.

   Sau đó chừng 20 năm, Lê Lợi, trước khi lên ngôi hoàng đế, mang danh hiệu Lê Thái Tổ, đã tìm cách sát hại Trần Nguyên Hản, vị tướng lãnh đã nằm gai nếm mật với mình suốt thời gian kháng chiến chống quân minh.

   Nguyễn Văn Thành bị thủ tiêu dưới Triều Nguyễn, sau khi bôn ba xuôi ngược, phục vụ Chúa Nguyễn và Vua Gia Long.

   Ngô Đình Diệm bị lật đổ và sát hại, do những tướng lãnh được chính ông tin dùng và thăng thưởng.

   Nhưng cũng chính Ngô Đình Diệm đã tổ chức trưng cầu dân ý truất phế Bảo Đại, người đã kêu gọi ông làm thủ tướng lập chính phủ năm 1954.

   Tôi có thể từ Trần Thủ Độ trở lên thời các vua Hùng hay là từ năm 1964 khảo sát lịch sử cho tới ngày hôm nay, để thấy rằng: "thanh trừng nhau" là qui luật cứ luôn trở đi trở lại, theo đuổi, ám ảnh những ai mang dòng máu Tiên Rồng trong huyết quản... Từ thời kỳ chủ nô, sang qua những chế độ phong khiến. Tuy nhiên với ý thức hệ Mác-Lê, tự thấy mình là Đỉnh-cao trí-tuệ của loài người, hiện tượng "thanh trừng nhau", người bóc lột người, người đàn áp người, người ăn hối lộ người... vẫn là con vi khuẩn lây lất tràn lan...

   Những tôn giáo hô hào mình là 80 hay 90 phần trăm của dân tộc đã làm gì trong bản thân mình, để hoá giải những tham hận sân si ấy? Dưới ba triều đại Lý - Lê - Trần, được gọi là đỉnh cao của nền văn hoá tam giáo, bạo động vẫn luôn là bóng đêm đe doạ, che lấp một vài ánh lửa nhóm lên đó đây, trong lòng dân tộc!

   Vừa rồi đây, đã có người khẳng định ỏm tỏi qua báo chí về một cuộc "hôn phối kỳ diệu giữa nền văn hoá dân tộc Việt Nam với Đức-tin Công-giáo suốt bốn thế kỷ qua, làm lên nét văn hoá Kitô". Cũng theo một nguồn tin ấy "Đức-tin Công-giáo đã thăng hoa những giá trị tích cực, nâng cao văn hoá dân tộc...".

   Không ai cấm cản chúng ta mơ. Có mơ mới có khả năng sống. Paulo Cuelho thối thúc giới trẻ khắp năm châu hãy nuôi dưỡng giấc mơ đang có mặt trong đáy sâu tâm hồn của mỗi người.

   Tuy nhiên, người sáng suốt, nhất là những ai có vai trò ngôn sứ, mang trách nhiệm lãnh đạo trong lòng đất nước, cần phân biệt rõ ràng cái gì là thực, cái gì là mơ trong tất cả lời phát biểu và tuyên bố của mình.

   Lãnh đạo đích thực không bao giờ chơi trò mị dân; nghĩa là úp úp, mở mở, trắng không ra trắng, đen cũng không cho là đen.

   Từ một vài sự kiện còn rất lẻ tẻ, chúng ta không thể vội vã rút ra những qui luật tổng quát.

   Mỗi lần nhìn và mỗi lần nói, chúng ta có xu thế gạn lọc: giữ lại, ghi lại những gì thuận chiều cho chúng ta. Với tất cả những gì ngược chiều, chúng ta "bịt tai" không nghe "che mắt lại" không muốn thấy, và "ngậm câm miệng" không cho biết ý kiến trung thực của lòng mình. Chúng ta "im lặng đồng loã"

   Khi đứng bên nầy phát biểu, nhận định, có bao giờ chúng ta chấp nhận thử chọn tìm vị trí phía bên kia. Lúc ấy lời phát biểu sẽ như thế nào?

   Khi đề cao Đức-tin Công-giáo, tôi cần nhạy bén thấy cho được Nhóm "Đối-thoại Giao-điểm" đang có mặt trong cử toạ. Tưởng tượng cho được lời chất vấn của họ, tôi sẽ dẫn chứng nhiều hơn, thay vì nhảy vọt một cách lung tung từ khẳng quyết nầy đến khẳng quyết khác. Từ tuyên bố nầy đến tuyên bố nọ... Thay vì tuyên bố, hãy sử dụng với nhau ngôn ngữ lắng nghe, hiểu biết, yêu thương của Chúa Thánh Thần.

   Trong tình hình của Đất-nước Việt Nam, với bao nhiêu vết thương đang còn lở lói, nhức nhói, rướm máu... chỉ cần một hạt cát rất nhỏ, từ đâu đó lẻn vào, một hạt cát không đâu... nạo dần, nạo dần, làm tiêu hao, đứt đoạn mối tình đồng bào đang bao bọc những quyền lợi làm người, những quyền lợi "khác biệt" của từng người. Mẫu số chung của người Việt Nam là nền Văn-hoá Việt Nam đã có mặt từ đời Lạc Long Quân và bà Âu Cơ. Hình tượng có ý nghĩa nhất về nền Văn-hoá Việt Nam là cánh đồng lúa Việt Nam từ Bắc vào Nam. Cánh đồng ấy tạo nên lương thực cho chúng ta, từ xưa cho tới nay và từ nay về sau. Bao nhiêu mồ hôi, nước mắt đã, đang và sẽ đổ ra trên đó. Soi lòng minh vào đồng lúa Việt Nam, tôi thấy tôi đã có mặt trong các Vua Hùng, Vua Lý, Vua Trần, Vua Lê... Tôi vừa là Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Quang Trung, Nguyễn Ánh, Phan Thanh Giản...

   Tuy nhiên không có bàn tay lao động cần cù lam lũ của chúng ta hôm nay trong vòng vài ba tháng, cánh đồng lúa mùa ấy sẽ đầy gai gốc, cỏ lùng... Cánh đồng ấy gây chết chóc, lầm than, vì có lần nó đã bị chúng ta biến thành hầm chông hay là bãi mìn tự động.

   Có người sẽ đơn phương tuyên bố: Bom, mìn ấy do Pháp, Mỹ, Nga, Tàu mang đến. Nhưng bốn cường quốc ấy đã mang tới những gì do người Việt Nam ngửa tay xin viện trợ. Mình yêu cầu thuốc men, kỹ thuật hay là xe tăng, súng đạn? Mình xin một tấm lòng; họ sẽ đến với một tấm lòng. Khi họ đội lốt Nhân-nghĩa, văn hoá đại đồng để thực dân; chúng ta có đủ khả năng kháng chiến như Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã làm đối với Quân Minh, cách đây hơn 600 năm.

   Cánh đồng Việt Nam cũng như Văn-hoá Việt Nam do bàn tay, quả tim và trí óc của người Việt Nam không ngừng sáng tạo. Đã đang và sẽ sáng tạo bằng một tiến trình góp tay liên tục. Trên tiến trình ấy, không ai bị loại trừ. Mọi người kiện toàn và bổ túc nhau với vốn liếng, năng lực hiện hữu của mình.

   Và khi ở trên tiến trình, sáng tạo có nghĩa là thường xuyên sửa sai, đổi mới. Tự mãn, tự hào cho mình là điểm đến, điểm dừng, điểm cao nhất là tự huỷ, đi xuống mồ. Tự tử.

   Để xây dựng nền Văn-hoá Việt Nam ấy, mọi tôn giáo, ý thức hệ, thậm chí những nền văn minh mang tên là đại đồng và những nền văn hoá được gọi là "hoàn vũ hoá", đều là những "đóng góp" với điều kiện được "hội nhập". Hội nhập có nghĩa là được đưa vào bên trong, được tiêu hoá, thành xương da, máu thịt của người Việt Nam. Bao lâu còn ở ngoài, một cơ phận được ghép vào vẫn còn là ngoại lai. Cơ phận ấy vẫn còn là nguy cơ bị toàn bộ cơ thể loại thải, không được đón nhận. Thậm chí, Thiên Chúa, Đức Kitô, Hội-thánh... vẫn bị coi là ngoại lai, nếu chính người Việt Nam chưa hội nhập Đức-tin của mình vào lòng Văn hoá Việt Nam. Chưa tuyên xưng Đức-tin vào Đức Kitô, bằng chính ngôn ngữ được vun trồng, nuôi sống và phát triển trong môi trường Văn-hoá Việt Nam.

   Với tinh thần và lăng kính ấy, để tránh những ngộ nhận, cũng như nhằm tôn trọng người anh chị em đồng hương đồng bào, cách sử dụng ngôn ngữ phải chính xác rõ ràng: Đức-tin thì hội nhập. Có nhiều loại Đức-tin khác nhau, tuỳ thuộc vào tôn giáo đã được mang vào môi trường Việt Nam: Khổng-giáo, Phật-giáo, Lão-giáo và Kitô-giáo từ hơn bốn thế kỷ cho đến ngày hôm nay. Sau đó, có thêm nhiều tôn giáo khác xuất hiện ở miền Nam Việt Nam.

   Văn hoá trái lại, chỉ có Một trên quê hương Việt Nam. Đó là nền Văn-hoá Việt Nam.

   Không tế nhị về mặt ngôn ngữ, chúng ta sẽ có xu thế sử dụng những cách nói như Văn-hoá Công-giáo, Văn-hoá Phật-giáo... Mỗi tôn giáo lúc bấy giờ sẽ trở thành "một quê hương trong quê hương". Từ đó có sự tranh giành xung đột về ảnh hưởng và danh xưng. Vấn đề chung sống hoà bình sẽ bị nát bấy giữa các tôn giáo! Vì khôn ngoan, tế nhị chúng ta cần tránh những ngôn từ luộm thuộm, thiếu chính xác. Đó là một cách xây dựng nền văn hoá hoà bình, đề cao lòng kính trọng đối với tính khác biệt của mỗi người anh-chị-em đồng-bào.

   Để mỗi tôn giáo cũng như mỗi hình thức văn minh, mỗi ý thức hệ có thể đóng góp phần mình, hơn bao giờ hết, đây là lúc chúng ta cần can đảm ngồi lại với nhau. Trong một tinh thần bình đẳng và quan hệ tôn trọng tính khác biệt của nhau, chúng ta cùng nhau lần lượt khảo sát ba vấn đề chủ yếu:

   1. Bản sắc của Văn-hoá Việt Nam bao gồm những đặc điểm nào?

   2. Đức tin của các tôn giáo có khả năng mang lại phần đóng góp nào cho Văn-hoá Việt Nam.

   3. Thiếu ngôn ngữ của văn hoá để diễn tả, trình bày mình, Đức-tin có thể đi vào lòng của quê hương, trở thành của ăn nuôi sống anh chị em đồng bào hay không?

 

***

   Nói đến bản sắc của Văn-hoá Việt Nam, chúng ta dễ lạc đường trong vòng mê cung sâu thẳm như đền tháp Cổ Loa. Rút cuộc, không còn ai nghe ai; không còn ai hiểu ai. Ông nói gà, bà nói vịt, khi khổ đau tràn ngập và ngự trị trong tâm hồn mỗi người.

   Khi bàn về văn hoá, tôi sở hữu hoá phương pháp của tác giả St. Covey: Cái gì trước nói trước. Cái gì sau nói sau. Nói một cách rõ ràng, khúc chiết, ai ai cũng có thể tiếp thu. Nói xong rồi, tôi lắng nghe một các cẩn trọng, bởi vì trong đáy sâu cõi lòng, tôi xác tín rằng người khác - bất kể khác ở điểm nào - cũng mang lại cho tôi một bài học, để bổ túc kiện toàn những gì đang còn thiếu sót trong tôi.

   Đặc điểm và tính chất bao dung ấy xác định bản chất cột trụ của nên Văn-hoá Việt Nam, từ ngày Lạc Long Quân kết thành hôn phối với Âu Cơ, đẻ ra một bọc trứng. Từ bọc trứng ấy, một trăm người con Việt Nam đã sinh ra. Mỗi người theo sở thích và sở trường của mình, chọn một hướng của Núi-sông để khai khẩn làm ăn. Người trèo lên non như các bộ lạc Mường, Thái... người xuống suối làm nghề chài lưới. Người đi về phương Bắc , để dồi mài kinh sử. Người xuống miền Nam để khẩn hoang lập ấp. Người chọn miền Tây, vì thích núi sông hùng vĩ. Người nghe tiếng gọi của biển cả, thì tìm về phương hướng của mặt trời mọc... Dù sống rãi rác ở khắp nơi, khi đất nước gặp vận gian nguy, thì trăm đứa con tìm về với nhau. Trăm người như một, một người như trăm. Ba lần quân thù từ phương Bắc xâm chiếm đất nước Vạn Xuân và Đại Việt, ba lần đều bị đánh bại và phải rút lui khỏi biên thuỳ của chúng ta.

   Tuy nhiên những người Nước-ngoài, khi gặp hoạn nạn tại quê hương mình, ở phương Bắc cũng như ở Vùng đất Ấn-độ, đến xin trú ngụ, đều được đón nhận vào Đại gia-đình một trăm đứa con. Người Việt Nam không "bài ngoại".

   Tinh thần bao dung ấy cũng có mặt trong lãnh vực hành trì của ba tôn giáo Khổng, Phật và Lão. Một đạo sĩ có thể sống nhiều năm tháng, trong một chùa chiền của Phật-giáo. Một thượng toạ hoặc thiền sư thuộc đạo Phật cũng có thể am tường Khổng học giống như một nho sĩ... Khi tôi tuyên xưng "Đức Kitô là tất cả". Đức Kitô của tôi không loại trừ Đức Bụt hay là Đức Khổng Tử... và những đóng góp của nhiều người khác.

   Trong đời sống của người dân bình thường, lòng bao dung ấy rất dễ bị đồng hoá với khuynh hướng chắp nối lộn xộn hay là làm vui lòng mỗi người khách, mọi thần phật, thánh tiên, bất kể họ đến từ nơi đâu, từ một tôn giáo nào. Một cách đặc biệt, khi "hữu bệnh, vái tứ phương". Hẳn thực, khi cần một điều gì, người dân có thể đến chùa cầu kinh, sau đó ra cây cổ thụ ở trên đường làng, đốt một nén hương. Hay là đi xin xăm với một thầy bói.

   Trong bao nhiêu lề lối hành xử ấy, tác phong hay hành vi khách quan có vẽ "bắt râu ông nọ đặt cằm bà kia". Thế nhưng phần vụ hay là ý hướng căn bản ở đằng sau, ở bên dưới là lòng bao dung thúc dục đón nhận mọi người khách thuộc giới hữu hình cũng như vô hình. Và khi một người khách đến nhà, đúng vào bữa cơm, người khách ấy được mời vào bàn. Chủ nhà lấy thêm một đôi đũa. Con cái hôm ấy tự động mỗi đứa bớt xuống một ít phần cơm của mình, để "mở rộng lòng Nhân, chờ khách tới", như lơi Nguyễn Trãi nhắn lại với cháu chắt hậu sinh. Hẳn thực, theo niềm xác tín của người Việt Nam, được lưu truyền qua hàng bao thế hê, "nhịn miệng đãi khách" là một bài học không lời, một lối "Vun trồng cây Đức, để nuôi con". Cây Đức ở đây mang ý nghĩ: "Minh Minh Đức": đánh sáng mỗi ngày cái đức tính sáng ngời, cái chất người đã có mặt trong tấm lòng của chúng ta.

   Cái đức sáng ấy không phải là đức làm người cố định, bất di bất dịch (humanitas semper eadem, theo cách nói của người Rôma). Nhưng là tân dân hay là nhật nhật tân, đổi mới từng ngày, làm mới lại không ngừng. Theo người La-tinh, đó là humanitas reformanda. Bản sắc của văn hoá là một cách làm người, cần được cho vào lò mỗi ngày; nung đúc lại, luyện lại. Cơ hồ Mặt Trời mỗi ngày lên Đông, xuống Đoài. Nhưng không ngày nào giống ngày nào.

   Nhằm thực hiện cuộc đổi mới từng ngày ấy, Văn-hoá Việt Nam đề nghị bốn con đường:

    Con đường thứ nhất là "bá nhân bá tánh". Ở đâu có 100 người, ở đó có 100 ý kiến. Chấp nhận lối nhìn của người anh-chị-em để đổi mới chính bản thân mình. Tính khác biệt của từng người là một tất yếu.

    Con đường đổi mới thứ hai là "một miếng ở giữa làng bằng một sàng ở xó bếp".

   Làng ở đây là đình làng. Nơi đó cá nhân, sau khi đã ăn nói, phải nhường lời quyết định cho cộng đồng. Cho bá tánh. Cho trăm họ.

   Hội thề Lũng Nhai của Lê Lợi và Nghĩa quân cũng như hội nghị Diên Hồng là hai minh hoạ có tính lịch sử về tầm quan trọng của quyết định cộng đồng. Theo lối trình bày của thuyết cấu trúc, Đại thể không phải là một tổng cộng như một đống đá, đống gạch hỗn mang lộn xộn. Nhưng là một cơ thể sống động do nhiều chi thể hay cơ phận tác động trên nhau, sinh thành nhau, nuôi sống qua lại lẫn nhau. Một con ngựa đau, cả tàu không ăn cỏ. Chính vì lý do nầy mà "phép vua vẫn thua lệ làng". Cộng đồng là Làng, là Đất-nước.

    Con đường thứ ba là dòng máu "làm Rồng" của Lạc Long Quân có mặt và sôi sục trong mỗi người Việt Nam. Quả tim Đại-dương của họ luôn luôn đón nhận mọi dòng sông và con nước, từ muôn phương, từ mỗi chân trời gửi tới. Khi nước dâng lên, chúng ta đến với mọi bến bờ. Khi nước hạ xuống, chúng ta hội nhập mọi trào lưu tư tưởng thức thời trong cõi lòng chúng ta.

    Con đường đổi mới thứ bốn là tấm lòng cao cả của Âu Cơ. Quê hương của Mẹ là Đỉnh-núi và Bầu-trời. Cho nên lối nhìn của người Việt Nam luôn luôn bao gồm ý hướng "Tri thiên mệnh". Lối nhìn nầy không mang tính chất duy tâm cực đoan. Theo cách thuyên giải của Đoạn Trường Tân Thanh, tri thiên mệnh đồng nghĩa vơi tùng tâm của tuổi 50 và nhỉ thuận của tuổi 60. Tùng-tâm và Nhĩ thuận có nghĩa là đi theo, lắng nghe một tấm lòng. Trang trãi tấm lòng. Trên đây tôi đã trích dẫn câu thơ của Nguyễn Trãi:

      "Mở rộng cửa Nhân, chờ khách tới;

      Vun trồng cây Đức, để nuôi con".

   Hiểu được Nguyễn Trãi là hiểu được con đường đổi mới nền Văn Hoá, với một tấm lòng cao cả của bà Âu Cơ.

  

*** 

   Thay vì mở rộng và đi lên, để đổi mới mình, đổi mời anh-chị-em đồng bào và đổi mới quê hương, chúng ta đã có lần dấn thân vào hai con đường bế tắc hay là thoái trào. Mỗi lần như vậy , chúng ta đã khổ đau và không biết cách hoá giải.

    Con đường bế tắc thứ nhất là Thủy-tinh còn mang tên là "Rước voi dày mã tổ", làm tay sai cho thực dân, cho ngoại lai.

    Con đường bế tắc thứ hai là Sơn-tinh hay là "Bế quan toả cảng"; khép kín biên thuỳ, giam đói cả một dân tộc về mặt vật chất cũng như trên bình diện tinh thần. Khai trừ mọi đóng góp từ bốn phương cống hiến.

   Sở dĩ chúng ta đã vòng vo, luẩn quẩn vì chúng ta mù quáng, đuổi bắt những bóng hình vô tưởng, vô thực, Mị-nương là biểu tượng tạo nên bao nhiêu khổ đau tràn ngập trong lòng Đất-nước, từ đời nầy qua đời nọ. Từ triều đại nầy qua triều đại khác. Từ chính thể nầy qua chính thể khác.

   Trong lòng đất nước, không phải chỉ có một Mị-nương, một người để yêu mà thôi. Không phải chỉ có một cách để yêu và loại trừ bao nhiêu cách yêu khác. Thực tại thì bao la, muôn màu muôn sắc. Khổ đau xảy ra khi chúng ta giản lược thực tại thành một nhãn hiệu, một giáo điều, một ý thức hệ duy nhất. Từ đó mới có não trạng nhị nguyên: Tao hơn mầy thua. Tao tốt, mầy xấu. Tao có lý, mầy phi lý. Tao yêu nước, mầy bán nước...Não trạng Nhị nguyên nầy cũng còn nằm vùng trong mọi tôn giáo.

  

***

   Nói đến văn hoá, như tôi vừa mới khai mở một vài hướng đi, chúng ta cần ý thức đến hai năng động đối nghịch nhau: Ánh sáng và bóng tối. Sức sống vươn lên, sức nặng ù lì. Hai tay mở ra đón nhận, kêu mời. Hai tay bóp cổ, sát hại, bạo động, ám sát. Cả hai đều đều có mặt cùng một lúc trong chúng ta.

   Nói đến văn hoá là nói đến con người xương máu, cụ thể. Cho nên đừng hoan hô bên nầy đả đảo bên kia. Trong thân phận làm người, tre già thì măng mọc. Chỗ nào có ăn thì chỗ đó có phế liệu. Có rác tràn ra đường. Bên cạnh những mầm non vương lên, luôn luôn có sức năng ù lì kéo trở lại.

   Con người có văn hoá là con người có khả năng chuyển hoá:

    "Chuyển luân rác nuôi sống những cánh đồng,

    Giữa sa mạc làm tuôn chảy dòng sông

    Trong chết chóc, vun trồng hạt mầm sống

    Đường chúng ta: Thứ tha và hy vọng".

   Trong những điều kiện và bối cảnh của văn hoá, vai trò của tôn giáo hay của Đức-tin... là hộ sinh: giúp con người ngày ngày biết "làm người" hơn ngày hôm trước. Chất người nở thành hoa và kết trái, bằng cách hút nhựa sống, chính trong lòng đất, bầu khí quyển và ánh sáng mặt trời bao quanh mình, nâng đỡ và hạn chế mình.

   Mặt trời là hình tượng tuyệt vời nhất trình bày cho chúng ta về vai trò của Đức-tin trong lòng cuộc sống làm người. Theo Lão Tử và Trang Tử, mặt trời không làm gì hết. Nói đúng hơn, làm mà như không làm, theo cách "Vi vô vi":

    Thứ nhất, mặt trời làm cho cây nào thành cây ấy. Cây sen thì nở hoa sen, không thể nở hoa thuỷ tiên.

    Thứ hai, mặt trời làm một cách tế nhị, kín đáo, không khua chiêng gõ mõ, theo kiểu "Vinh thăng, háu thắng, áp đặt quyền lực".

    Thứ ba, mặt trời đáp ứng nhu cầu của cỏ cây về ánh sáng và hơi ấm. Mặt trời không làm thay, làm thế. Chính cỏ cây phải chuyển biến mặt trời thành nhựa sống nuôi dưỡng mình.

    Thứ bốn, mặt trời không mang ý chí toàn năng, không chiếm độc quyền về sự sống. Bên cạnh mặt trời, cỏ cây cũng cần đất màu, khí thở và nước tưới... Quá nhiều mặt trời, cỏ cây bị đốt cháy. Thiếu mặt trời, cỏ cây không có năng lực, để phát triển.

  

***

   Trong điều kiện của văn hoá Việt Nam, nếu Đức-tin vào Đức Kitô không sử dụng bốn con đường đổi mới của văn hoá Việt Nam, được phác hoạ trên đây, Đức-tin sẽ mãi hoài đứng ở ngoài "niềm ưu tư và nỗi hy vọng" của con người Việt Nam.

   Thêm vào đó, nếu Đức-tin tạo duyên cớ, để có người "rước voi về dày mả tổ" hay là biến Hội-thánh thành một "biệt thự kín cổng cao tường", vấn đề của người Việt Nam, thay vì được hoá giải, sẽ càng ngày càng trở nên trầm trọng hơn!

  

***

   Hôm ấy, giữa ngủ và thức, tôi nằm mơ: chính mình tôi đang hoa tay múa cánh hô hào một cuộc đổi mới toàn diện cho mọi người ở trên trần gian nầy.

   Cùng lúc ấy Thần Kim Qui hiện hình dịu dàng và mỉm cười hỏi tôi:

    • Con muốn khởi sự từ xứ sở nào, trong kế hoạch đổi mới?

   -    Thưa Ngài, lẽ tất nhiên con bắt đầu từ quê hương Việt Nam của con!

    • Trên quê hương Việt Nam từ thành phố nào?

   -     Bẩm Ngài, từ Huế, nơi con đã lớn lên và đang sinh sống!

    • Tại Huế trên con đường nào?

   -     Trên con đường có nhà con!

    • Và trong nhà con, con bắt đầu đổi mới ai?

   -     Con xin chọn chính mình con là con người phải đổi mới đầu tiên!

   Thần Kim Qui kết luận: "Đất nước con đã bắt đầu đổi mới! Có một thì thế nào cũng có mười!".



Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!