Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng

BBT CGVN YouTube
Thánh Kinh Công Giáo
Cầu nguyện bằng email
Hội Đồng Giám Mục VN
Liên Lạc

Văn Kiện Vatican 2

Lectio divina

Suy Niệm & Cầu Nguyện

Học Hỏi Kinh Thánh

Lớp KT Sr Cảnh Tuyết

Nova Vulgata

Sách Bài Đọc UBPT

LỜI CHÚA LÀ ÁNH SÁNG

GH. Đồng Trách Nhiệm

TAN TRONG ĐẠI DƯƠNG

Video Giảng Lời Chúa

Giáo Huấn Xã Hội CG

Tuần Tin HĐGMVN

Vụn Vặt Suy Tư

Giáo Sĩ Việt Nam

ThăngTiến GiáoDân

Bản Tin Công Giáo VN.

Chứng Nhân Chúa Kitô

Thánh Vịnh Đáp Ca

Phúc Âm Nhật Ký

Tin Vui Thời Điểm

Tin Tức & Sự Kiện

Văn Hóa Xã Hội

Thi Ca Công Giáo

Tâm Lý Giáo Dục

Mục Vụ Gia Đình

Tư Liệu Giáo Hội

Câu Chuyện Thầy Lang

Slideshow-Audio-Video

Chuyện Phiếm Gã Siêu

Các Tác Giả
  Augustinô Đan Quang Tâm
  Đinh Văn Tiến Hùng
  Ban Biên Tập CGVN
  Bác sĩ Ng Tiến Cảnh, MD.
  Bác Sĩ Nguyễn Ý-Đức, MD.
  Bùi Nghiệp, Saigon
  Bosco Thiện-Bản
  Br. Giuse Trần Ngọc Huấn
  Cursillista Inhaxiô Đặng Phúc Minh
  Dã Quỳ
  Dã Tràng Cát
  Elisabeth Nguyễn
  Emmanuel Đinh Quang Bàn
  Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB.
  EYMARD An Mai Đỗ O.Cist.
  Fr. Francis Quảng Trần C.Ss.R
  Fr. Huynhquảng
  Francis Assisi Lê Đình Bảng
  Gia Đình Lectio Divina
  Gioan Lê Quang Vinh
  Giuse Maria Định
  Gm Phêrô Huỳnh Văn Hai
  Gm. Giuse Đinh Đức Đạo
  Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
  Gm. JB. Bùi Tuần
  Gm. Nguyễn Thái Hợp, op
  Gm. Phêrô Nguyễn Khảm
  Gs. Đỗ Hữu Nghiêm
  Gs. Ben. Đỗ Quang Vinh
  Gs. Lê Xuân Hy, Ph.D.
  Gs. Nguyễn Đăng Trúc
  Gs. Nguyễn Văn Thành
  Gs. Phan Văn Phước
  Gs. Trần Duy Nhiên
  Gs. Trần Văn Cảnh
  Gs. Trần Văn Toàn
  Hạt Bụi Tro
  Hồng Hương
  Hiền Lâm
  Hoàng Thị Đáo Tiệp
  Huệ Minh
  HY. Nguyễn Văn Thuận
  HY. Phạm Minh Mẫn
  JB. Lê Đình Nam
  JB. Nguyễn Hữu Vinh
  JB. Nguyễn Quốc Tuấn
  Jerome Nguyễn Văn Nội
  Jorathe Nắng Tím
  Jos. Hoàng Mạnh Hùng
  Jos. Lê Công Thượng
  Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
  Joseph Vũ
  Khang Nguyễn
  Lê Thiên
  Lm Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, HKK
  Lm Đaminh Hương Quất
  Lm. Anmai, C.Ss.R.
  Lm. Anphong Ng Công Minh, OFM.
  Lm. Anrê Đỗ Xuân Quế op.
  Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
  Lm. Đan Vinh, HHTM
  Lm. Đỗ Vân Lực, op.
  Lm. G.Trần Đức Anh OP.
  Lm. GB. Trương Thành Công
  Lm. Giacôbê Tạ Chúc
  Lm. Gioan Hà Trần
  Lm. Giuse Hoàng Kim Đại
  Lm. Giuse Lê Công Đức
  Lm. Giuse Ngô Mạnh Điệp
  Lm. Giuse Trần Đình Thụy
  Lm. Giuse Vũ Thái Hòa
  Lm. Inhaxio Trần Ngà
  Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
  Lm. JB Trần Hữu Hạnh fsf.
  Lm. JB. Bùi Ngọc Điệp
  Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh
  Lm. Jos Đồng Đăng
  Lm. Jos Cao Phương Kỷ
  Lm. Jos Hoàng Kim Toan
  Lm. Jos Lê Minh Thông, OP
  Lm. Jos Nguyễn Văn Nghĩa
  Lm. Jos Phan Quang Trí, O.Carm.
  Lm. Jos Phạm Ngọc Ngôn
  Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
  Lm. Jos Trần Đình Long sss
  Lm. Jos.Tuấn Việt,O.Carm
  Lm. Lê Quang Uy, DCCT
  Lm. Lê Văn Quảng Psy.D.
  Lm. Linh Tiến Khải
  Lm. Martin Ng Thanh Tuyền, OP.
  Lm. Minh Anh, TGP. Huế
  Lm. Montfort Phạm Quốc Huyên O. Cist.
  Lm. Ng Công Đoan, SJ
  Lm. Ng Ngọc Thế, SJ.
  Lm. Ngô Tôn Huấn, Doctor of Ministry
  Lm. Nguyễn Hữu An
  Lm. Nguyễn Thành Long
  Lm. Nguyễn Văn Hinh (D.Min)
  Lm. Pascal Ng Ngọc Tỉnh
  Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn
  Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
  Lm. Phạm Văn Tuấn
  Lm. Phạm Vinh Sơn
  Lm. PX. Ng Hùng Oánh
  Lm. Raph. Amore Nguyễn
  Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ
  Lm. Tôma Nguyễn V Hiệp
  Lm. Trần Đức Phương
  Lm. Trần Mạnh Hùng, STD
  Lm. Trần Minh Huy, pss
  Lm. Trần Việt Hùng
  Lm. Trần Xuân Sang, SVD
  Lm. TTT. Võ Tá Khánh
  Lm. Vũ Khởi Phụng
  Lm. Vĩnh Sang, DCCT
  Lm. Vinh Sơn, scj
  Luật sư Đoàn Thanh Liêm
  Luật sư Ng Công Bình
  Mẩu Bút Chì
  Mặc Trầm Cung
  Micae Bùi Thành Châu
  Minh Tâm
  Nữ tu Maria Hồng Hà CMR
  Nguyễn Thụ Nhân
  Nguyễn Văn Nghệ
  Người Giồng Trôm
  Nhà Văn Hương Vĩnh
  Nhà văn Quyên Di
  Nhà Văn Trần Đình Ngọc
  Nhạc Sĩ Alpha Linh
  Nhạc Sĩ Phạm Trung
  Nhạc Sĩ Văn Duy Tùng
  Phaolô Phạm Xuân Khôi
  Phêrô Phạm Văn Trung
  Phó tế Giuse Ng Xuân Văn
  Phó tế JB. Nguyễn Định
  Phùng Văn Phụng
  Phạm Hương Sơn
  Phạm Minh-Tâm
  PM. Cao Huy Hoàng
  Sandy Vũ
  Sr. Agnès Cảnh Tuyết, OP
  Sr. M.G. Võ Thị Sương
  Sr. Minh Thùy, OP.
  Têrêsa Ngọc Nga
  Tín Thác
  TGM. Jos Ngô Quang Kiệt
  TGM. Phaolô Bùi Văn Đọc
  Thanh Tâm
  thanhlinh.net
  Thi sĩ Vincent Mai Văn Phấn
  Thiên Phong
  Thy Khánh
  Thơ Hoàng Quang
  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập
  Tiến Sĩ Tâm Lý Trần Mỹ Duyệt
  Tiến Sĩ Trần Xuân Thời
  Trầm Tĩnh Nguyện
  Trầm Thiên Thu
  Trần Hiếu, San Jose
  Vũ Hưu Dưỡng
  Vũ Sinh Hiên
  Xuân Ly Băng
  Xuân Thái
Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
  GH. Đồng Trách Nhiệm
LÒNG BIẾT ƠN HỘI THÁNH

Suy niệm tĩnh tâm linh mục quý II, thứ ba 17.4.2012

Nếu đặt vấn đề trả ơn, thì ngay cả ơn nghĩa của con người, có khi ta còn chưa trả hết, đừng nói tới trả ơn Thiên Chúa. Ta không bao giờ trả nổi ơn Chúa ban cho mình. Để cố gắng đáp lại tình Chúa, thì không phải là tìm cách trả ơn Người, nhưng là yêu quý, trân trọng, giữ gìn những gì Người ban tặng mà thôi. Bởi đó, phải yêu quý sự sống của mình, yêu bản thân, yêu con người và yêu cuộc đời.

Trong khuôn khổ bài suy niệm này, chúng ta chỉ nói đến lòng biết ơn đối với Hội Thánh mà tất cả chúng ta cần phải có. Lòng biết ơn Hội Thánh sẽ giúp anh em linh mục chúng ta làm việc cho Danh Chúa hơn, hăng say hơn và đáng yêu hơn. Vậy chúng ta hãy bắt đầu bằng tấm gương của những nhà lãnh đạo trong Hội Thánh, qua đó gợi hứng cho chúng ta lòng biết ơn Hội Thánh.

I. CÁC ĐỨC GIÁO HOÀNG CỦA NỬA SAU THẾ KỶ XX ĐẾN NAY.

Không thể nói hết mọi tấm gương của các triều đại giáo hoàng, chỉ xin nhắc đến những giáo hoàng của vài thập niên gần đây như những đại diện cho cả Hội Thánh dám băng mình chóng chọi cùng mọi đầu sóng ngọn gió để gìn giữ gia sản đức tin hết sức anh dũng cho đến ngày nay và trao lại cho chúng ta.

Cái chết của Đức Piô XII (ngày 9.10.1958, tại Castel Gandolfo), đối với toàn Hội Thánh, không chỉ thương tiếc, mà còn là một “cú sốc”. Bởi ngài là vị Giáo hoàng xuất sắc. Ngài đã dẫn dắt Hội Thánh đi qua mọi cơn biến loạn cách khôn ngoan và khéo léo. Đặc biệt, suốt sáu năm đầu triều đại của mình, Đức Piô XII đã phải thi hành chức năng mục tử trong chiến tranh thế giới lần thứ hai (1939-1945) đầy thảm khốc, đớn đau. Vì thế mà giáo triều Rôma thật sự bối rối trong việc tuyển chọn một trong Hồng y đoàn để có thể nối tiếp sự nghiệp của Đức Piô XII trên ngai tòa Phêrô. Khả năng tìm người kế nhiệm thật khó khăn dù lúc đó có 63 vị Hồng y có quyền bầu phiếu.

Nhưng rồi mật nghị Hồng y cũng phải kết thúc. Khói trắng rồi cũng bay lên từ nóc điện Vatican. Một tân Giáo Hoàng cũng đã đắc cử. Hồng y Angelo Giuseppe Roncalli đã được cất nhắc với tông hiệu Gioan XXIII. Nhưng trong suy nghĩ của nhiều người, Đức tân Giáo hoàng chỉ là một “viên gạch nối” chờ đợi một giáo hoàng khác sáng chói hơn, thậm chí… xứng đáng hơn lãnh đạo Hội Thánh.

Nhưng người ta lầm. Đúng hơn, ơn Chúa thì kỳ diệu, đường lối của Chúa thật cao cả, lạ lùng như chính bản thân của Thiên Chúa vậy. Vị Giáo hoàng “chờ chuyển giáo” đã 77 tuổi, làm rúng động mọi người, bởi không chỉ khiến toàn Hội Thánh Công giáo lúc đó sửng sốt, mà cả thế giới cũng phải kinh ngạc. Đức Gioan XXIII, vị Giáo hoàng thánh thiện, đôn hậu, dễ thương, đã triệu tập Công Đồng Vatican II. Qua công trình của ngài, chúng ta càng thấy ơn Chúa quá đỗi lớn lao, kỳ diệu khôn xiết. Bởi nếu không có Công Đồng Vatican II, không ai dám tưởng tượng Hội Thánh Công giáo đã đi về đâu giữa một tân thế giới đầy biến động và luôn đổi thay này.

Đến Đức Phaolô VI, vị kế nhiệm và kế tục công trình Công Đồng của Đức Gioan XXIII đang dang dở. Ngài thật sáng suốt hướng dẫn Công Đồng trong ba khóa họp khoáng đại, cho đến hoàn tất dịp lễ Ðức Mẹ vô nhiễm năm 1965. Ngài áp dụng tinh thần Vatican II nhằm đổi mới Hội Thánh một cách ngoạn mục. Đức Phaolô VI đã can đảm và mạnh tay cải tổ giáo triều Rôma. Vì thế, ngài cũng là vị giáo hoàng đầy đau khổ. Ngay sau Công Đồng, ngài phải chứng kiến sự xuất hiện cơn khủng hoảng khiếp sợ về ơn gọi linh mục và tu dòng. Một số khá đông ra đi. Nội bộ Hội Thánhh chia rẻ trầm trọng. Bảo thủ và cấp tiến đêm ngày chỉ trích nhau. Nhiều người giải thích và áp dụng giáo huấn Công Đồng theo sở thích. Số khác thì lạm dụng, nhất là trong phụng vụ thánh. Cuộc ly khai của Ðức Cha Marcel Lefèbvre và hậu quả tai hại còn kéo dài tới nay. Tất cả những lộn xộn ấy gây hoang mang trong toàn bộ các tín hữu Kitô giáo. Tuy đau khổ nhiều, Ðức Phaolô VI vẫn can đảm như vị anh hùng giữa sa trường, sẵn sàng tiến về phía Thánh Giá Chúa Kitô.

Đức Gioan Phaolô II đã ra đi (ngày 2.4.2005) đến nay trọn bảy năm. Nhưng dấu ấn của ngài vẫn đọng lại trên toàn cõi Hội Thánh. Suốt hai mươi bảy năm làm giáo hoàng (10.1978 – 5.2005), Đức Gioan Phaolô II như phủ bóng lên mọi lãnh vực và xuất sắc nổi trội trong mọi lãnh vực. Người ta có cảm giác, lắm khi họ như quên Đức Gioan Phaolô II đã băng hà và trên ngai Phêrô hiện là một Giáo hoàng khác. Bởi với sự trẻ trung hoạt bát khi lên ngôi Giáo hoàng (58 tuổi so với tuổi 78 ở Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI), mang bao ước mơ muốn bay lên từ một đất nước Balan mà sự cai trị của nhà cầm quyền lúc bấy giờ luôn hà khắc, rình rập và bách hại Hội Thánh, đã khiến Đức Gioan Phaolô II không thể ngồi yên mà quản trị Hội Thánh, nhưng đã vươn ra và vươn lên để Hội Thánh tươi hơn, mới hơn, đẹp hơn. Cũng như các tông đồ của Chúa, ngài bị chống đối, bị ám sát, bị nói xấu, bị tấn công… vì quyết một lòng gìn giữ kỷ luật và luân lý của Hội Thánh. Đức Gioan Phaolô đã về với Chúa, nhưng di sản tinh thần để lại hết sức đồ sộ. Ngài vẫn được mọi người con của Hội Thánh mến yêu vô cùng.

Còn nơi Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI, ai ai cũng nhận ra, chưa bao giờ có một Giáo hoàng mà cả những người trung thành lẫn những kẻ chống đối Hội Thánh phải kính trọng và kiêng dè, bởi biết rõ sự kiên định và sâu sắc, sự chính thống và uyên bác trong Kinh Thánh, thần học và giáo luật ngay từ khi còn là linh mục Joseph Ratzinger xuất hiện trong các kỳ họp Công Đồng Vatican II, và sau đó cầm đầu nhiều bộ ngành quan trọng nhất của Tòa Thánh.

Ngài đã dũng cảm và chân thành không nao núng trong việc nói lên sự thật, dù có thể làm nhiều người bất bình, giận dữ. Tuy nhiên, qua tất cả sự thẳng thắn ấy, Đức Bênêđictô của chúng ta cho thấy ngài vừa tôn trọng sự thật, và luôn đứng về phía sự thật, dẫu sự thật ấy có gây nên những bẽ bàng, vừa nói lên lòng tôn trọng, đoàn kết và yêu thương. Rồi người ta hiểu ra và yêu mến Đức Thánh Cha. Điều này thể hiện qua sự náo nức chờ mong ngài đến ở Hoa Kỳ, ở Úc và mới đây tại Cuba (tháng 4.2012), nguyên là một quốc gia chủ trương vô thần. Chắc chắn tinh thần hân hoan chờ mong Đức Thánh Cha sẽ còn tiếp tục nhiều nơi khác khi ngài đến. Hội Thánh tại Việt Nam cũng không nằm ngoài tinh thần ấy.

Tất cả các Giáo hoàng, từ thời thánh Phêrô, không ai mang trọng trách mà không cùng lúc vác thánh giá và chịu đóng đinh. Vì danh Chúa, vì cơ nghiệp của Hội Thánh, vì tình yêu đối với trách vụ mà Chúa đặt lên vai mình, các ngài đã miệt mài lao tâm khổ tứ không kể thời gian, bất chấp sức lực, tuổi tác để sống chết cho Hội Thánh, cống hiến vì Hội Thánh. Các ngài đã tin vào Chúa Kitô, đã vững bước vì lời Chúa Kitô dạy: “Thầy bảo thật anh em: ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa” ( Ga 14, 12 ). Bởi thế mà thế giới và toàn cõi Hội Thánh mới có thể chứng kiến nhiều sáng kiến ngoạn mục một cách tuyệt vời từ các Đức Giáo hoàng đến vậy.

II. CÁC ĐỨC GIÁM MỤC VIỆT NAM HIỆN NAY.

Vẫn không ngoài con đường mà các Tông đồ và các Đức Giáo hoàng đã đi, chắc chắn trong vai trò Giám mục của mình, các Đức Giám mục Việt Nam cũng đã và đang vác thánh giá từng ngày theo Chúa Kitô. Chỉ có Chúa Kitô mới là sức mạnh giúp các ngài vượt qua trong thời buổi nhiễu nhương của các phương tiện truyền thông. Chỉ có Chúa Kitô, kiểu mẫu duy nhất mà các ngài chọn để theo mới là lý tưởng để các ngài tiếp tục hành trình dấn thân. Chỉ có Chúa Kitô, Đấng đã sống, đã chết, đã sống lại vì con người mới có thể giúp các ngài can đảm sống chết cho sứ mạng mục tử của mình. Chỉ có Chúa Kitô, Đấng là trung tâm của đời dâng hiến mới có thể làm cho các Giám mục Việt Nam gạt bỏ tất cả mọi oán hận, để ra ngoài mình mọi ưu tư, đau buồn đang diễn ra mà ấp ủ con đường nên thánh và thánh hóa đoàn dân Chúa trao cho mình.

Đức Hồng y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận đã từng là một Giám mục đau khổ. Chúng ta buồn khi nghe tin phái đoàn Tòa Thánh không thể vào Việt Nam để nhận những bằng chứng cho việc phong thánh đối với Đức Hồng y. Dân Chúa khắp nơi đang hoang mang tự hỏi, không lẽ nỗi buồn ray rứt về việc phong hiển thánh cho các thánh Tử Đạo Việt Nam năm 1988 lại lặp lại nơi Đức Hồng y? Không biết vì lý do nào? Lỗi nằm ở phía nào? Chỉ biết thực tế đã không diễn ra như tất cả các thông báo khởi đi từ nhiều nơi trong Hội Thánh.

Hiện nay, có những vị Giám mục bị đem ra làm vật cản cho sự hiệp nhất. Có những Giám mục mà tên tuổi của ngài bị tô hồng để hạ uy tín Giám mục khác. Người ta thóa mạ, chửi bới không tiếc lời đối với cả Hội đồng Giám mục, nhằm đẩy xa lòng tin của dân chúng ra khỏi ảnh hưởng của các Giám mục. Người ta quá thủ đoạn khi đẩy các Giám mục vào thế bị động để mặc tình dùng hết lời lẽ cay cú này đến hết lời lẽ bỉ ổi khác. Qua tất cả những màn biểu diễn quá nham hiểm ấy, nếu suy nghĩ sâu xa một chút, chúng ta sẽ thấy, đó không đơn thuần là sự tấn công các Giám mục, mà là sự bách hại bằng hình thức mới đối với Hội Thánh tại Việt Nam. Chúng ta, những người con của Hội Thánh Việt Nam, đồng là con của cả Dân Tộc Việt Nam, không bao giờ mong muốn Hội Thánh hay Dân Tộc xảy ra bất cứ một sự chia rẻ nào. Bất cứ một rạn nứt nào, dù ở phía Hội Thánh hay phía Dân Tộc, đều là nỗi đau xé ruột, xé gan của tất cả mọi người chúng ta. Đứng đàng sau tất cả những thảm cảnh ấy là bàn tay đen tối nào? Chắc không phải những người con của Hội Thánh lại dám thực hiện những mưu đồ “động trời” ấy?! Những lúc gặp thử thách như thế này, chính là lúc chúng ta phải tỉnh thức và tỉnh táo để đứng sát vào nhau. Hãy nắm tay nhau, củng cố niềm tin của nhau, đừng vội tin hay vội phán đoán một điều gì. Chắc chắn tất cả các Giám mục của chúng ta đều đau lòng, đều thấm thía khổ giá của Chúa Kitô mà chính các ngải đang kề vai gánh lấy. Trong đức tin, chúng ta nhìn nhận mình là con cái của các Giám mục, chúng ta hãy cầu nguyện cho các ngài can đảm, mạnh mẽ, nghị lực, vững tin vào Chúa Thánh Thần. Chúng ta cầu nguyện cho sự bình an của cả Hội Thánh nói chung và Hội Thánh tại Việt Nam nói riêng. Cầu nguyện giữa những đau khổ đang diễn ra là chúng ta sống chính lời của Chúa dạy ngay trong đêm Chúa hấp hối tại vườn Dầu: “Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện, đễ khỏi sa chước cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái. Nhưng xác thịt thì yếu đuối” (Mt 26, 41).

Hội Thánh tại Việt Nam, từ ngày khởi đầu truyền giáo đến nay, đã 500 năm, nhưng chưa một ngày bình yên. Hội Thánh đang đi trên chính con đường mà Chúa Kitô đã vạch ra: “Hãy nhớ lời Thầy đã nói với anh em: Tôi tớ không trọng hơn chủ. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em. Nếu họ đã tuân giữ lời Thầy, họ cũng sẽ tuân giữ lời anh em. Nhưng họ sẽ làm tất cả những điều ấy chống lại anh em, vì anh em mang danh Thầy, bởi họ không biết Ðấng đã sai Thầy” (Ga 15, 20-21). Vì thế, giữa mọi cơn bách hại, chúng ta hãy kiên tâm xác định cho mình một hướng đi mà thánh Phaolô đã từng theo đuổi: “Giờ đây, tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích của thân thể Người là Hội Thánh” (Cl 1, 24).

III. ĐẤNG PHỤC SINH CHỈ PHỤC SINH TỪ THÁNH GIÁ.

Có đến hai lần, khi tường thuật việc Chúa Phục Sinh hiện ra, thánh Gioan cho biết chi tiết quan trọng này: “Chúa Giêsu đến đứng giữa các ông và nói: ‘Bình an cho anh em’. Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn” (Ga 20, 19-20). Lần khác, không chỉ cho xem, nhưng Chúa còn dùng lời mạnh mẽ và dứt khoát hơn: “Hãy đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra và đặt vào cạnh sườn Thầy”. Có gì trên tay, trên cạnh sườn mà Chúa cho xem, hay Chúa bảo hãy đặt tay vào? Vì nơi ấy, trên thân thể của Đấng Phục Sinh vẫn còn nguyên dấu ấn của thánh giá, dấu ấn của tình yêu cứu độ. Phục sinh không giết chết thánh giá. Phục sinh không xóa tất cả những thương tích của khổ nạn. Còn hơn thế, dấu thánh giá là dấu chỉ để các môn đệ của Chúa nhờ đó mà nhận ra Chúa. Vì thế, dù Chúa đã đi vào vinh quang phục sinh, các môn đệ vẫn cần đến dấu thánh giá trên thân thể của Người để nhận ra Người. Một khi nhận ra chính Thầy của mình bởi dấu thánh giá, các môn đệ bình an, lòng các ông hết nghi nan, các ông lại còn vui mừng vì biết rằng Thầy của mình đang sống.

Chúa đã phục sinh, nhưng Người không làm biến tan nỗi đau của thánh giá. Vì thế, khi sống trong đời, dù tin chắc chắn, Chúa đã phục sinh, chúng ta cũng vẫn đối mặt với không biết bao nhiêu đau khổ, thủ thách. Thử thách chính là thánh giá cần thiết thanh luyện ta, giúp ta vững chãi hơn, đem ta đến gần Chúa hơn. Thử thách chính là thánh giá mà ta vác lấy để cùng kết hợp với thánh giá Chúa, mang lại ơn cứu độ đời đời cho ta, đền thay muôn tội trần thế.

“Lửa thử vàng, gian nan thử sức”. Đối với Kitô hữu, đau khổ rèn luyện đức tin của họ. Nếu Đấng Phục Sinh, dù đã phục sinh, vẫn còn nguyên dấu thánh giá trên thân thể hiển vinh của Người, thì chắc chắn, thánh giá trong đời sống, trong đức tin và trong mọi chiều kích của cuộc đời người tín hữu, vẫn còn đó, vẫn hiện sinh, vẫn là cách để họ thánh hóa mình, vẫn là phương tiện để họ bước theo Thầy mình, vẫn là thước đo lòng trung thành của họ. Đấng Phục Sinh chỉ phục sinh từ thánh giá, vì thế, các tín hữu hôm nay cần đến thánh giá để tháp nhập vào mầu nhiệm Vượt Qua cao cả của Chúa mình mà tiến vào vinh quang phục sinh cùng Người.

Đấng Phục Sinh, một khi chấp nhận chỉ phục sinh từ thánh giá, Người không còn khiếp sợ bất cứ nghịch cảnh nào, dù là cái chết trước mắt, nhưng can đảm ngỏ cùng Chúa Cha: “Xin đừng theo ý con, nhưng xin theo ý Cha mọi đàng” (Lc 22,42). Vì thế, người dạy tất cả Hội Thánh của Người: “Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác nhưng không thể giết được linh hồn: Các con hãy sợ Đấng có thể ném cả xác lẫn hồn xuống địa ngục. Nào người ta không bán hai chim sẻ với một đồng tiền đó sao? Thế mà không con nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi. Vậy các con đừng sợ: các con còn đáng giá hơn chim sẻ bội phần” (Mt 10, 28-31).

Đó là khuôn mặt của thánh giá. Càng nhận ra thánh giá trong suốt chiều dài của lịch sử Hội Thánh kể từ Chúa Kitô đến chúng ta, mà toàn cõi Hội Thánh phải kề vai vác lấy, để gìn giữ Hội Thánh, để trao lại cả một sức sống thiêng liêng, bền bỉ mà chúng ta đang thừa hưởng, chúng ta càng phải ra sức sống lòng biết ơn đối với Hội Thánh. Lòng biết ơn đối với Hội Thánh phải là những đánh thức liên lỉ cho đời sống sứ vụ của anh em linh mục chúng ta ngày càng thấm đẫm tình Chúa, tình người hơn.

Vậy, để cụ thể hóa việc sống lòng biết ơn Hội Thánh, chúng ta dành trọn phần “Vấn Tâm” cho việc gợi ý và xét mình liên quan đến chính ơn gọi linh mục của chúng ta.

IV. VẤN TÂM: SỐNG LÒNG BIẾT ƠN HỘI THÁNH.

Hơn ai hết, linh mục, dù lớn tuổi hay trẻ trung, dù muốn hay không, đều là kiểu mẫu, là phác họa cho anh chị em mình về sự gặp gỡ Chúa Phục Sinh. Mọi người có thể nhìn vào chúng ta để bắt chước cách thức chúng ta sống; bắt chước niềm tin chúng ta thể hiện; bắt chước tư tưởng chúng ta suy nghĩ, hiểu và truyền đạt; bắt chước từng lời nói, từng sinh hoạt, từng cử chỉ… của chúng ta. Vì thế, không biết bao nhiêu linh mục đã âm thầm, hoặc công khai gieo vào người khác khuôn mặt hiền từ, nhẫn nại, tha thứ, trân trọng, đáng mến… của Chúa Phục Sinh. Các ngài đã thành công trong việc cụ thể hóa lòng biết ơn Hội Thánh bằng lẽ sống của các ngài. Ngược lại cũng có nhiều người trong chúng ta, dù hình thức là nhà tu, nhưng tâm hồn chưa phải là nhà tu chân chính, đã để lại biết bao nhiêu thiệt hại cho anh chị em mình, cho sáng danh Thiên Chúa và cho Hội Thánh. Chúng ta chưa thể hiện đủ lòng biết ơn Hội Thánh.

Mọi người, bất luận là ai, đều có quyền đòi hỏi linh mục phải nên gương cho họ. Tuy không phải thần thánh, vẫn có vô số lần anh em linh mục yếu đuối, sa ngã, và đã phạm tội thật sự… Dù vậy, hãy nhớ rằng, trước mặt Chúa, Người có thể tha thứ cho ta. Dù tội ta cao tận trời, thì nhờ tình yêu của Chúa, nhớ lòng ăn năn tội của ta, Chúa quên hết, Chúa xóa hết tội ta. Nhưng trước mặt anh chị em, dù ta có ăn năn tội đến vạn lần, hình ảnh về bóng tối của tội lỗi đã từng quật ngã ta trong quá khứ, không dễ xóa nhòa nơi tâm trí anh chị em. Thậm chí, nhiều người, vì tội của các linh mục mà họ thấy, họ biết, đã làm cho họ đi từ hư đốn này đến hư đốn khác. Đó là hiện thực. Phải nhìn nhận hiện thực này cách chân thành, không cứng đầu đạp trên dư luận, không được biện minh rằng, ai có cách suy nghĩa của người đó, rồi muốn làm gì thì làm. Nhìn nhận hiện thực cách tỏ tường ấy, để chúng ta tự kiểm điểm mình luôn luôn, tự ăn năn tội luôn luôn, tự tìm đến sự lành, tránh xa sự dữ, tự ngăn ngừa bản thân để không dính bén với cám dỗ, với tội lỗi và sự dữ.

Ở đây chúng ta nhấn mạnh “nhiều người” chứ không phải “mọi người” vì tội của linh mục, bởi có rất nhiều anh chị em, dù biết các linh mục có thể có lỗi lầm, họ vẫn kính trọng, vẫn yêu thương, quý mến. Họ dâng những hy sinh, dâng đời sống cầu nguyện, dâng việc cử hành bí tích… để cầu nguyện cho các linh mục, tu sĩ. Đối với những anh chị em này, chúng ta hãy đặt biệt yêu thương họ, cảm ơn họ, cầu nguyện cho họ, và vì tình yêu của họ, chúng ta càng ra sức thi hành trọng trách mà Chúa và Hội Thánh muốn chúng ta thi hành. Tuy nhiên, nói như thế không có nghĩa là chúng ta quên những người yếu đuối, chống đối chúng ta. Không bao giờ linh mục được phép loại trừ bất cứ ai trong đời tu của mình. Những người “chưa được như ý” càng cần đến sự quan tâm, lời cầu nguyện, tình yêu nâng đỡ của linh mục. Có khi chúng ta còn phải xin lỗi họ vì yếu đuối của mình, của giới nhà tu chúng mình, vì đó mà anh chị em tín hữu phải rơi vào tình trạng “chưa được như ý”, mất phương hướng sống, đau đớn hơn, mất cả đức tin. Sống lòng biết ơn Hội Thánh, chúng ta cần cố gắng hết sức, cộng tác với ơn Chúa, tìm cách thánh hóa bản thân.

Để giữ vững khí tiết của đời tu, cũng là cách sống lòng biết ơn Hội Thánh, anh em chúng ta hãy bám vào Chúa, hãy nắm chặt lấy Chúa. Chúng ta không dám tự xem mình là tốt, cũng không bao giờ dám chê cười những “nhà tu” đã lở lầm, đã bỏ cuộc, hay đã và vẫn đang mang tai tiếng. Bởi chưa chắc ai hơn ai. Có khi tội ta còn to hơn anh em mình, nhưng vì khéo che đậy, nên nó vẫn còn trong vòng bí mật. Đời sống cầu nguyện là cách duy nhất để giữ mãi chính ơn gọi của ta, và của nhiều người đang cần đến sự cầu nguyện của ta. Hãy cám ơn Chúa vì cho đến giờ này, trải qua bao nhiêu sóng gió, trải qua bao nhiêu chiến đấu, trải qua bao nhiêu thử thách, ta vẫn còn giữ được ơn gọi của mình, vẫn còn hiện diện nơi đây để có thể bước tiếp trong đời tu. Hãy cảm tạ Chúa vì bao nhiêu lần ta có tội, nhưng cũng bằng ấy lần, Chúa xóa sạch tội ta. Hãy cảm tạ Chúa vì bao thất vọng ê chề giữa bao nhiêu biến động của đời tu, ta vẫn còn được Chúa giữ gìn, che chở. Hãy xin lỗi Chúa vì bao nhiêu lần ta đã có ý nghĩ bỏ cuộc, chạy trốn, thoái thác công tác, thoái thác trách nhiệm của mình. Hãy xin lỗi Chúa vì có lần nào ta chê bai, nặng hơn, cười cợt sự yếu đuối, lỗi lầm của anh chị em quanh mình. Xin lỗi Chúa thật nhiều vì trong thâm tâm, nếu có lần nào ta oán trách Chúa, vì cây thánh giá mà Chúa mời gọi ta vác theo Người. Hãy xin lỗi Chúa nhiều hơn nữa, vì biết bao nhiêu lần, ta chỉ cậy vào mình, cậy vào sự không ngoan của mình để quyết định việc này việc kia mà không xin ý kiến Chúa, không hiến dâng cho Chúa, không cầu nguyện xin Chúa ban ơn giúp sức.

Nếu Hội Thánh được Chúa mời gọi vác thánh giá trong khi rao truyền Tin Mừng phục sinh của Chúa, thì chúng ta, từng người, từng người một, cũng được Chúa mời gọi diễn tả tình yêu Chúa nơi trót đời hiến dâng của ta. Đó không là hạnh phúc sao, đó không là niềm vui chan chứa sao. Đó không là tất cả niềm hãnh diện vô cùng không thể tả của anh em chúng ta sao. Đời thánh hiến của linh mục là sự sống viên mãn và tràn đầy mà Chúa muốn linh mục thể hiện bằng chính những bước đi trong từng ngày sống để theo Chúa.

Xin kính dâng bầu nhiệt huyết của các linh mục trẻ, xin kính dâng vốn sống của các linh mục cao niên để làm quà tặng chứng tỏ lòng biết ơn Hội Thánh của linh mục đoàn giáo phận chúng con, xin Chúa cứ mặc tình sử dụng.

Xin kính dâng niềm mơ ước luôn luôn và từng ngày được sống trong nhà Chúa. Xin kính dâng lòng yêu mến Chúa, yêu mến Hội Thánh mà mỗi chúng con, tuy có lần vấp váp, vẫn không bao giờ mất đi hay phai nhạt đi trong tim chúng con.

Xin kính dâng ngọn lửa trung thành trong ngày từ giã người thân, từ giã mái nhà, từ giã bạn bè, và mọi kỷ niệm của một thời đã qua… Ngọn lửa trung thành ấy đã từng nung đốt tâm hồn chúng con trong ngày bước vào nhà tu và vẫn nung đốt mãi tới nay, để chúng con vẫn có mặt nơi đây như dấu chỉ của lòng trung thành theo Chúa.

Xin kính dâng những từ bỏ để chấp nhận rèn mình trong từng ngày sống cho phù hợp với đời tu. Xin kính dâng niềm vui, nỗi buồn, sự thương, sự nhớ, sự yêu, sự ghét, sự lành, sự dữ… mà chúng con gây ra cho người khác, hoặc người khác gây ra cho chúng con, như một chút tình muốn đáp lại lòng biết ơn Chúa và Hội Thánh đêm ngày ấp ủ chúng con.

Xin dâng lên Chúa tất cả, để tùy nghi Chúa sử dụng.

Xin dâng lên Chúa tất cả, để Chúa biến thành những hoa trái thánh thiện.

Xin dâng lên Chúa tất cả, để mong được Chúa thánh hiến.

Xin dâng lên Chúa tất cả, để bên Chúa, ngày ngày chúng con vui sống và phục vụ.

Xin dâng lên Chúa tất cả, để chúng con đừng vướng bận bất cứ điều gì, nhưng chỉ xin trọng một niềm tín thác.

Chúa là tất cả của chúng con. Tình yêu Chúa là hạnh phúc. Hiến dâng là nỗ lực chúng con muốn đáp trả tình yêu của Chúa và sống lòng biết ơn đối với Hội Thánh Chúa.

VI. HƯỚNG VỀ VĨNH CỬU BẰNG TRỌN NIỀM TÍN THÁC.

Bởi Chúa Kitô cả một đời chấp nhận thử thách, dù nay Người đã phục sinh, nhưng lời mời gọi của Người vẫn còn đó: “Ai muốn theo Thầy, thì phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Thầy” (Mt 16, 24). Hơn thế, dù Chúa Kitô đã phục sinh, nhưng Thiên Chúa vẫn không hề cất thánh giá, vì thế, thử thách trong Hội Thánh, và thử thách nơi từng người con của Hội Thánh là điều không thể tránh khỏi. Giữa mọi cơn thử thách, chúng ta hãy trọn niềm tín thác. Hướng về vĩnh cửu bằng trọn niềm tín thác, chúng ta không còn sợ bất cứ một thế lực nào. Trọn niềm tín thác là con đường khôn ngoan mà mọi linh mục chọn để tiến về phía Chúa.

“Hỡi ai nương tựa Đấng Tối cao, và núp bóng Đấng quyền năng tuyệt đối. Hãy thưa với Chúa rằng: Lạy Thiên Chúa, Ngài là nơi con ẩn náu, là đồn lũy che chở, con tin tưởng vào Ngài” (Tv 91, 1-2). Trên đường về với Chúa, chúng ta không còn ai khác, không có bất cứ cái gì khác để nương nhờ vào, mà chỉ một niềm tín thác vào Chúa mà thôi. Hội Thánh nói chung, và mỗi chúng ta là thành phần của Hội Thánh, một khi song hành với cuộc đời, sẽ bị cuộc đời nhào nặn, đó cũng là lẽ thường tình. Phải có cuộc đời, và phải có những lớp sóng xô, chúng ta mới có thể “chân cứng đá mềm” mà vượt thắng tất cả. Vậy qua mọi hoàn cảnh, anh em linh mục hãy chỉ có Chúa là “nơi ẩn náu”, chỉ có Chúa “là đồn lũy chở che” mà thôi. Có ai nương nhờ vào Chúa mà phải tuyệt vọng đâu? Bởi “Ai tin tưởng vào Chúa, khác nào núi Sion chẳng bao giờ lay chuyển, muôn thuở vẫn trường tồn” (Tv 125, 1).

Sống niềm tín thác vào Chúa trong mọi hoàn cảnh, cũng chính là biểu hiện của lòng biết ơn mà ta dành cho Hội Thánh Chúa Kitô. Niềm tín thác là sức mạnh nâng đỡ ta vượt qua ngàn trùng, trong khi vẫn trung thành vác thánh giá đời mình. Niềm tín thác là sức mạnh để trong tất cả mọi biến động của đời mình, ta sẽ vững vàng, kiên định theo Chúa không nao núng. Chúa Kitô nêu gương cho chúng ta tín thác đến cùng. Ngay trước khoảnh khắc tắt thở, Người vẫn trọn niềm tín thác vào Chúa Cha: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 25, 46). Bắt chước Chúa Kitô, dù phải chạm trán bao nhiêu đố kỵ, chống đối, bi kịch, từng ngày ta vẫn thốt lên một cách tha thiết mặn nồng: Con xin phó hồn con, phó cả cuộc đời con trong tay Chúa!

Lm. JB NGUYỄN MINH HÙNG

Tác giả:  Lm. JB Nguyễn Minh Hùng

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!