NGUYỄN HỌC TẬP
Người tín hữu giáo dân là ai ? ( LG, n. 31).
Trong mỗi vấn đề, việc đầu tiên phải làm là tìm hiểu và thiết định xem chủ thể của vấn đề là ai. Bởi đó Chương IV Hiến Chế Lumen Gentium đề cập đến vấn đề người tín hữu giáo dân khởi đầu bằng cách giới thiệu một định nghĩa về người tín hữu giáo dân:
- " Với tên người tín hữu giáo dân ở đây được hiểu là tất cả mọi tín hữu, ngoại trừ các thành phần có chức thánh và thành phần ở trạng thái tu sĩ được Giáo Hội xác định, các tín hữu giáo dân, sau khi được nhập thể vào Chúa Ki Tô với Phép Rửa và được thiết lập thành Dân Chúa, trong tầm mức của mình, họ tham gia vào chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương giả của Chúa Ki Tô, về phần họ, họ thực hiện, trong Giáo Hội và giữa trần thế, sứ mạng của cả người Ki Tô giáo ".
Định nghĩa vừa kể là kết quả của một công trình nghiên cứu đầy công khó, học hỏi nhiều năm đã đạt được và của kinh nghiệm; nhưng đồng thời cũng chưa muốn nêu lên những câu hỏi mà các nhà thần học đang tranh cải.
1 - Lịch sử của một từ ngữ.
Danh từ "giáo dân" (laicus, La Tinh) có nguồn gốc từ danh từ "laos" (Hy Lạp), có nghĩa là dân chúng. "Laos " trong thế giới Hy Lap - Roma được dùng để chỉ dân chúng, khác biệt với giới cầm quyền.
Dân chúng là khối thần dân thuộc hạ được các người lãnh đạo hướng dẫn và cai trị.
Trong bản Thánh Kinh 70, từ ngữ "laos" còn có ý nghĩa hạn hẹp hơn. Khi nói đến "laos" là nói đến một dân chúng đặc biệt: được chọn lọc và dành riêng cho Chúa.
Bởi đó trong Tân Ước, dân chúng được chọn lọc và dành riêng đó được hiểu là Giáo Hội, khác với các dân chúng khác, được gọi là "dân ngoại, ethné" ).
Nhưng hạn hẹp vào lãnh vực của Cộng Đồng Dân Chúa, từ ngữ "laos" vẫn còn giữ được ý nghĩa của thế giới hy lạp - roma, bởi đó ý nghĩa "giáo dân, laos", ngay cả trong Thánh Kinh cũng có ý nghĩa là phần Dân Chúa, khác biệt với các Vị Mục Tử.
Danh từ và tỉnh từ "laos và laicos" chúng ta không gặp được trong Cựu Ước, cũng như trong các bản dịch 70, mà được khởi đầu từ thời Ki Tô giáo trở đi, chính xác hơn là từ năm 95 khi Thánh Clemente Romano dùng trong Thư gởi cho các tín hữu Corinto, cho đến ngày nay trong Hiến Chế Lumen Gentium về Giáo Hội, từ ngữ "laicos, giáo dân", luôn luôn được dùng để chỉ một thành phần của Dân Chúa, và khác biệt đối với những ai thuộc về Hàng Giáo Phẩm.
Nhưng với thời gian biến chuyển và hoàn cảnh lịch sử thay đổi, cường độ và cả tình trạng đảo ngược thành tệ hại so với ý nghĩa khởi thủy đó đã xảy ra.
Chúng ta biết rằng không lâu trước đây, người tín hữu giáo dân được định nghĩa dưới hình thức tiêu cực và tương đối: đó là người tín hữu giáo dân là người không phải giáo sĩ, cũng không phải tu sĩ.
Nhưng trong tư tưởng chung, chúng ta thường nghĩ
- không ai nói rõ người tín hữu giáo dân là gì, mà chỉ nói những gì người tín hữu giáo dân không phải là...,
- cũng không tìm cách cho biết người tín hữu giáo dân không xác định đó có liên hệ gì đối với các thành phần được xác định.
Thật ra không hoàn toàn đúng như vậy.
Trong định nghĩa cỗ về người tín hữu giáo dân, chúng ta cũng có một vài yếu tố tích cực. Thật vậy, quan niệm cỗ trong Giáo Hội không những chỉ định nghĩa người tín hữu giáo dân không phải là giáo sĩ, không phải là tu sĩ, nhưng chúng ta cũng biết được đó là người tín hữu. Và từ đó, nếu chúng ta so sánh với định nghĩa của Hiến Chế Lumen Gentium, chúng ta thấy một cách nào đó cũng đồng nghĩa với nhau.
Điều khác biệt là Hiến Chế Lumen Gentium nói rõ ra người tín hữu là gì và cả thái độ đặc tâm chú ý được đặt trên những gì tích cực, trong khi đó thì trước kia "người tín hữu" dường như không được ai biết đến , bởi lẽ sự chú ý được đặt nặng vào những gì "không phải là" ( giáo sĩ, tu sĩ ).
Trong lịch sử đã có những biến cố góp phần khá quan trọng vào tâm thức coi thường, hay không đặt tâm vào tầm quan trọng của người tín hữu giáo dân, đó là chưa nói đến tâm thức tiêu cực, và làm cho họ tách rời khỏi Hàng Giáo Phẩm.
Điều vừa kể đã bắt đầu xảy ra ngay cả trong thời kỳ trước Công Đồng Constantino, khi giáo sĩ và tu sĩ chiếm được vị thế đặc ân so với người Ki Tô giáo thường.
Văn hoá trở thành là những gì dành riêng cho hàng giáo phẩm và người tín hữu giáo dân trở thành kẻ "ngu ngốc, đần độn " (idiot), "bọn dốt nát, mù chữ" (illettré), phải được dẫn dắt. Bởi lẽ họ không có khả năng phán đoán và tự mình hành động.
Còn nữa, những nhân vật thuộc về Giáo Hội, nhứt là các tu sĩ, được khoác cho những đặc tính đạo đức thiêng liêng (spirituel ) và đại diện cho hạng Ki Tô hữu đích thực.
Trong khi đó thì người tín hữu giáo dân là "bọn sống theo xác thịt" (charnel ). Bởi đó họ là hạng hạ cấp giữa các Ki Tô hữu.
Những dữ kiện đó đã góp phần tạo nên mối rạn nứt giữa giáo dân và giáo sĩ, khiến cho người tín hữu giáo dân bị thất thế, luôn luôn bị coi là hạng ấu trỉ, cần phải được giới "trí thức" (lettré) và giới đạo đức thiêng liêng dẫn dắt, để có thể thành tựu thực hiện được ơn gọi Ki Tô giáo của chính mình.
Và rồi thêm vào tâm trạng khinh thường hạ cấp đó, còn thêm cả thái độ không tin tưởng đối với người tín hữu giáo dân.
Cuộc tách rời đó giữa người tín hữu giáo dân đối với giáo sĩ và tu sĩ càng bắt đầu tỏ rạng hơn, khi dần dần thế giới được cấu trúc thành hình chỉ dựa trên con người và trên các giá trị trần thế.
Người tín hữu giáo dân dần dần ý thức về tầm quan trọng của thế gian và bắt đầu tách rời khỏi Giáo Hội (của giáo sĩ và tu sĩ ), tạo ra một thế giới tự lập bên cạnh Giáo Hội.
Điều vừa kể càng trở nên rõ rệt hơn ở những thế kỷ kế tiếp, tạo nên nơi người tín hữu giáo dân thái độ chỉ trích và không còn tin tưởng vào Giáo Hội nữa.
Bởi đó trong khối người tín hữu giáo dân bắt đầu xuất hiện, mặc dầu là thiểu số, hạng giáo dân chống đối.
Đứng trước tình trạng đó giới giáo sĩ cảm thấy mình cần phải có thái độ tách rời, đối với số đông cũng như đối với các nhóm thiểu số chống đối, với tâm thức không những để thiết lập lại trật tự, mà còn để bênh vực Giáo Hội, như là cơ chế của Chúa.
Quan niệm "giáo dân" mà Công Đồng Vatican II đang gặp phải lúc đó, là quan niệm truyền thống vừa kể, đã làm băng họai tư tưởng nguyên thủy và thực thể, mà người tín hữu giáo dân đáng lý phải có.
2 - Người tín hữu giáo dân trong Hiến Chế: đặc tính trần thế.
Trong Hiến Chế tín lý Lumen Gentium chúng ta không gặp được cả từ ngữ "giáo dân" (laicos), cũng không có đề cập nào nói đến các biến cố trong dòng lịch sử khiến cho người giáo dân trở thành quan trọng và dưới những phương diện khác nhau.
Chúng ta gặp được tức khắc một định nghĩa làm khởi điểm cho cả vấn đề đang được đề cập về người tín hữu giáo dân.
Đó là định nghĩa chúng tôi đã trích dẫn ở trên.
Dựa trên câu định nghĩa đó, chúng ta thử tìm hiểu một vài điều đáng lưu ý.
Trước tiên Hiến Chế không có ý định đưa ra một định nghĩa liên hệ đến bản thể của người tín hữu giáo dân, cho bằng là một định nghĩa diễn tả, được dùng để khai triển ra những gì Hiến Chế định nói đến về người tín hữu giáo dân.
Kế đến, chúng ta nhận thức được định nghĩa chứa đựng nhiều phần tích cực hơn tiêu cực và tương đối.
Điều mà Hiến Chế nhằm đến là thiết định thực thể của người tín hữu giáo dân trong những tính chất đặc thù của họ. Những gì được đặt liên quan đến giáo sĩ và đời sống tu sĩ là những gì được nói lên để dùng xác định rõ hơn những đặc tính của người tín hữu giáo dân.
Người tín hữu giáo dân là người đã được nhập thể vào Chúa Ki Tô và tham dự vào các quyền năng của Người.
Nhưng tất cả những gì vừa kể cũng chưa đủ để nói lên diện mạo của người tín hữu giáo dân.
Sự kiện là một người tín hữu Chúa Ki Tô với đời sống và quyền năng của Chúa Ki Tô không nói lên được sự khác cá biệt của anh trong Cộng Đồng Dân Chúa, bởi lẽ tất cả các thành phần của Cộng Đồng Dân Chúa đều có phẩm giá căn bản đó.
Câu nói
- "...về phần mình, họ chu toàn trong Giáo Hội và giữa trần thế chính sứ mạng của Dân Ki tô giáo " còn quá tổng quát, để có thể là một yếu tố xác định cá biệt.
Đặc tính cá biệt đó của người tín hữu giáo dân được diễn tả ra trong tính cách trần thế của họ:
- " Đặc tính trần thế (indole secolare) là chính đặc tính và cá biệt của người tín hữu giáo dân".
Đặc tính đó chính là do sự việc người tín hữu giáo dân sống giữa trần thế, tức là họ có liên hệ đến tất cả; mọi bổn phận và sự việc trong trần thế và trong các hoàn cảnh sống thường nhật của gia đình và xã hội, mà cuộc sống của họ như là bị đươm kết liên hệ.
Về vấn đề vừa đề cập, "đặc tính trần thế" của người tín hữu giáo dân, có nhiều cuộc bàn cải cho rằng tại sao lại phải đặt đặc tính đó thành vần đề, đó là những gì vượt ra bên ngoài "thực thể" Ki Tô hữu của họ.
"Đặc tính trần thế" không phải là những gì cá biệt của "thực thể Ki Tô hữu". Đó là một sự kiện ngoại vi, thuộc về môi trường sống, không thể được coi là yếu tố cấu trúc con người của người tín hữu giáo dân như là thành phần Dân Chúa.
Ngoài ra các liên hệ đối với các sự việc trần thế không phải chỉ là những gì chỉ có người tín hữu giáo dân mới có độc quyền, bởi lẽ các thành phần có chức thánh cũng có liên hệ đến những sự việc trần thế trong cuộc sống.
Lý luận bất đồng ý kiến vừa kể có giá trị, nếu hiểu "đặc tính trần thế" đồng nghĩa với "thế tục hoá" của các đấng bậc giáo sĩ và tu sĩ.
Bởi lẽ "đặc tính trần thế" có ý ám chỉ đặc tính chỉ áp dụng độc nhứt cho người tín hữu giáo dân và loại trừ những chủ thể khác.
Nhưng định nghĩa là Hiến Chế xác định cho người tín hữu giáo dân không có kỳ vọng nói lên những đặc tính căn bản, bản thể của người tín hữu giáo dân.
Đây chỉ là một định nghĩa phân loại " tipologica ", đưa ra những yếu tố diễn tả đủ để cho thấy sự khác biệt của người tín hữu giáo dân đối với các thành phần khác trong Dân Chúa, dựa trên những yếu tố thường hiện diện hơn là độc nhứt trong cuộc sống của họ.
Một vài yếu tố trần thế Hàng Giáo Phẩm và các tu sĩ cũng .nên có, không những chỉ vì các vị sống giữa trần thế, cũng có liên hệ đến sự vật và sự việc trần thế như ai khác, mà còn là tính cách mà các vị có thể hành xử " nghề nghiệp trần thế ", nghề nghiệp giáo dục, tuyên úy, cho ý kiến hướng dẫn, thực thi bác ái...chẳng hạn.
Tuy nhiên giáo sĩ cũng như tu sĩ, đời sống các vị phần lớn tách rời khỏi các "công chuyện" trần thế.
Trước tiên, các vị giáo sĩ
- "do ơn gọi đặc biệt của mình, các vị được nhằm đến và cho chính phận vụ thánh ( ministère sacré).
Các vị tu sĩ, bởi vì
- " địa vị cuộc sống của các vị là những gì chứng minh cho thấy một cách huy hoàng và đặc biệt rằng thế gian không thể được biến dạng và dâng lên Chúa, mà không có tinh thần các Mối Phước Thật" .
Người tín hữu giáo dân, trái lại, do chính tình trạng sống hiện tại của mình, họ đang sống chìm lẫn vào giữa các thực tại trần thế: họ đang có một gia đình, một việc làm khiến cho họ hội nhập tác động tích cực vào giữa các vấn đề trần thế, khiến cho họ là thành phần có lợi thú liên quan và trách nhiệm về tiến trình cuộc sống xã hội, kinh tế, chính trị trong "thị xã" ( polis, Hy Lạp > politiké: cách tổ chức cuộc sống trong thị xã hay đường lối chính trị: politique, politica, policy).
Đời sống và động tác của người tín hữu giáo dân là những gì ở giữa trần thế.
Trong ý nghĩa đó, chúng ta có thể xác định rằng
- "đặc tính trần thế" là chính đặc tính cá biệt của người tín hữu giáo dân ".
Không phải là một đặc tính đặc quyền, nhưng là đặc tính trổi vượt so với các thành phần khác của Dân Chúa.
Kế đến, "đặc tính trần thế" không nên hiểu theo ý nghĩa "trần tục", ngoại đạo hay vô đạo, vô thần.
Người tín hữu giáo dân vẫn luôn luôn là
- người thuộc dòng tộc dân được giải thoát,
- có khả năng loan truyền và trải rộng ra động tác cứu độ.
Mối tương quan của người tín hũu giáo dân đối với thế giới không chỉ là mối tương quan tự nhiên, mà là mối tương quan Ki Tô hữu đối với trần thế.
Với hiệu lực của mối tương quan "Ki Tô hữu" nầy, mối tương quan giữa họ và thế gian có thể được hiểu nằm trong định nghĩa giáo hội tính của người tín hữu giáo dân, bởi vì nhờ động tác của mình, người tín hữu giáo dân có thể làm cho thế gian trở thành đồng nhứt với bản tính Dân Chúa.
Như vậy, "đặc tính trần thế "
- không có nghĩa chỉ là một thực thể trong thế gian,
- mà là một thực thể Ki Tô hữu giữa thế gian.
Bởi đó, không phải chỉ là một trạng thái bên ngoài không có liên hệ gì đến đời sống thành phần Dân Chúa, mà là một yếu tố mới diễn tả một cách nào đó động tác và thực thể Ki Tô hữu của họ:
- " Bởi chính ơn gọi của mình, người tín hữu giáo dân tìm kiếm Nước Chúa, bằng cách tác động lên các sự việc trần thế và xếp đặt chúng theo ý Chúa muốn ".
Cách dùng từ ngữ "tìm kiếm Nước Chúa", đặt bên cạnh "các sự việc trần thế" ( res temporales ) thật là một chỉ dẫn tuyệt hảo !
Phương thức diễn tả đó làm chúng ta nhớ lại "primum querite Regnum Dei " (trước hết anh em hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa ) trong Phúc Âm Thánh Marco, mà cả truyền thống kế đến đều đặt lên như là những gì đối ngược lại với "res temporales " (các sự việc trần thế ), dường như là người tín hữu Chúa Ki Tô phải xa lánh thế tục, " quy y thoát tục "; hay đừng chuyên cần dấn thân vào các việc trần thế, bỏ mặc kệ chúng nó, để chuyên lo tìm kiếm những gì thiêng liêng, vượt lên trên trần thế tự nhiên.
Thái độ truyền thống lỗi thời, " quy y thoát tục " đó cũng đã được ĐTC Pio XII đề cập đến:
- " ...trái lại có những người cho rằng việc phải có là trở lại thái độ khiêm nhường ẩn náu của thời các hang toạ đạo ( catacombes ), đó là đức khôn ngoan Ki Tô giáo. Đáng lý ra được gợi ý bởi đức khôn ngoan, đó là phải trở lại sự khôn ngoan của Thánh Phaolồ, là vị mở ngỏ mọi con đường cho các động tác của người tín hữu Chúa Ki Tô: " tất cả mọi sự như là của anh em ( 1Cor 3, 32 ) " ( Thils, trascendenza o Incarnazione ? Pio XII 1957).
Lịch sử cứu rổi cùng với tất cả những giá trị thiêng liêng của mình được nhập thể vào thực tại trần thế nầy.
Như vậy người tín hữu Chúa Ki Tô không thể làm ngơ, không quen biết, xa lánh các thực tại trần thế đó.
Trái lại họ cần phải dấn thân tác động hành xử vào đó và hướng dẫn chúng đáp ứng lại các nhu cầu, đòi hỏi của một trật tự mới mà Chúa Ki Tô đã thiết lập nên.
Sự thánh thiện của người tín hữu giáo dân hệ tại cả trong động tác hoán cải các sự việc trần thế:
- "Như vậy họ (người tín hữu giáo dân) có bổn phận cá biệt là soi sáng và thiết định trật tự tất cả các sự việc trần thế, mà họ có liên hệ chặt chẽ, để các sự việc đó luôn luôn được thực hiện như Chúa Ki Tô muốn, và để cho chúng phát triển lên và để dâng lời ngợi khen Đấng Tạo Hoá và Đấng Cứu Độ".