Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng

BBT CGVN YouTube
Thánh Kinh Công Giáo
Cầu nguyện bằng email
Hội Đồng Giám Mục VN
Liên Lạc

Văn Kiện Vatican 2

Lectio divina

Suy Niệm & Cầu Nguyện

Học Hỏi Kinh Thánh

Lớp KT Sr Cảnh Tuyết

Nova Vulgata

Sách Bài Đọc UBPT

LỜI CHÚA LÀ ÁNH SÁNG

GH. Đồng Trách Nhiệm

TAN TRONG ĐẠI DƯƠNG

Video Giảng Lời Chúa

Giáo Huấn Xã Hội CG

Tuần Tin HĐGMVN

Vụn Vặt Suy Tư

Giáo Sĩ Việt Nam

ThăngTiến GiáoDân

Bản Tin Công Giáo VN.

Chứng Nhân Chúa Kitô

Thánh Vịnh Đáp Ca

Phúc Âm Nhật Ký

Tin Vui Thời Điểm

Tin Tức & Sự Kiện

Văn Hóa Xã Hội

Thi Ca Công Giáo

Tâm Lý Giáo Dục

Mục Vụ Gia Đình

Tư Liệu Giáo Hội

Câu Chuyện Thầy Lang

Slideshow-Audio-Video

Chuyện Phiếm Gã Siêu

Các Tác Giả
  Augustinô Đan Quang Tâm
  Đinh Văn Tiến Hùng
  Ban Biên Tập CGVN
  Bác sĩ Ng Tiến Cảnh, MD.
  Bác Sĩ Nguyễn Ý-Đức, MD.
  Bùi Nghiệp, Saigon
  Bosco Thiện-Bản
  Br. Giuse Trần Ngọc Huấn
  Cursillista Inhaxiô Đặng Phúc Minh
  Dã Quỳ
  Dã Tràng Cát
  Elisabeth Nguyễn
  Emmanuel Đinh Quang Bàn
  Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB.
  EYMARD An Mai Đỗ O.Cist.
  Fr. Francis Quảng Trần C.Ss.R
  Fr. Huynhquảng
  Francis Assisi Lê Đình Bảng
  Gia Đình Lectio Divina
  Gioan Lê Quang Vinh
  Giuse Maria Định
  Gm Phêrô Huỳnh Văn Hai
  Gm. Giuse Đinh Đức Đạo
  Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
  Gm. JB. Bùi Tuần
  Gm. Nguyễn Thái Hợp, op
  Gm. Phêrô Nguyễn Khảm
  Gs. Đỗ Hữu Nghiêm
  Gs. Ben. Đỗ Quang Vinh
  Gs. Lê Xuân Hy, Ph.D.
  Gs. Nguyễn Đăng Trúc
  Gs. Nguyễn Văn Thành
  Gs. Phan Văn Phước
  Gs. Trần Duy Nhiên
  Gs. Trần Văn Cảnh
  Gs. Trần Văn Toàn
  Hạt Bụi Tro
  Hồng Hương
  Hiền Lâm
  Hoàng Thị Đáo Tiệp
  Huệ Minh
  HY. Nguyễn Văn Thuận
  HY. Phạm Minh Mẫn
  JB. Lê Đình Nam
  JB. Nguyễn Hữu Vinh
  JB. Nguyễn Quốc Tuấn
  Jerome Nguyễn Văn Nội
  Jorathe Nắng Tím
  Jos. Hoàng Mạnh Hùng
  Jos. Lê Công Thượng
  Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
  Joseph Vũ
  Khang Nguyễn
  Lê Thiên
  Lm Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, HKK
  Lm Đaminh Hương Quất
  Lm. Anmai, C.Ss.R.
  Lm. Anphong Ng Công Minh, OFM.
  Lm. Anrê Đỗ Xuân Quế op.
  Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
  Lm. Đan Vinh, HHTM
  Lm. Đỗ Vân Lực, op.
  Lm. G.Trần Đức Anh OP.
  Lm. GB. Trương Thành Công
  Lm. Giacôbê Tạ Chúc
  Lm. Gioan Hà Trần
  Lm. Giuse Hoàng Kim Đại
  Lm. Giuse Lê Công Đức
  Lm. Giuse Ngô Mạnh Điệp
  Lm. Giuse Trần Đình Thụy
  Lm. Giuse Vũ Thái Hòa
  Lm. Inhaxio Trần Ngà
  Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
  Lm. JB Trần Hữu Hạnh fsf.
  Lm. JB. Bùi Ngọc Điệp
  Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh
  Lm. Jos Đồng Đăng
  Lm. Jos Cao Phương Kỷ
  Lm. Jos Hoàng Kim Toan
  Lm. Jos Lê Minh Thông, OP
  Lm. Jos Nguyễn Văn Nghĩa
  Lm. Jos Phan Quang Trí, O.Carm.
  Lm. Jos Phạm Ngọc Ngôn
  Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
  Lm. Jos Trần Đình Long sss
  Lm. Jos.Tuấn Việt,O.Carm
  Lm. Lê Quang Uy, DCCT
  Lm. Lê Văn Quảng Psy.D.
  Lm. Linh Tiến Khải
  Lm. Martin Ng Thanh Tuyền, OP.
  Lm. Minh Anh, TGP. Huế
  Lm. Montfort Phạm Quốc Huyên O. Cist.
  Lm. Ng Công Đoan, SJ
  Lm. Ng Ngọc Thế, SJ.
  Lm. Ngô Tôn Huấn, Doctor of Ministry
  Lm. Nguyễn Hữu An
  Lm. Nguyễn Thành Long
  Lm. Nguyễn Văn Hinh (D.Min)
  Lm. Pascal Ng Ngọc Tỉnh
  Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn
  Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
  Lm. Phạm Văn Tuấn
  Lm. Phạm Vinh Sơn
  Lm. PX. Ng Hùng Oánh
  Lm. Raph. Amore Nguyễn
  Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ
  Lm. Tôma Nguyễn V Hiệp
  Lm. Trần Đức Phương
  Lm. Trần Mạnh Hùng, STD
  Lm. Trần Minh Huy, pss
  Lm. Trần Việt Hùng
  Lm. Trần Xuân Sang, SVD
  Lm. TTT. Võ Tá Khánh
  Lm. Vũ Khởi Phụng
  Lm. Vĩnh Sang, DCCT
  Lm. Vinh Sơn, scj
  Luật sư Đoàn Thanh Liêm
  Luật sư Ng Công Bình
  Mẩu Bút Chì
  Mặc Trầm Cung
  Micae Bùi Thành Châu
  Minh Tâm
  Nữ tu Maria Hồng Hà CMR
  Nguyễn Thụ Nhân
  Nguyễn Văn Nghệ
  Người Giồng Trôm
  Nhà Văn Hương Vĩnh
  Nhà văn Quyên Di
  Nhà Văn Trần Đình Ngọc
  Nhạc Sĩ Alpha Linh
  Nhạc Sĩ Phạm Trung
  Nhạc Sĩ Văn Duy Tùng
  Phaolô Phạm Xuân Khôi
  Phêrô Phạm Văn Trung
  Phó tế Giuse Ng Xuân Văn
  Phó tế JB. Nguyễn Định
  Phùng Văn Phụng
  Phạm Hương Sơn
  Phạm Minh-Tâm
  PM. Cao Huy Hoàng
  Sandy Vũ
  Sr. Agnès Cảnh Tuyết, OP
  Sr. M.G. Võ Thị Sương
  Sr. Minh Thùy, OP.
  Têrêsa Ngọc Nga
  Tín Thác
  TGM. Jos Ngô Quang Kiệt
  TGM. Phaolô Bùi Văn Đọc
  Thanh Tâm
  thanhlinh.net
  Thi sĩ Vincent Mai Văn Phấn
  Thiên Phong
  Thy Khánh
  Thơ Hoàng Quang
  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập
  Tiến Sĩ Tâm Lý Trần Mỹ Duyệt
  Tiến Sĩ Trần Xuân Thời
  Trầm Tĩnh Nguyện
  Trầm Thiên Thu
  Trần Hiếu, San Jose
  Vũ Hưu Dưỡng
  Vũ Sinh Hiên
  Xuân Ly Băng
  Xuân Thái
Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
  GH. Đồng Trách Nhiệm
LIÊN ĐỚI HỖ TƯƠNG VÀ PHỤ TÚC BẢO TRỢ TRONG HUẤN DỤ XÃ HỘI CỦA GIÁO HỘI ( 5 ).

 

NGUYỄN HỌC TẬP

IV - Nền tảng nhân loại học 

" Tiếp nhận được kho tàng của sứ điệp Thánh Kinh, Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội đặc tâm chú ý nhứt là đến các chiều kích chính yếu và bất khả phân của bản thể con người, như vậy cần phải nhận thức được các phương diện quan trọng bí nhiệm và phẩm giá của con người " ( Pontificio Consiglio della Giustizia e della Pace, Compendio della dottrina sociale della Chiesa, op. cit., p.66).

Trong các ý thức hệ, chúng ta thường gặp phải một vài quan niệm hạn hẹp về con người, đề cao quá một chiều kích làm thiêt hại cho những phương diện khác.

Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội trái lại, trong khi đề cao xác nhận địa vị ưu tiên của con người, không làm cho huấn dụ của mình đi song đôi với nhãn quang hạn hẹp đề cao quá đáng cá nhân chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa tập thể. Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội nhấn mạnh

   - " cá nhân con người đối với chúng ta không thể hiện tách biệt giữa họ với nhau rời rạt  như là những hạt cát, nhưng liên kết nhau trong các mối tương quan hoà hợp " ( Pio XII, Summi Pontificatus, d.c., 463).  

   - " và con người không phải chỉ là một yếu tố hay một tế bào trong cơ quan xã hội " ( Centesimus annus, n. 13), tối đa ngưòi ta chỉ có thể nhận biết quan tâm  vai trò động tác của anh ta.

Bởi đó, muốn tránh được các nhãn quang hạn hẹp và phiếm diện, cần phải lưu ý đến tất cả các chiều kích của con người. 

      1 - Các chiều kích của con người.

Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội đặt mình bên trên mọi ý thức hệ và đặc tâm lưu ý đến mọi chiều kích của con người là nền tảng sự hiện hữu cá nhân và xã hội của con người.  

   a) Hiệp nhứt.

Trong nhãn quang nhân loại học ( anthropologique) của Giáo Hội chúng ta thấy được rõ rệt quan niệm con người

   - " được Chúa dựng nên như một đơn vị hiệp nhứt hồn và xác " ( Concilio Lateranese IV, Cap. I, De Fede catholica: DS 800, p. 259).

Đơn vị hiệp nhứt đó được bảo đảm bởi linh hồn thiêng liêng và bất diệt. Bởi đó sự hiện diện của con người là một thực thể hiệp nhứt tất cả.

Điều đó cho phép chúng ta xác quyết có mối liên hệ giữa các khả năng thiêng liêng, trí tuệ và ý chí, cùng với các khả năng thể xác và giác quan.

Bởi đó, " con người, gồm cả thể xác, được hoàn toàn giao phó cho chính mình, và chính trong sự hiệp nhứt của linh hồn và thề xác mà con người là chủ thể của các động tác luân lý của chính mình " ( VS, n. 48).

Con người là một thực thể vật chất được hội nhập vào thế giới bằng thân thể của mình, nhưng đồng thời cũng là một thực thể thiêng liêng, có khả năng mở rộng mình ra với Đấng Tối Cao nhờ vào lý trí và mở rộng mình ra để khám phá ra chân lý ở phía bên kia vật thể.

Tinh thần và thể xác, nơi con người, không phải là hai bản năng đặt gần kề bên cạnh nhau, mà sự hiệp nhứt của cả hai tạo thành một bản thể duy nhứt.

Như vậy, trong nhãn quang của Giáo Hội

   - không có chỗ cho chủ thuyết duy linh, khinh chê thực thể của thể xác,

   - không có có chỗ cho chủ thuyết duy vật, coi thường tâm linh, xem đó đơn sơ như là những gì phát hiện của vật chất.

Như vậy, nếu con người là một thực thể hiệp nhứt hồn và xác, dĩ nhiên là luôn luôn chúng ta phải xem con người như vậy, nhứt là khi con người cần nhờ đến phải được giúp đỡ. Một sự can thiệp với lòng kính trọng đối với phẩm giá con người,

   - không thể chỉ lưu tâm đến các nhu cầu thể xác của anh ta thôi,

   - nhưng còn phải làm thể nào đặt anh ta vào các điều kiện cho phép anh diễn tả được các khả năng thiêng liêng của mình.

Một sự can thiệp như vừa kể không thể nào khác hơn là can thiệp đồng thời theo khuôn mẫu liên đới hỗ tương và phụ túc bảo trợ.

Chúng ta có thể nói rằng liên đới hỗ tương và phụ túc bảo trợ là hai nguyên tắc liên kết nhau, phát xuất từ đơn vị hiệp nhứt của con người. 

   b) Mở rộng mình ra hướng lên Đấng Tối Cao.

Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo xác nhận rằng con người, do bản tính và ơn gọi của mình, là một chủ thể tôn giáo, nghĩa là " có khả năng hướng về Thiên Chúa " :

   - " bởi vì từ Thiên Chúa mà đến và hướng về Thiên Chúa, con người không sống đời sống hoàn hảo theo nhân tính của mình, nếu không sống tự do mối tương giao của mình với Thiên Chúa"(Catechismo della Chiesa Cattolica, n.44). 

Con người mở rộng mình ra hướng về Thiên Chúa, nhưng cũng hướng về tất cả cả tạo vật khác được Thiên Chúa dựng nên.

Con người mở rộng mình ra với Thiên Chúa , với những người khác và với thế giới,

   - " bởi vì chỉ có khi nào hiểu được mình hướng về một chủ thể " anh ", tôi mới hiểu được rõ chủ thể " tôi " của chính tôi. Vượt ra khỏi mình, ra khỏi quan niệm bảo vệ ích kỷ đời sống mình, để đi vào một mối tương quan đối thoại và thông hiệp với người khác " ( Pontificio Consiglio della Giustizia e della Pace, Compendio della dottrina sociale della Chiesa, op. cit., p. 69).

Liên đới hỗ tương và phụ túc bảo trợ là hai nguyên tắc, trong một xã hội trợ lực giúp đỡ một cách thiết thực con người, để sống đời sống đối thoại và thông hiệp đó. 

   c) Đơn vị độc nhứt.

Một chiều kích quan trọng khác cần phải lưu ý trong nền tang của liên đới hỗ tương và nhứt là của phụ túc bảo trợ, đó là đặc tính độc nhứt ( unicité ) của con người.

   - " Con người là một chủ thể độc nhứt và không thể lập lại được ( tức là không có con người nào thứ hai như anh ta ), có khả năng hiểu biết chính mình, tự chiếm hữu chính mình và tự mình quyết định lấy. Anh ta hiện hữu như là " chủ thể " ( subjectivité ), như là trung tâm ý thức lương tâm và tự do, cuộc sống của mình là cuộc sống độc nhứt, và không thể so sánh được với một cuộc sống nào khác, cho thấy anh ta không thể nào có thể bị bất cứ khuynh hướng nào đó ép buộc bị giới hạn trong lằn mức của các hệ thống tư tưởng hay hệ thống quyền lực, ý thức hệ nào khác cũng vậy " ( ibid., n. 70). 

Điều vừa kể đòi buộc mỗi người phải được tôn trọng đối với bất cứ ai, nhứt là đối với các cơ chế chính trị và xã hội.

Con người là cùng đích của xã hội:

   - " Bởi đó trật tự và sự phát triển xã hội phải đặt lợi ích của cá nhân trên hết, bởi vì trật tự của các vật thể phải được thích hợp hoá với trật tự của con người chớ không ngược lại " ( Gaudium et spes, n. 42).

Phẩm giá độc nhứt của con người khiến cho không có bất cứ con người nào có thể trở thành dụng cụ cho các mục đích mà không phải nhằm phát triển cho chính con người.

Như vậy, con người không bao giờ có thể bị công quyền  dùng như là dụng cụ, để thực hiện các đồ án kinh tế, xã hội, chính trị, ý thức hệ, Cộng Sản Chủ Nghĩa Quốc Tế Đại Đồng chẳng hạn. 

Trái lại quyền lực công quyền cần phải canh chừng để mỗi sự can thiệp của các cơ quan công quyền phải luôn luôn được nhằm kính trọng phẩm giá cá nhân con người . 

   d) Tự do.

Một dấu chỉ đặc biệt cho thấy con người là tạo vật được Thiên Chúa muốn tạo dựng nên giống hình ảnh Người đó là tự do:

   - " Phẩm giá con người đòi buộc con người phải được hành động tùy theo sự lựa chon có ý thức và tự do của mình, tức là có ý nghĩ và được thúc đẩy từ nội tâm, chớ không phải do kích thích vô ý thức ở nội tâm hay chỉ do bắt buộc bên ngoài " ( Gaudium et spes, n. 17). 

Qua tự do nhằm thực hiện điều tốt lành đích thực, trật tự nội tâm của con người lớn lên khiến cho mình có khả năng xây dựng chính mình và cũng kiến tạo trật tự xã hội.

Như vậy con người được Chúa gọi hãy biết dùng quyền tự do của mình để tìm kiếm phúc lợi cho chính mình và cho công ích.

Bởi đó cần phải loại trừ đi tất cả các bất công cản trở con người được thăng tiến tự do và phẩm giá của mình, bằng cách thay đổi trật tự kinh tế, xã hội, luật pháp, chính trị và văn hoá.

Nhưng nếu thực sự muốn có được những thay đổi thực sự nhằm phục vụ con người,

   - " trước tiên cần phải dựa vào khả năng thiêng liêng và luân lý,  và vào nhu cầu luôn luôn hoán cải nọi tâm của mỗi người " ( LC, n. 75) .

Và như vậy các cơ chế quyền lực cần phải hành động bằng cách hỗ trợ cho những ai bị cấm cản một cách bất công trong việc hành xử tự do của họ, để đặt họ lại vào hoàn cảnh là những nhân vật chính trong các quyết định thuộc các lãnh vực thuộc thẩm quyền của họ. 

   e ) Bình đẳng. 

Một chiều kích quan trọng khác của con người cần đặc tâm lưu ý để có được nền tảng nhân loại học cho liên đới hỗ tương và phụ túc bảo trợ, đó là chiều kích bình đẳng về phẩm giá giữa tất cả mọi người.

Trước mặt Thiên Chúa, mọi người đều có phẩm giá như nhau, bởi vì được dựng nên giống hình ảnh Người và giống như Người ( Gen 1, 26-27).

Nếu điều vừa kể chúng ta có thể quả quyết dựa vào biến cố sáng tạo, càng có lý chứng hơn, nếu chúng ta đặt liên quan với biến cố nhập thể của Con Thiên Chúa, bởi đó

   - " Không còn chuyện phân biết giữa Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh chị em chỉ là một trong Chúa Ki Tô " ( Gal 3, 28).

Dĩ nhiên giữa những con người với nhau, có những sự khác biệt về khả năng thể lý, trí thức và luân lý.

   - " Tuy nhiên, mỗi cách đối xử khác biệt đối với các quyền căn bản của con người, trong lãnh vực xã hội cũng như văn hoá, vì lý do phái giống, chủng tộc, màu da, hoàn cảnh xã hội, ngôn ngữ hay tôn giáo, đều phải được vượt thắng và loại bỏ, như là những gì trái ngược lại đồ án của Thiên Chúa " ( Gaudium et spes, n. 29).

Bởi đó chúng ta có thể nói rằng địa vị của mỗi người trước mặt Thiên Chúa là nền tảng của địa vị con người trước mặt mọi người khác.

   - " Ngoài ra, đó là nền tảng cuối cùng của bình đẳng căn cội và tình thân hữu giữa con người với nhau, không tùy thuộc vào chủng tộc, phái giống, xuất xứ, văn hoá, thứ hạng trong xã hội " ( Pontificio Consiglio della Giustizia e della Pace, Compendio della dottrina sociale della Chiesa, op. cit., p. 76).

Hơn nữa, mặc dầu giữa các con người với nhau có những khác biệt chính đáng, phẩm giá ngang nhau giữa các con người đòi buộc phải có được một hoàn cảnh sống hợp với nhân tính va công bình hơn.

Bởi đó các cơ chế công quyền phải cố gắng

   - " đặt mình vào vị thế phục vụ phẩm giá và cùng đích của con người, đồng thời tận lực chiến đấu chống lại mọi hình thức nô lệ xã hội và chính trị, và bằng cách bênh vực các quyền căn bản của con người dưới bất cứ chế độ nào " ( Gaudium et spes, n. 29).  

   f) Đặc tính xã hội.

Con người, tự bản tính của mình, là một thực thể có xã hội tính ( Gaudium et spes, n. 12).

Thật vậy nhân tính của con người được thể hiện như là một bản thể của một thực thể tự do, đáp ứng lại nhu cầu của mình bằng cách hội nhập chung với những người đồng loại với mình, qua một mạng lưới các mối tương quan về hiểu biết và yêu thương.

Để đáp ứng được nhu cầu nầy, con người hợp nhau thiết lập thành xã hội,

   - " là một thực thể gồm có một tập hợp các con người, liên kết với nhau theo cấu trúc, được thiết định bằng một nguyên tắc hiệp nhứt đoàn kết, vượt lên trên mỗi người trong họ. Xã hội là một thực thế vừa hữu hình vừa thiêng liêng, là một tổ chức bền vững trong thời gian, gia sản của quá khứ và chuẩn bị cho tương lai " ( Catechismo della Chiesa Cattolica, n. 1880). 

Bởi đó chúng ta cần xác định rằng con người, do bản tính mình, được mời gọi có được cuộc sống xã hội có cấu trúc tổ chúc, và chính đó là đặc tính của con người và làm cho con người  khác biệt với tất cả các tạo vật khác.

Xã hội tính tự nhiên của con người làm cho chúng ta thấy được nguồn gốc của xã hội không phải do khế ước theo quy ước tạo ra, mà có nguồn gốc tư bản thể con người và từ bản thể đó thoát xuất ra việc có thể tự do thực hiện được các thoả ước liên hiệp với nhau ( ĐTC Leo XIII, " Libertatis praestantisssimum , in Acta Leonis XIII, 8 ( 1889), 226-227).

Nhưng do tính ich kỷ, xã hội tính của con người không phải tự nhiên được thể hiện ra nhằm hiệp thông các con người với nhau, nhưng vẫn luôn luôn có thể bị vi khuẩn cá nhân chủ nghĩa nhiểm độc và vượt thắng gây bạo bệnh.

Bởi đó con người cần được nhắc nhớ đến tình liên đới hỗ tương, để làm cho xã hội trong đó mình đang sống có được phẩm chất xứng đáng với danh tánh mong muốn của mình, tức là xã hội có khả năng phục vụ con người và công ích .

Thật vậy, nếu được nhắc nhớ đến chân lý thực trạng bản thể của mình, con người ý thức được rằng họ đều được liên kết nhau bằng chính cùng một bản thể như nhau và có cùng môt mục đích phải cùng nhau xây dựng với nhau và cho nhau.

Nhưng con người cũng phải được nhắc nhớ đến liên đới hỗ tương, bởi vì cuộc sống xã hội con người không phải là cuộc sống " đồng nhất rập khuôn ", như Cộng Sản Chủ Nghĩa hay Xã Hội Chủ Nghĩa chủ trương không tưởng, nếu không muốn nói là xuẩn động.

   - " thật vậy, công ích tùy thuộc vào một cuộc sống xã hội đa nguyên lành mạnh ( chớ không phải đồng nhất rập khuôn mạc rệp )  . Tính cách đa nguyên, đa dạng của xã hội được mời gọi thiết lập một cấu trúc đoàn kết và hoà hợp, mà trong đó mỗi con người vẫn còn gìn giữ diện mạo và tự lập của chính mình. Một vài xã hội, như gia đình, cộng đồng dân sự và cộng dồng tôn giáo là những cấu trúc trực tiếp và lập tức trả lời thích ứng với bản tính nôi tại của con người, các cơ cấu khác đúng hơn thoát xuất từ ý chí tự do " ( Pontificio Consiglio della Giustizia e della Pace, Compendio della dottrina sociale della Chiesa, op. cit., pp. 538-539).     

 

 

Tác giả:  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!