Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng

BBT CGVN YouTube
Thánh Kinh Công Giáo
Cầu nguyện bằng email
Hội Đồng Giám Mục VN
Liên Lạc

Văn Kiện Vatican 2

Lectio divina

Suy Niệm & Cầu Nguyện

Học Hỏi Kinh Thánh

Lớp KT Sr Cảnh Tuyết

Nova Vulgata

Sách Bài Đọc UBPT

LỜI CHÚA LÀ ÁNH SÁNG

GH. Đồng Trách Nhiệm

TAN TRONG ĐẠI DƯƠNG

Video Giảng Lời Chúa

Giáo Huấn Xã Hội CG

Tuần Tin HĐGMVN

Vụn Vặt Suy Tư

Giáo Sĩ Việt Nam

ThăngTiến GiáoDân

Bản Tin Công Giáo VN.

Chứng Nhân Chúa Kitô

Thánh Vịnh Đáp Ca

Phúc Âm Nhật Ký

Tin Vui Thời Điểm

Tin Tức & Sự Kiện

Văn Hóa Xã Hội

Thi Ca Công Giáo

Tâm Lý Giáo Dục

Mục Vụ Gia Đình

Tư Liệu Giáo Hội

Câu Chuyện Thầy Lang

Slideshow-Audio-Video

Chuyện Phiếm Gã Siêu

Các Tác Giả
  Augustinô Đan Quang Tâm
  Đinh Văn Tiến Hùng
  Ban Biên Tập CGVN
  Bác sĩ Ng Tiến Cảnh, MD.
  Bác Sĩ Nguyễn Ý-Đức, MD.
  Bùi Nghiệp, Saigon
  Bosco Thiện-Bản
  Br. Giuse Trần Ngọc Huấn
  Cursillista Inhaxiô Đặng Phúc Minh
  Dã Quỳ
  Dã Tràng Cát
  Elisabeth Nguyễn
  Emmanuel Đinh Quang Bàn
  Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB.
  EYMARD An Mai Đỗ O.Cist.
  Fr. Francis Quảng Trần C.Ss.R
  Fr. Huynhquảng
  Francis Assisi Lê Đình Bảng
  Gia Đình Lectio Divina
  Gioan Lê Quang Vinh
  Giuse Maria Định
  Gm Phêrô Huỳnh Văn Hai
  Gm. Giuse Đinh Đức Đạo
  Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
  Gm. JB. Bùi Tuần
  Gm. Nguyễn Thái Hợp, op
  Gm. Phêrô Nguyễn Khảm
  Gs. Đỗ Hữu Nghiêm
  Gs. Ben. Đỗ Quang Vinh
  Gs. Lê Xuân Hy, Ph.D.
  Gs. Nguyễn Đăng Trúc
  Gs. Nguyễn Văn Thành
  Gs. Phan Văn Phước
  Gs. Trần Duy Nhiên
  Gs. Trần Văn Cảnh
  Gs. Trần Văn Toàn
  Hạt Bụi Tro
  Hồng Hương
  Hiền Lâm
  Hoàng Thị Đáo Tiệp
  Huệ Minh
  HY. Nguyễn Văn Thuận
  HY. Phạm Minh Mẫn
  JB. Lê Đình Nam
  JB. Nguyễn Hữu Vinh
  JB. Nguyễn Quốc Tuấn
  Jerome Nguyễn Văn Nội
  Jorathe Nắng Tím
  Jos. Hoàng Mạnh Hùng
  Jos. Lê Công Thượng
  Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
  Joseph Vũ
  Khang Nguyễn
  Lê Thiên
  Lm Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, HKK
  Lm Đaminh Hương Quất
  Lm. Anmai, C.Ss.R.
  Lm. Anphong Ng Công Minh, OFM.
  Lm. Anrê Đỗ Xuân Quế op.
  Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
  Lm. Đan Vinh, HHTM
  Lm. Đỗ Vân Lực, op.
  Lm. G.Trần Đức Anh OP.
  Lm. GB. Trương Thành Công
  Lm. Giacôbê Tạ Chúc
  Lm. Gioan Hà Trần
  Lm. Giuse Hoàng Kim Đại
  Lm. Giuse Lê Công Đức
  Lm. Giuse Ngô Mạnh Điệp
  Lm. Giuse Trần Đình Thụy
  Lm. Giuse Vũ Thái Hòa
  Lm. Inhaxio Trần Ngà
  Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
  Lm. JB Trần Hữu Hạnh fsf.
  Lm. JB. Bùi Ngọc Điệp
  Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh
  Lm. Jos Đồng Đăng
  Lm. Jos Cao Phương Kỷ
  Lm. Jos Hoàng Kim Toan
  Lm. Jos Lê Minh Thông, OP
  Lm. Jos Nguyễn Văn Nghĩa
  Lm. Jos Phan Quang Trí, O.Carm.
  Lm. Jos Phạm Ngọc Ngôn
  Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
  Lm. Jos Trần Đình Long sss
  Lm. Jos.Tuấn Việt,O.Carm
  Lm. Lê Quang Uy, DCCT
  Lm. Lê Văn Quảng Psy.D.
  Lm. Linh Tiến Khải
  Lm. Martin Ng Thanh Tuyền, OP.
  Lm. Minh Anh, TGP. Huế
  Lm. Montfort Phạm Quốc Huyên O. Cist.
  Lm. Ng Công Đoan, SJ
  Lm. Ng Ngọc Thế, SJ.
  Lm. Ngô Tôn Huấn, Doctor of Ministry
  Lm. Nguyễn Hữu An
  Lm. Nguyễn Thành Long
  Lm. Nguyễn Văn Hinh (D.Min)
  Lm. Pascal Ng Ngọc Tỉnh
  Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn
  Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
  Lm. Phạm Văn Tuấn
  Lm. Phạm Vinh Sơn
  Lm. PX. Ng Hùng Oánh
  Lm. Raph. Amore Nguyễn
  Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ
  Lm. Tôma Nguyễn V Hiệp
  Lm. Trần Đức Phương
  Lm. Trần Mạnh Hùng, STD
  Lm. Trần Minh Huy, pss
  Lm. Trần Việt Hùng
  Lm. Trần Xuân Sang, SVD
  Lm. TTT. Võ Tá Khánh
  Lm. Vũ Khởi Phụng
  Lm. Vĩnh Sang, DCCT
  Lm. Vinh Sơn, scj
  Luật sư Đoàn Thanh Liêm
  Luật sư Ng Công Bình
  Mẩu Bút Chì
  Mặc Trầm Cung
  Micae Bùi Thành Châu
  Minh Tâm
  Nữ tu Maria Hồng Hà CMR
  Nguyễn Thụ Nhân
  Nguyễn Văn Nghệ
  Người Giồng Trôm
  Nhà Văn Hương Vĩnh
  Nhà văn Quyên Di
  Nhà Văn Trần Đình Ngọc
  Nhạc Sĩ Alpha Linh
  Nhạc Sĩ Phạm Trung
  Nhạc Sĩ Văn Duy Tùng
  Phaolô Phạm Xuân Khôi
  Phêrô Phạm Văn Trung
  Phó tế Giuse Ng Xuân Văn
  Phó tế JB. Nguyễn Định
  Phùng Văn Phụng
  Phạm Hương Sơn
  Phạm Minh-Tâm
  PM. Cao Huy Hoàng
  Sandy Vũ
  Sr. Agnès Cảnh Tuyết, OP
  Sr. M.G. Võ Thị Sương
  Sr. Minh Thùy, OP.
  Têrêsa Ngọc Nga
  Tín Thác
  TGM. Jos Ngô Quang Kiệt
  TGM. Phaolô Bùi Văn Đọc
  Thanh Tâm
  thanhlinh.net
  Thi sĩ Vincent Mai Văn Phấn
  Thiên Phong
  Thy Khánh
  Thơ Hoàng Quang
  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập
  Tiến Sĩ Tâm Lý Trần Mỹ Duyệt
  Tiến Sĩ Trần Xuân Thời
  Trầm Tĩnh Nguyện
  Trầm Thiên Thu
  Trần Hiếu, San Jose
  Vũ Hưu Dưỡng
  Vũ Sinh Hiên
  Xuân Ly Băng
  Xuân Thái
Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
  GH. Đồng Trách Nhiệm
LIÊN ĐỚI HÔ TƯƠNG VÀ PHỤ TÚC BẢO TRỢ TRONG HUẤN DỤ XÃ HỘI CỦA GIÁO HỘI ( 2 )

NGUYỄN HỌC TẬP 

II - Nguyên tắc phụ túc bảo trợ.

Nguyên tắc " phụ túc bảo trợ " (subsidiarité) thật là một trong những cột trụ Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội và cũng là một trong những nguyên tắc hiệu lực thiết thực để định hướng giúp chúng ta giải quyết những vấn đề luôn luôn  mới mẻ mà dòng lịch sử biến đổi có thể đặt ra.

Nhưng  " phụ túc bảo trợ " là gì?  

Chúng ta biết rằng từ ngữ phát xuất từ danh từ La Tinh " sussidium " có nghĩa là " giúp đỡ " hay " nâng đỡ ".

Biết như vậy, chúng ta hiểu được từ ngữ ám chỉ một ý nghĩa bên ngoài xem rất đơn sơ, nhưng trên thực tế hàm chứa nhiều ý nghĩa súc tích; hay diễn tả rộng hơn, có nghĩa là các tổ chức xã hội phải giúp đỡ, nâng đỡ, để các cá nhân thực hiện được họ việc họ phải làm, mục đích cần phải đạt được,  bảo trợ cho cá nhân khỏi bị thất bại, thua thiệt, rơi vào tình trạng kiệt quệ khốn cùng, vì không đủ sức thực hiện.

Khi cá nhân tự mình có thể chu toàn được với khả năng của mình,  với sáng kiến và sức lực của mình, các tổ chức xã hội phải để cho họ tự làm lấy.

Các tổ chức xã hội không nên can thiệp vào, nếu không phải là để giúp đỡ những gì cần thiết, hiểu biết, nhân lực, tài lực, dụng cụ  để cho họ có thể tự mình thực hiện được tốt đẹp nhứt các phận vụ của họ.

Trong trường hợp các cá nhân không thể thực hiện được phận vụ để đạt được mục đích nhằm đến, vì thiếu thốn về phương diện tâm lý, nghèo khổ về phương diện kinh tế, vì địa vị giai cấp xã hội, vì không có đủ kiến thức hiểu biết chuyên môn để thực hiện,

   - tổ chức xã hội phải can thiệp hay cả tạm thời thay thế họ, hoặc cung cấp cho những gì thiếu hụt,

   - nhưng là làm thế nào để cá nhân đương sự có thể đạt được lại khả năng khởi thủy và cần thiết của mình và trở lại có khả năng tự mình thực hiện được.

Tổ  chức xã hội " giúp đỡ, bảo trợ, bảo đảm cho " để cho công việc của cá nhân được thực hiện, nhưng không đứng ra thực hiện thay thế cá nhân. 

Trong cuộc sống cộng đồng Quốc Gia, các tổ chức xã hội có rất nhiểu thứ bậc,

   - từ các tổ chức cơ chế Quốc Gia ( lập pháp, hành pháp, tư pháp, các phận bộ trung ương),

   - rồi đến các tổ chức địa phương vùng, tỉnh, quận, làng xã, thôn ấp, khu phố;

   -  các tổ chức xã hội trung gian ở cấp bậc thấp hơn nữa như gia đình, học đường, hiệp hội chuyên nghiệp, đảng phái, cộng đồng tôn giáo ...

Trong loại thứ bậc các tổ chức xã hội trung gian vừa kể, tổ chức ở cấp bậc thấp nhứt, gần sát với đương sự đang cần được " phụ túc bảo trợ " hơn hết, phải là tổ chức tiên khởi ra tay trợ lực bảo trợ cho đương sự thực hiện được mục đích mà phận vụ hay lợi thú mình đòi buộc.

Cũng vậy, các tổ chức ở bậc thấp hơn phải đứng ra gíúp các tổ chức ở bậc cao hơn, trực tiếp can thiệp cho đương sự đang có vấn đề.

Nhưng dù ở cấp bậc nào đi nữa, sự can thiệp " phụ túc bảo trợ " cho đương sự ( cá nhân, đoàn thể, thôn xóm địa phương),

   - chủ thể tác động can thiệp không bao giờ thay thế cho đương sự mình giúp đỡ và bảo trợ,

   - mà chỉ giúp những gì cần thiết để cho đương sự có thể xử dụng sáng kiến, khả năng và sức chuyên cần của mình trong công việc.

Gia đình là tổ chức xã hội tự nhiên gần sát với cá nhân con người, kế đến các hiệp hội khu phố, thôn xóm, làng xã, nghề nghiệp, tổ chức tôn giáo, văn hoá, hành chánh địa phương, hiệp hội kinh tế, kỷ nghệ, nghiệp đoàn lao động, chính đảng...nên phối hợp nhau, thế nào để các tổ chức ở cấp bậc thấp hơn có thể thi hành phận vụ của mình tự lập và có trách nhiệm.

Lý do của nguyên tắc vừa đưọc bàn là vì khởi thủy, chủ thể và cùng đích của xã hội là con người.

Bởi đó các tổ chức xã hội trung gian và tự nhiên của con người phải được đánh giá chính đáng chớ không loại trừ, bởi vì đó là những tổ chức sát gần hơn với cá nhân con người.

Những tổ chức sát gần hơn đó có tính cách nhân bản hơn là những tổ chức ở cấp bậc cao, nhứt là trung ương, là những tổ chức " nặc danh " hay " hành chánh, bàn giấy " , làm việc theo nguyên tắc, trên giấy tờ hơn là thông cảm, nhân đạo, bằng hữu.  

   1) Văn bản hoá nguyên tắc " phụ túc bảo trợ ".

Nguyên tắc phụ túc bảo trợ là một điều mới mẻ của thế kỷ XX cho truyền thống huấn dụ của Giáo Hội về lãnh vực xã hội.

Điều mới mẻ đó là điều được viết thành văn bản trong xã hội tân tiến, tuy nhiên nội dung của nguyên tắc đã có, mặc dầu dưới hình thức mặc nhiên, trong tư tưởng của Thánh Tôma d'Aquino ( Feliciani Giorgio, Dizionario di dottrina sociale della Chiesa, Vita e pensiero, Milano 2004, p. 88).

Trong Thông Điệp Rerum novarum của ĐTC Leo XIII chúng ta thấy được nguyên tắc phụ túc bảo trợ bắt đầu thể hiện rõ hơn. Bởi lẽ trong Thông Điệp của ngài, chúng ta tìm được nhiều đoạn trong đó cơ chế Quốc Gia được kêu gọi

   - hãy tôn trọng sáng kiến riêng của dân chúng,

   - quyền tự lập của gia đình

   - và nhứt là của công đoàn lao động,

bằng cách Quốc Gia hãy tự giới hạn mình " chỉ bằng việc trợ lực vào, khi hoàn cảnh đòi buộc, để bảo vệ và hỗ trợ mà thôi " ( Rerum novarum, n. 37).   

   a) Từ Đức Thánh Cha Pio XI đến Gioan XXIII về " phụ túc bảo trợ ".

Nguyên tắc phụ túc bảo trợ được viết thành văn bản lần đầu tiên với Thông Điệp Quadragesmo anno của Đức Thánh Cha Pio XI ( Năm Thứ Bốn Mươi, sau khi Thông Điệp Rerum novarum của Đức LEO XIII được ban hành) : 

   - " Trước tiên Đức Giáo Hoàng xác nhận, vì có nhiều biến chuyển xảy ra trong xã hội hiện đại, từ nay nhiều sáng kiến chỉ có thể thực hiện được bởi  các động tác của các những tổ chức được gọi là những tổ chức rộng lớn, trên thực tế, có nghĩa là bởi Quốc Gia và các cơ quan công cộng " ( Feliciano Giorgio, id., p. 87). 

Đức Pio XI xác nhận rằng trong tình thế mới xã hội hiện nay, dầu sao đi nữa

   - " nguyên tắc tối quan trọng về triết lý xã hội vẫn giữ nguyên giá trị của nó: đó là bởi vì là điều bất chính cất bỏ đi khỏi các cá nhân những gì họ có thể thực hiện được bằng nghị lực và chuyên cần của chính họ, để giao cho cộng đồng.

Cũng vậy là điều bất chính giao cho một xã hội rộng lớn hơn và ở mức độ cao hơn điều gì mà các cộng đồng bé nhỏ hơn và thấp hơn có thể thực hiện được. Và tổng thể những điều đó là những gì làm thiệt hại nặng nề và xáo trộn trật tự xã hội; bởi vì đối tượng tự nhiên của bất cứ sự can thiệp nào của xã hội đó là trợ lực giúp đỡ bằng cách nâng đỡ các thành phần của thân thể xã hội, nhưng không phải là tiêu diệt và chiếm hữu thu tóm nó...

Bởi đó quyền lực tối thượng của Quốc Gia cần phải để lại cho các hiệp hội nhỏ hơn và ở cấp bậc thấp hơn cáng đáng, thực hiện các công việc và chăm lo những gì ít quan trọng hơn, mà chính Quốc Gia cũng không còn để ý đến; như vậy cơ chế Quốc Gia có thể thực hiện tự do hơn, nhiều nghị lực hơn và hữu hiệu hơn các phần mà mình có bổn phận phải thực hiện, bơi vì chỉ có Quốc Gia mới có thể chu toàn được; đó tức là hướng dẫn, cảnh giác, kích thích, đàn áp tùy theo trường hợp và nhu cầu cần thiết...

Trật tự thứ bậc giữa các hiệp hội càng được bảo toàn tốt đẹp bao nhiêu, thích ứng với nguyên tắc phận vụ phụ túc cho hoạt động xã hội, uy quyền  và mãnh lực xã hội  càng thành công hơn bấy nhiêu và do đó tốt đẹp hơn và sung mãn hơn cho hoàn cảnh của chính Quốc Gia " ( Quadragesimo anno, n. 80-81). 

Điều mới mẻ lời huấn dạy của Giáo Hội trong đoạn Thông Điệp vừa trích dẫn về nguyên tắc và bổn phận được đề cập, phần lớn do ảnh hưởng của một vài luồng tư tưởng đang lưu hành lúc đó trong môi trường Đức Quốc , mà chúng ta đã có dịp nhắc đến trong bài viết trước, lên quan đến " liên đới hỗ tương  Ki Tô giáo ", trước tiên là tư tưởng  của G. Gundlach và kế đến là của O. von Nell Breuning , mà theo đó Thông Điệp của Đức Thánh Cha Pio XI được khai triển thêm ra.

Thông Điệp tuyên bố và khai triển một cách rõ ràng nguyên tắc " phụ túc bảo trợ " như chúng ta vừa đọc là một điều mới mẻ, nhưng nội dung của nguyên tắc đã hàm chứa trong tư tưởng của hai tác giả vừa được đề cập.

Điều đó cho thấy rằng ý nghĩa nội dung của nguyên tắc đã có trong truyền thống huấn dạy của Giáo Hội về lãnh vực xã hội, mà theo các học giả đáng lưu ý, truyền thống đó của Giáo Hội cũng chỉ nhắc lại một nguyên tắc thật cổ xưa khôn ngoan của con người, được đặt nền tảng trên chính quyền tự nhiên của con người được Chúa ban cho ( Feliciani Giorgio, id., p. 87-88).

Ngay trong tư tưởng của Thánh Tôma d'Aquino, ngài đã xác định rằng áp đặt một cuộc sống và hành xử đồng nhứt rập khuôn quá độ ( ví dụ như " vô sản chuyên chế mạc rệp " của Cộng Sản chủ nghĩa,  đồng nhứt đối với tất cả mọi người, chẳng hạn)  trong một Quốc Gia Cộng Hoà gồm có nhiều thành phần khác nhau, là một mối nguy hiểm.

Vị Thánh Tiến Sĩ Giáo Hội đã khai triển ra quan niệm về công bằng xã hội có khả năng hội nhập liên đới hỗ tương với tự do sáng kiến, và như vậy cũng với quyền tự lập của các tổ chức xã hội trung gian nhỏ hơn và của cá nhân.

Đức Pio XI tuyên bố lại tư tưởng " phụ túc bảo trợ " một cách minh bạch hơn trong Thông Điệp của ngài để cảnh giác tránh các mối nguy hại về một cách tổ chức " liên đới hỗ tương "  tập thể, toàn trị và độc tài của một loại ý thức hệ kém hiểu biết và không tưởng đang manh nha hiện hành lúc đó trên một số Quốc Gia.

Nói một cách ngắn gọn, đối với Thông Điêp Quadragesimo anno , phụ túc bảo trợ  

   - " nói cho biết làm thế nào có thể thực hiện được tình liên đới hỗ tương giữa các tổ chức xã hội khác nhau, nhằm đem lại lợi ích chung và sau cùng, nhằm thăng tiến con người " ( Toso Mario, id. p. 521).

   b) Đức Thánh Cha Pio XII và Gioan XXIII về " phụ túc bảo trợ".

Các Đấng Kế Vị Đức Pio XI còn nhấn mạnh đến tấm quan trọng của nguyên tắc " phụ túc bảo trợ " trong nhiều trường hợp khác nhau, nhưng không góp phần thêm những gì mới mẻ trên bình diện định nghĩa thuyết lý.

Đức Thánh Cha Pio XII vẫn tiếp tục nhìn nhận nguyên tắc được nêu trên 

   - " vẫn có giá trị cho cuộc sống xã hội trong mọi đẳng cấp " ( Pio XII, Ai nuovi Cardinali sulla funzione della Chesa per la ricostruzione della società, 20.02.1946). 

Ngài xác nhận rằng bổn phận thiết lập nền trật tự xã hội không " khoán trắng " cho phép Quốc Gia

   - có quyền vô hạn định

   - và dưới mọi hình thức nào tùy hỷ vào bất cứ lãnh vực nào trong xã hội.

Đối với vấn đề làm việc chẳng hạn, Đức Thánh Cha Pio XII nhắc lại rằng đó là động tác của con người và như vậy, bổn phận và quyền tổ chức việc làm  

   - " trước tiên thuộc về các chủ thể có liên can trực tiếp: tức là chủ nhân và công nhân " ( ĐTC Pio XII, Radiomessaggio per il 50° anniversario della " Rerum novarum ", in AAS 33 ( 1941) 195-205, n. 19).   

Đức Thánh Cha Pio XII cũng có công nhấn mạnh đến khía cạnh luật pháp của nguyên tắc phụ túc bảo trợ.

Đối với ngài, nguyên tắc không chỉ cần phải được nhìn nhận trong lãnh vực luân lý, nhưng còn phải được bảo đảm và phát huy về phương  diện lịch sử trong cấu trúc nội dung của các định chế luật pháp của mỗi Quốc Gia.  

Đức Thánh Cha Gioan XXIII, trong Thông Điệp Mater et Magistra ngày 15 tháng 5 năm 1961, khởi đầu từ Thông Điệp Quadragesimo anno đưa ra những hướng dẫn mới về những áp dụng có thể và thực tế của nguyên tắc phụ túc bảo trợ, nhứt là trong lãnh vực kinh tế:

   - " Sự hiện diện của Quốc Gia trong lãnh vực kinh tế , mặc dầu rộng lớn và sâu đậm, không thể thực hiện để càng ngày càng giảm thiểu đi lãnh vực sáng kiến cá nhân của từng người công dân, đáng lý hơn là để bảo đảm cho lãnh vực đó càng có trường độ rộng rãi hơn...điều đó hàm chứa trong các hệ thống kinh tế tiến trình tự do của các động tác sản xuất càng được nhìn nhận và dành mọi dễ dàng để khuyến khích " ( Mater et Magistra, n. 42).

Trong Thông Điệp Mater et Magistra lần đầu tiên chúng ta gặp được danh từ " phụ túc bảo trợ " ( subsidiarité) để nói lên ý nghĩa của nguyên tắc mà các Đấng Tiền Nhiệm của Đức Gioan XXIII đã nhiều lần đề câp đến, như chúng ta đã có dịp bàn thảo trước đây. để xác định rằng  

   - " động tác của công quyền có tính cách định hướng, khuyến khích, phối hợp, bổ khuyết và làm hoàn hảo hoá, phải được gợi ý cho theo " nguyên tắc phụ túc bảo trợ ", đã được Đức Pio XI tuyên bố lên trong Thông Điệp Quaragesimo anno " ( Mater et Magistra, n. 40).   

Với Thông Điệp Pacem in Terris ngày 11 tháng 4 năm 1963, Đức Thánh Cha Gioan XXIII áp dụng nguyên tắc được nêu lên trong bối cảnh xã hội đã được hoàn cầu hóa, nghĩa là áp dụng vào lãnh vực cộng tác quốc tế, bằng cách xác nhận:

   - " Như các mối liên hê giữa các cá nhân, gia đình, các tổ chức xã hội trung gian, và các cơ quan công quyền của các cộng đồng chính trị thuộc hệ, trong những động tác can thiệp vào, phải được thiết định theo nguyên tắc phụ túc bảo trợ; cũng vậy, dưới ánh sáng của cùng một nguyên tắc, các mối tương quan giữa các quyền lực công công của mỗi cộng đồng chính trị với các quyền lực công cộng của cộng đồng thế giới " ( Pacem in Terris, n. 24). 

   c) Công Đồng Vatican II và " phụ túc bảo trợ ".

Trong các tài liệu Công Đồng Vatican II, danh từ " phụ túc bảo trợ " chỉ được đề cập với danh tánh có 3 lần, khi nói về giáo dục (tại gia đình cũng như ở học đường), đến mối tương quan cộng tác quốc tế.

Trong lãnh vực liên quan đến nền giáo dục Ki Tô giáo Gravissimus educationis, các Thượng Phụ Công Đồng xác nhận:

   - " cha me là những người tiên khởi có bổn phận và quyền không thể khước từ để giáo dục con cái, phải có quyền tự do thực sự trong việc lựa chon học đường...Chính Quốc Gia cũng phải ...phát huy cả định chế trường ốc, bằng cách đặc tâm lưu ý đến nguyên tắc phụ túc bảo trợ " ( Gravissimus educationis, n.6).   

Về vấn đề hợp tác, trong Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội giữa trần thế Gaudium et spes, các Thượng Phụ mời gọi cộng đồng quốc tế hãy hợp tác và khuyến khích việc phát triển các Quốc Gia yếu kém hơn, bằng cách kết hợp " liên đới hỗ tương " và " phụ túc bảo trợ ":

   - " ngoài ra nguyên tắc phụ túc bảo trợ, cộng đồng quốc tế cũng có bổn phận phải đều hòa các mối tương giao kinh tế thế giới theo các chỉ thị của đức công bình " ( Gaudium et spes, n. 86).

Nhưng đọc kỹ lưỡng hơn các tài liệu Công Đồng, ngoài ra những đoạn văn vừa trích dẫn, chúng ta còn gặp được nhiều lời giảng dạy khác liên quan đến nguyên tắc phụ túc bảo trợ. Ví dụ, trong Hiến Chế Gaudium et spes, Công Đồng  

-  " mạnh mẽ khuyến khích những người đang nắm chính quyền đừng cản trở các nhóm gia đình, xã hội hay văn hoá, các tổ chức hay cơ chế trung gian, cũng như đừng làm cho họ mất đi động tác chính danh và hiệu năng của họ, trái lại các quyền lực công quyền đó hãy sẵn sàng và dành mọi dễ dàng bằng định chế cho họ " ( Gaudium et spes, n. 75). 

   d) Đức Thánh Cha Phaolồ VI và tài liệu " self-reliance ".

Trong lời giảng dạy của Đức Thánh Cha Phaolồ VI, nguyên tắc phụ túc bảo trợ không được đề cập đến, nhưng chúng ta vẫn thấy được dấu vết trong Thông Điệp Populorum progressio ngày 26 tháng 3 năm 1967, trong Thông Điệp Octogesima adveniens ngày 14 tháng 5 năm 1971.

Về vấn đề hợp tác quốc tế  chẳng hạn, Đức Thánh Cha khước từ mọi hình thức " cứu tế ", bởi lẽ đó là những gì làm tổn thương đến quyền tự lập và tự do sáng kiến của các Quốc Gia riêng rẻ:

   -  Sự liên đới hỗ tương thế giới, luôn luôn hữu hiệu, phải cho phép mọi dân tộc trở thành chính là những nhân vật thủ thuật cho số phận của mình...Các dân tộc non trẻ và yếu kém hơn đòi buộc phần tích cực thuộc về mình trong việc kiến tạo một thế giới tốt đẹp hơn, được tôn trọng hơn các quyền và ơn gọi của mỗi dân tộc " ( Populorum progressio, n. 65).

Như vậy, sự " liên đới hỗ tương", để có thể được coi là chính đáng, cần phải được phối hợp với " phụ túc bảo trợ", để cho mỗi người có thể tích cực tham dự vào cấu tạo lợi ích tư riêng của mình và công ích.

Đề cập đến xác tín văn hoá cho rằng chính con người chính là  chủ  thể phải đứng ra xây dựng xã hội, Đức Phaolồ VI xác quyết rằng không phải Quốc Gia hay các chính đảng có phận sự áp đặt thế nào phải tổ chức xã hội đó, nhưng chính là

   - " phận sự của các nhóm tổ chức xã hội trung gian văn hoá và tôn giáo, mà con người có quyền tự do hội nhập vào, con người và những tổ chức đó mới là những chủ thể đưa ra đề nghị, khai triển trong cấu trúc xã hội, một cách vô tư lợi và theo định hướng của chính  mình, những xác tín đó về bản  chất, nguồn gốc và cùng đích của con người và của xã hội " ( Octogesima adveniens, n. 25).

Nguyên tắc phụ túc bảo trợ được nhắc đến một cách rõ rệt, trong triều đại của Đức Phaolồ VI, trong một vài tài liệu được Toà Thánh ban hành và liên quan đến các vấn đề

   - truyền thông xã hội ( Pontificio Consiglio delle Comunicazioni Sociali,  " Communnicatio et progressio ", Istruzione pastorale sugli strumenti della comunicazione sociale, in Ench. Vat., voi IV, 23.05.1971),

   - học đường công giáo ( Congregazione per l'educazione cattolica, " La scuola cattolica ", in Ench. Vat., vol.VI, 19.03.1977) và về

   - y tế ( Pontificio Consiglio Cor unum, " Servizi sanitari per un'azione sanitaria primaria", in Ench. Vat., vol.VI, 06.11.19779.

Một cách đặc biệt, nguyên tắc được đề cập đến khá rộng rãi bởi Thánh Bộ Công Lý và Hoà Bình trong tài liệu Self-reliance ngày 15 tháng 5 năm 1978. qua những gì Thánh Bộ Công Lý và Hoà Bình đề cập đến về nguyên tắc, chúng ta biết được Thánh Bộ cho biết cần phải chống lại

   - " khuynh hướng tự nhiên cho rằng  tất  cả đều được tập trung và tất cả đều được thiết định chương trình bởi uy quyền từ trên cao, bởi lẽ các cộng đồng trung gian, với những tước vị khác nhau của mình, cũng có trách nhiệm của chính mình, chớ không phải chỉ là những phận vụ được quyền lực chính trị ban cho " ( Commissione Pontificia Justitia et Pax, " Self-reliance" ( dựa vào khả năng của chính mình ), in Ench. Vat. vot. VI, 15.05.1978, p. 766).  

Ủy Ban của Thánh Bộ Công Lý và Hoà Bình cũng cho thấy rõ

   - " trung thành với phẩm giá con người là tình liên đới hỗ tương, đức tính liên kết chặt chẽ với phụ túc bảo trợ. Đặc tính vừa kể đặt như là điều kiện tiên quyết giá trị bất khả nhượng và ưu tiên của con người, điều kiện phải có  để bảo đảm cho tình liên đới hỗ tương khỏi mọi thất thoát sai lạc và biến dạng đê tiện hoá thành toàn trị " ( Cozzoli Mauro, " Virtù sociale ", in T. Goffi -G. Piana ( edd.), Corso di morale, vol III, Koinomia, Querinana, Brescia 2002, p. 150). 

 Điều vừa kể bảo đảm cho quyền tự lập và tự do của con người, của gia đình và các hiệp hội. Các quyền đó không bị hủy hoại, hy sinh, mà trái lại phải được bảo trợ, nâng đỡ, bởi nguyên tắc phụ túc bảo trợ, là nguyên tắc  

   - " nhằm trợ lực những quyền đó trong tiến trình thực hiện năng động của mình, dành mọi dễ dàng cho tiến trình thực hiện năng động đó, tạo nên những điều kiện tổng quát để trợ lực cho chính nguyên tắc liên đới hỗ tương; nói cách tổng quát là giúp cá nhân con người và các nhóm xã hội trung gian năng động phát huy được trung tâm đoàn kết của mình và trung tâm của đời sống " ( Commissione Justitia et Pax, " Self-reliance", dựa vào khả năng của chính mình, id., p. 769).  

Trong tài liệu, Ủy Ban cũng nhấn mạnh đến từ ngữ " sussidium " ( nâng đỡ, trợ lực) có thể làm cho chúng ta hiểu lầm với tư tưởng " ở địa vị hạng hai, thứ yếu ".

Thật ra " sussidium " mà một xã hội phức tạp hơn, nhứt là xã hội chính trị, cần phải cung cấp cho xã hội ở thứ bậc thấp hơn và cho các cá nhân, nhứt là những cá nhân yếu kém có nhu cầu, không có gì là " thứ yếu, thuộc hạng hai ", mà đúng hơn là những gì cần thiết và thiết yếu để kiến tạo một xã hội, trong đó tính cách năng động phát xuất từ các chủ thể con người.

Câu xác quyết cuối cùng, chúng ta có thể nói:

   - " Nguyên tắc phụ túc bảo trợ cho biết mọi kiến trúc xã hội đều phải được thực hiện cho con người  và khởi đầu từ con người " ( ibid., p. 77).

   e) Đức Thánh Cha Gioan Phaolồ II.

Với triều đại lâu dài của Đức Thánh Cha Gioan Phaolồ II, nguyên tắc phụ túc bảo trợ  trở thành tư tưởng thường được nhắc đến trong các lời huấn dạy của ngài, cũng như trong các tài liệu của Toà Thánh.

Năm 1980, trong sứ điệp gởi cho Liên Hiệp Quốc, Đức Gioan Phaolồ II đã nói lên một cách rõ rệt 

   - " bằng cách khai triển quan niệm phụ túc bảo trợ...nhiều nhóm người cũng như nhiều dân tộc có thể giải quyết tốt đẹp hơn các vấn đề của mình ở tầm mức địa phương hay ở mức độ trung bình " ( ĐTC Gioan Phaolồ II, Al presidente dell'Assemblea Generale delle Nazioni Unite, 8. Messaggio, 22.09.1980). 

Trong Huấn Dụ  tông Đồ Familiaris consortio ngài nhắc nhở rằng:

   - " xã hội và nhứt là Quốc Gia...trong các mối liên hệ với gia đình, bị bắt buộc nặng nề phải áp dụng nguyên tắc phụ túc bảo trợ " ( Familiaris consortio, n. 45). 

Trong  Huấn Dụ của Thánh Bộ Tín Lý Libertatis conscientia nói lên rõ ràng nguyên tắc phụ túc bảo trợ, cùng với nguyên tắc liên đới hỗ tương, có liên hệ sâu đậm với phẩm giá con người và được định nghĩa như là

   - " nền tảng cho các tiêu chuẩn để chuẩn định các hoàn cảnh, cấu trúc và hệ thống xã hội " ( Libertatis conscientia, n. 74).

Hậu quả rõ rệt của điều vừa kể, đó là

   - " Quốc Gia cũng như một vài tổ chức xã hội không bao giờ được thay thế sáng kiến và trách nhiệm cá nhân của con người và của các tổ chức xã hội trung gian trong những lãnh vực trong đó họ có thể tự hành động, cũng không bao giờ được tiêu diệt khoản không gian cần thiết cho quyền tự do của họ " ( Libertatis conscientia, n. 73). 

Như vậy, như là phần bổ túc của nguyên tắc liên đới hỗ tương, phụ túc bảo trợ được xem là nguyên tắc cần thiết và quan trọng để chỉnh đốn tổ chức đời sống xã hội, như là nguyên tắc 

   - " bảo vệ con người, các cộng đồng địa phương và các tổ chức xã hội trung gian khỏi phải mất đi lãnh vực tự lập chính danh của mình " ( DSCFS, n. 38). 

Ngày 01 tháng 5 năm 1991, nhân dịp giáp 100 năm Thông Điệp Rerum novarum đưọc phổ biến, Đức Thánh Cha Gioan Phaolaồ II cùng với Thông Điệp Centesimus annus chính cá nhân ngài đứng ra can thiệp về nguyên tắc phụ túc bảo trợ, bằng cách nhắc nhở rằng dựa theo

   - " tất cả Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội, đặc tính xã hội của con người không chỉ kết thúc quy tóm vào Quốc Gia, mà còn được thực hiện trong các tổ chức trung gian khác nhau, khởi đầu từ gia đình cho đến các tổ chức kinh tế, xã hội, chính trị và văn hoá, là những tổ chức thoát xuất từ chính bản thể của con người, những tổ chức đó - luôn luôn nằm trong lằn mức công ích - có lãnh vực tự lập của chính mình " ( Centesimus annus, n. 13). 

Đối với Đức Gioan Phaolồ II, người Ba Lan, là người đã có kinh nghiệm bản thân mình đối với việc khước từ ý thức hệ về lãnh vực tự lập con người của " chủ nghĩa xã hội thực tế " ( socialismo reale ), cũng như đứng trước mối nguy hại của " chủ thuyết cá nhân man dại " ( individualismo selvatico), ngài xác nhận rằng việc tôn trọng, trong mọi lãnh vực,   

   - " nguyên tắc phụ túc bảo trợ: đó là một tổ chức xã hội ở thứ bậc cao hơn không được can dự vào đời sống nội bộ của một tổ chức ở lãnh vực thấp hơn, khiến cho tổ chức vừa kể mất đi thẩm quyền của mình, nhưng đúng hơn phải  nâng đỡ bảo trợ trong trường hợp cần thiết và giúp cho tổ chức đang bàn phối hợp được động tác  của mình với động tác của các thành phần xã hội khác, nhằm tạo được lợi ích chung " ( Centesimus annus, n. 48). 

Nói cách khác, đối với Thông Điệp Centesimus annus, việc áp dụng chính đáng nguyên tắc phụ túc bổ trợ

   - " nếu một đàng đòi buộc phải có việc chấp nhận quyền tự lập và tự do sáng kiến, thì đàng khác không phải  hàm chứa " mỗi người tự lo lấy ", như quan niệm  ngày nay chúng ta thường gặp. Công ích đòi buộc mỗi công dân, mỗi tổ chức xã hội phải góp phần của chính mình để thực hiện " ( Toso Mario, " Solidarietà e sussidiarietà" nell'insegnamento  sociale della Chiesa, op. cit.,p. 534). 

Những gì vừa kể làm cho chúng ta có ý niệm rằng người  hiểu biết được nhu cầu và có khả năng giải quyết tốt đẹp thoả đáng  hơn ai hết, đó là người ở gần hơn và làm cho mình trở thành người thân cận đối với người có nhu cầu.

Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo, trong chương đề cập đến xã hội con người, phát biểu lên nguyên tắc phụ túc bảo trợ với cùng một phương thức được Thông Điệp Centesimus annus đã dùng.

Sau khi đã nhấn mạnh rằng :

   -" một sự can thiệp quá mạnh bạo của Quốc Gia có thể hăm doạ tự do và các sáng kiến cá nhân " ( Catechieso della Chiesa cattolica, n. 1885).

Phụ túc bảo trợ

   - " xác định rõ các lằn mức can thiệp của Quốc Gia, nhằm hoà hợp các mối tương giao giũa các cá nhân và các tổ chức xã hội. Nhằm thiết lập một trật tự quốc tế chính đáng " ( ibid.) 

Trong một tài liệu, Ủy Ban Công Lý và Hoà Bình của Hội Đồng Giám Mục Ý Quốc xác nhận rằng nguyên tắc phụ túc bảo trợ là một trong ba nguyên tắc, linh hồn của một Quốc Gia xã hội, cùng chung với nguyên tắc liên đới hỗ tương và nguyên tắc trách nhiệm:

   - " Cơn khủng hoảng của Quốc Gia xã hội gặp được một trong những nguyên nhân văn hoá và cấu trúc được coi là có hiệu lực hơn, nên đã  bỏ qua và quên lãng đi nguyên tắc phụ túc bảo trợ. Trái lại đó là sức mạnh mới cần cung cấp cho Quốc Gia xã hội, để có thể và phải là động lực cần thiết trong việc áp dụng tự do và hoàn hảo nguyên tắc được đề cập " ( Commissione ecclesiale Giustizia e Pace Cei, Stato sociale e educazione alla socialità, nota pastorale, ed. Paoline, Milano 1995, n. 44). 

   2 - Một vài suy nghĩ đúc kết phần ( 2 ).

Qua tiến trình duyệt xét lịch sử của tư tưởng nguyên tắc phụ túc bảo trợ vừa lướt qua, chúng ta có thể kết luận rằng nguyên tắc phụ túc bảo trợ có nguồn gốc từ căn tính ( identité ) của con người: phẩm giá tối thượng của con người và khuynh hướng xã hội của mình.

Từ nguồn gốc phát xuất từ căn tính đó của con người, nguyên tắc phụ túc bảo trợ đòi buộc

   a) các cộng đồng phải có như là mục đích duy nhứt của mình, đó là trợ lực ( sussidium ) cho các cá nhân trong việc đảm nhận trách nhiệm của chính cá nhân mình nhằm mục đích thành đạt chính mình, bằng cách bảo đảm được cho họ các điều kiện cần thiết phải có. Mỗi người và mỗi tổ chức xã hội được con người thiết lập nên đều có quyền tự lập và các quyền thuộc về thẩm quyền của chính mình mà Quốc Gia phải nhận biết, bảo vệ và phát huy. 

   b) các tổ chức xã hội " lớn hơn " hay " cao hơn " có lý do hiện hữu là để chu toàn vai trò " phụ túc bảo trợ " đối với những cộng đồng " nhỏ hơn " hay " thấp hơn ", không được khiếm diện trốn tránh trách nhiệm, nhưng là hiện diện trong lằn mức tôn trọng bản thể và bổn phận của mình, chuyên cần dấn thân " bảo trợ bổ túc " những thiếu sót của các tổ chức đàn em, nhằm mục đích giúp cho chúng triển nở hơn lên. 

   c) nguyên tắc phụ túc bảo trợ có giá trị đối với bất cứ tổ chức xã hội nào, mặc dầu đòi buộc phải được hiểu một cách xác định và cá biệt đối với bản tính của mỗi cộng đồng và hoàn cảnh lịch sử sống của mỗi cộng đồng đó. 

Như vậy nguyên tắc phụ túc bảo trợ có bổn phận điều hoà các mối tưong quan cá nhân - xã hội, nhằm loại trừ mọi khuynh hướng tuyết đối độc tôn của bất cứ thể chế và cơ chế nào.

Nguyên tắc đang bàn định chuẩn giá trị đa nguyên, đa dạng của xã hội, như là con đường nhằm thực hiện lợi ích cá nhân và công ích.

Bởi đó nguyên tắc phụ túc bảo trợ đòi buộc một tổ chức xã hội mà mọi người đều  tham dự, trong đó các cá nhân hay các nhóm tổ chức xã hội trung gian đều thực sự đồng trách nhiệm và liên đới nhau.

Thật vậy, chúng ta cần nhớ rằng, theo Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội, phụ túc bảo trợ không bao giờ có thể tách rời khỏi liên đới hỗ tương.

Nói đúng hơn hai nguyên tắc đươm kết, dính líu hội nhập vào nhau, đến nỗi phụ túc bảo trợ được coi như là " phần bổ túc của liên đới hỗ tương " ( DSCFS, n.38) và hàm chứa trong đó như là cấu trúc liên hệ và áp dụng thực tế của liên đới hỗ tương.

Phụ túc bảo trợ

   - " không những chỉ nói lên xã hội cần phải có liên đới hay cần phải giúp đỡ các cá nhân và các nhóm có nhu cầu, nhưng còn cho biết là phải thực hiện sự liên đới thế nào để những chủ thể vừa kể vẫn còn được kính trọng trong lãnh vực tác động và thẩm quyền của họ, và đồng thời ho cũng được khuyến khích hãy góp phần tối đa vào công ích " ( Commissione Giustizia e Pace Cei, op. cit., p.539).

Như vậy liên đới bảo trợ đã đặt điều kiện tiên quyết là một sự liên đới phụ túc ( Teso Mario, op. cit., p. 540), theo chiều ngang, hướng lên cao, cũng như từ trên nhìn xuống. Bởi đó

   * theo hàng ngang, mỗi tổ chức xã hội đều được mời gọi nhận biết , kính trọng và giúp đỡ theo phương thức phụ túc các tổ chức xã hội khác " đồng hàng " với mình;

   *nhằm hướng thượng, mọi tổ chức xã hội ở bậc " thấp hơn " có bổn phận phải góp phần mình để tạo được lợi ích cho các tổ chức xã hội " ở bậc cao hơn ", hay đúng hơn là cho công ích của Vùng và của cả Quốc Gia.

   * từ trên nhìn xuống, các tổ chức " lớn hơn, cao cả hơn " phải góp phần trợ lực " sussidium " của mình cho tất cả các tổ chức xã hội " ở bậc thấp hơn " trong thẩm quyền và trách niệm của mình, để cho các tổ chức đàn em có thể thực hiện được nguyện vọng của " tụi nó ".

Tác giả:  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!