NGUYỄN HỌC TẬP
Liên đới hổ tương ( solidariété ) và phụ túc bảo trợ ( sussidiariété ) là hai nguyên tắc nền tảng trên đó khuôn sườn Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội được xây dựng lên.
Hai nguyên tắc vừa kể đã luôn luôn được xác nhận trong Giáo Hội, mặc dầu đôi khi một cách mặc nhiên, bởi lẽ đó là nhãn quang nhân loại luận của Ki Tô giáo, có xuất xứ từ Mạc Khải.
Nêu lên danh tánh của hai từ ngữ đó một cách minh nhiên, chúng ta có thể tìm gặp trong nội dung Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội, khởi đầu từ năm 1891, năm Đức Thánh Cha Leo XIII, với Huấn Dụ Rerum Novarum, đã khởi đầu đề cập đến những huấn dạy về xã hội cho con cái Ki Tô hữu của mình một cách có hệ thống.
I - Nguyên tắc liên đới hổ tương.
Từ ngữ " liên đới hổ tương " rất được phổ biến, nhưng với ý nghĩ không có gì chính xác và cũng có vẻ phiến diện, hời hợt.
Danh từ vừa kể có xuất xứ từ Bộ Luật Roma, trong đó có điều khoản " bắt buộc phải liên đới nhau " ( in solidum ), có tính cách bắt buộc đối với nhiều chủ thể phải " tương trợ lẫn nhau " ( co - obbligati ), mỗi người đều có trách nhiệm phải đáp ứng đối với những gì là bổn phận chung, cho công ích , chớ không phải chỉ những gì thuộc bổn phận và lợi thú tư riêng của mình, khi trách nhiệm chung và công ích đó đòi buộc ( Monti Eros, Dizionario di dottrina sociale della Chiesa, Vita e Pensiero, Milano 2004,p. 77).
Trong dòng lịch sử, Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội đã góp phần khá quan trọng để xác định chính xác hơn ý nghĩa của danh từ " liên đới hổ tương ", qua những cuộc đối thoại trong lòng biến cố các Huấn Dụ được khai triển về phía Ki Tô giáo với những tư tưởng của những người không có hay không muốn có đức tin.
1.1 ) Tinh thần liên đới hổ tương Ki Tô giáo.
Các tư tưởng về liên đới hổ tương đã được khai triển đến mức độ thượng đẳng trong môi trường văn hoá Pháp vào cuối thế kỷ XIX, cùng với biến cố khai sinh " chủ thuyết liên đới " ( solidarisme ).
Góp công đầu tiên cho chủ thuyết, mà chúng ta biết được, đó là sự đóng góp công sức của triết gia P. Leroux ( 1797-1871). Ông đề nghị một chủ thuyết đứng tách xa khỏi " tự do chủ nghĩa " ( liberisme ) cũng như tách rời khỏi " xã hội chủ nghĩa " ( socialisme). Chủ thuyết liên đới của P. Leroux chủ trương nhằm khám phá ra mối tương quan liên hệ sâu đậm nối kết cả nhân loại lại với nhau và cho phép con người được sinh ra và sống trong xã hội.
Đối với P. Leroux, liên đới hổ tương là câu trả lời đối với mối tranh chấp không thể giải quyết được giữa những lý do bảo đảm cho cá nhân được tự do và tại sao xã hội có lý do phải được hiện hữu.
Một thúc đẩy hướng về cuộc sống thực hành và quyết định, được chính trị gia Léon Bourgeois ( 1851-1923 ) góp phần vào, bằng cách phân biệt giữa " thực tế liên đới " ( solidariété - fait ) và " liên đới trách vụ " ( solidariété -devoir ) phải có trên thuyết lý.
Với tư tưởng thứ nhứt, " thực tế liên đới ", Léon Bourgeois có ý cho biết sự liên hệ tùy thuộc khởi thủy giữa các con người, bởi vì đó chính là mối liên hệ vật thể và bản tính tự nhiên giữa người với người, và bởi đó cần thiết cho sự sống còn của nhau.
Tư tưởng về " liên đới phải có " ( hay thuyết lý ) thoát xuất từ việc tìm hiểu, quan sát viễn ảnh luân lý - xã hội ( éthic-social ) về mối bắt buộc vừa đề cập, bằng cách nói lên cho thấy đó là điều cần thiết, là bổn phận mỗi người phải làm, tạo được lợi ích cho tất cả những người khác cùng chung sống với mình, bởi lẽ sống trong xã hội, mọi người chúng ta đều mang ơn, mắc nợ xã hội, nhứt là đối với những thế hệ đã qua đi ( Monti Eros, id., p. 79).
Cũng vào những năm đó, trong môi trường Đức Quốc, triết gia và thần học gia H. Pesch ( 1854-1826) thiết lập một luồng tư tưởng được gọi là " tình liên đới Ki tô giáo " .
Luồng tư tưởng đó được khai triển thêm cho đến 1/2 thế kỷ XX do công trình của O von Nell - Breuning ( 1890-1991) và G. Grundlach ( 1982-1963), được gắn chặt vào truyền thống Ki Tô giáo, với mục đích không phải là đứng trung dung giữa " xã hội chủ nghĩa toàn trị " và " tự do chủ nghĩa cá nhân trị ", mà còn chỉnh đốn những sai lầm quá đáng, không tưởng của hai chủ thuyết đó và vượt lên trên với quan niệm thượng đỉnh chính đáng về con người và xã hội.
Trung tâm điểm của chủ thuyết " tình liên đới Ki Tô giáo " là phẩm giá con người trong mối tương quan với xã hội:
Xã hội được đặt nền tảng trên con người và được tổ chức vì con người.
Bởi đó xã hội phai được cấu trúc, luôn luôn đặt mình
- không những trong mối tương quan liên đới,
mà cả đến nguyên tắc phụ túc bảo trợ,
bởi vì cả hai là những nguyên lý cá biệt và bổ túc cho nhau, để đặc tâm chú ý đến hai đặc tính căn bản của cá nhân con người: đặc tính xã hội và đặc tính cá nhân của mỗi người.
Khai triển
- đặc tinh thứ nhứt trong bối cảnh tình liên đới, để đạt được lợi ích cho tất cả mọi người,
- trong khi đó đặt trọng tâm vào đặc tính thứ hai trong nhãn quang phụ túc bảo trợ, xã hội được định hướng nhằm lợi ích cho từng cá nhân, tức là những gì cá nhân không tự mình giải quyết được, tổ chức quốc gia xã hội có nhiệm vụ chăm lo, cung cấp điều kiện và phưong tiện cần thiết để giúp cá nhân có thể đạt được những lợi ích chính đáng, đáp ứng lại cuộc sống xứng đáng với địa vị con người của cá nhân.
Tinh thần " liên đới Ki Tô giáo " bị một vài tu sĩ dòng Đa Minh ( Dominique ) thuộc phái chủ trương " toàn phần " ( totalité ) chỉ trích, bởi lẽ các tu sĩ đó cho rằng lợi ích chung phải được thực hiện, trong đó đã gồm chứa lợi ích của mỗi thành phần cá nhân của xã hội.
Chính vì cách hiểu biết không chính đáng và nguy hiểm tư tưởng của Thánh Tôma về tổng thể toàn phần, nên chính nguyên tắc " liên đới Ki Tô giáo " mới là nguyên tắc góp phần quan trọng trong việc khai triển tư tưởng các Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội.
Bởi đó không phải ngẫu nhiên mà Nell Brenning và Grundlac là hai cộng sự viên sát cánh với Đức Giáo Hoàng Pio XI và Pio XII ( Monti Eros, id. p. 80).
1.2) Phần đóng góp Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội.
Khởi đầu từ năm 1891 chúng ta có thể phân biệt hai giai đoạn, trong đó nguyên tắc liên đới hổ tương được dần dần khai triển.
Trong giai đoạn đầu, sự hiện diện của nguyên tắc còn mặc nhiên và từ ngữ " liên đới hỗ tương " chưa được dùng đến.
Trong giai đoạn thứ hai, tư tưởng vừa kể được khai triển rộng rãi hơn và nói lên một cách minh nhiên về một tổ chức xã hội được quy hướng về tình liên đới hỗ tương.
a) Từ Đức Giáo Hoàng Leo XIII đến Đức Pio XII.
Cho đến thời Đức Giáo Hoàng Pio XI, Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội ít khi dùng từ ngữ " liên đới hỗ tương ", mà thường dùng những cách diễn tả khác tương tự, bởi lẽ cách diễn tả vừa kể được dùng trong các bối cảnh trần thế, thường có ý nghĩa ngược lại với từ ngữ bác ái, nguyên tắc nền tảng của Ki Tô giáo.
Dầu vậy, Đức Leo XIII trong nhiều dịp, trước bối cảnh xã hội " tự do tư bản " ( libéral-bourgoise), được thể hiện bằng uy quyền thượng đẳng của giới giàu có kinh tế và quyền năng trong tay, và bằng các cuộc tranh chấp của vấn đề giới thợ thuyển, ngài đã mặc nhiên đề cập đến vấn đề liên đới hỗ tương, bằng cách nhấn mạnh đến mối liên kết huynh đệ và tương giao giữa tất cả mọi người với nhau ( ĐTC Leo XIII, Thông Điệp Humanum genus, 20.04.1884; Thông Điệp In plurimis, 05.05.1888; Thông Điệp Graves de communi, 18.01.1901).
Trong Thông Điệp Rerum novarum 1891, chúng ta gặp được những lời huấn dạy về việc cần thiết phải biết phân chia các của cải trần thế:
- " Là điều chính đáng, Thánh Tôma nói, " hay đúng hơn là điều cần thiết cho đời sống con người, là mỗi người phải có quyền tư hữu trên của cải ". Nhưng nếu đi xa hơn, chúng ta có thể hỏi việc xử dụng của cải phải như thế nào? Giáo Hội qua miệng lưỡi của vị Thánh Tiến Sĩ sẽ không ngần ngại trả lời: " Con người không nên có của cải bên ngoài như là những gì của riêng minh, nhưng như là những gì thuộc về của chung, để anh ta có thể thông chia của các cải đó đáp ứng lại nhu cầu của những người khác " ( S. Thomas, III-II, q. 66, a 2" 8 Rerum novarum, n. 199.
Giáo Hội xác nhận chỉ bảo cho chúng ta ,
- mặc dầu không phủ nhận quyền tư hữu, nhưng dựa
- trên tinh thần huynh đệ giữa mọi từng lớp xã hội ( Rerum novarum, n. 36),
- trên sức mạnh của mối liên hệ tự nhiên và khởi thủy liên kết nhân loại với nhau,
- trên tinh thần liên kết có khả năng bảo vệ lợi thú của các công nhân ( Rerum novarum, n. 37), nhứt là của những giới yếu kém,
- cùng hoà hợp với những lợi thú chính đáng của kẻ có tài sản ( Rerum novarum, nn. 7, 15, 19, 21, 26-29, 36-44).
Trước sự bành trướng của chủ thuyết " đại đồng của xã hội chủ nghĩa ", dành mọi quyền tự do tư hữu và sáng kiến cho tổ chức cơ chế Quốc Gia, Huấn Dụ Rerum novarum nói lên tinh thần
- liên đới đều khắp, lâu dài, có tổ chức và cả trong lãnh vực kinh tế ( Toso Mario, Solidarietà e sussidiarietà nell'insegnamento sociale della Chiesa, in La Società 3 ( 1998), pp. 517-518).
Đều khắp,
- một phần được thể hiện dưới hình thức hiệp hội, công đoàn, để có đủ khả năng bảo vệ quyền của người làm việc và tạo được một hệ thống mạng lưới bảo vệ tương trợ và bảo đảm,
- đàng khác, dành mọi dễ dãi hết sức có thể , để nới rộng quyền tư hữu của mọi công dân ( Rerum novarum, n. 38-47).
Lâu dài,
- được thực hiện qua sự can thiệp của luật pháp để bảo vệ an ninh và phẩm giá của người làm việc;
Có tổ chức,
- thế nào để cho phép có sự đối thoại và hợp tác giữa tất cả mọi từng lớp xã hội ( Rerum novarum, n. 25-27).
Cả về phương diện kinh tế,
- có khả năng hội nhập của cải tư sản với việc làm và thực hiện được sự phân chia công bằng, qua việc thiết định các khế ước về lương bổng, nhưng đừng quên chính cả sự góp phần của người làm việc mới làm cho kinh tế phát triển được ( Rerum novarum, n. 27).
Tiếp nối theo con đường của Đức Leo XIII, năm 1931 Đức Giáo Hoàng Pio XI đưa ra trong Thông Điệp Quadragesimo anno ( Năm Thứ Bốn Mươi, sau Huấn Dụ Rerum novarum), năm sinh nhật của tư tưởng một trật tự xã hội, không những được đặt nền tảng tên " liên đới hỗ tương ", mà còn cả trên nền tảng " phụ túc bảo trợ ", có khả năng điều hoà các đòi hỏi của mọi từng lớp xã hội, của lớp có vốn liếng, tư sản và giới công nhân.
Đó là một phương thức tổ chức xã hội có khả năng quy tụ tất cả các thành phần trong xã hội, bằng cách đánh giá cá nhân mỗi con người và tránh được tư tưởng đại khối cá biệt của chủ thuyết cộng sản, chủ nghĩa toàn trị đang hiện hành ở những năm đó ( Quadragesimo anno, n. 77-79).
Trong Thông Điệp Quadragesimo anno tầm mức xã hội, kinh tế, chính trị của nền tảng liên đới hỗ tương được nhấn mạnh và trình bày một cách hoàn hảo hơn, so với Thông Điệp Rerum novarum ( Toso Mario, " Solidarietà e sussidiarietà nell ' insegnamento sociale della Chiesa, in La Società 3 ( 1998) , pp. 519-524).
Tầm mức xã hội,
- Đức Giáo Hoàng Pio XI đề nghị, trong tổ chức xã hội, phải có một tổ chức chuyên môn nghề nghiệp, không phải là dụng cụ của quyền lực trung ương, như là trường hợp tổ chức bè phái của đảng Phát Xít lúc đó, mà là một tổ chức tự do và tự lập, tuân theo nguyên tắc nền tảng " phụ túc bảo trợ ". Tổ chức vừa kể có mục đích:
* cho mổi người đều có thể tham dự vào việc thiết định và thực hiện những gì đã được lụa chọn tổng quát,
* giải quyết cấp bách các mối tranh chấp giữa các từng lớp xã hội, thiết lập lại mối quân bình giữa cá nhân và tổ chức Quốc Gia nhằm hoà hợp lợi thú chung của mọi giai cấp nghề nghiệp cá biệt với lợi ích chung của Quốc Gia.
Tầm mức kinh tế và chính trị,
* Mức sung mãn kinh tế của một Quốc Gia, kết quả của sự hợp tác giữa vốn liếng và việc làm, có thể đạt được do sự cộng tác của mọi chủ thể trong tiến trình sản xuất: người có vốn liếng, chủ nhân mướn người làm, các công nhân thuộc hạ và các người làm việc tự lập.
Cũng vậy, tất cả những chủ thể vừa kể đều có quyền được tham dự vào việc phân phối công bằng mức giàu có tạo được cho cộng đồng xã hội. Nói cách khác,
- " dựa trên " nguyên tắc liên đới đi lên " góp phần vào việc kiến tạo công ích Quốc Gia và được chỉ định theo nguyên tắc công bình tổng quát và theo luật pháp; cũng vậy dựa theo " nguyên tắc liên đới đi xuống ", được thiết định bởi nền công bình phân chia " ( Toso Mario, op. cit., p. 519),
Ngoài ra Đức Thánh Cha Pio XI còn đề cập đến công bình xã hội, mà nền công bình pháp lý có phận vụ tích hợp hoàn hảo hoá ( intégrer) một cách quân bình cho việc phân phối mức giàu có đạt được ( Cozzoli Mauro, Nuovo Dizionario di Teologia morale, San Paolo, Cinisello Balsamo 1999, IV ed., p. 512). Ví dụ, Quốc Gia được hướng dẫn bằng lý tưởng công bình xã hội, phải can thiệp bên cạnh chủ nhân và người làm việc thuộc hệ, thế nào để cho mức lương bổng không quá cao, tạo thiệt thòi cho hảng xưởng mất lợi nhuận, thua lỗ phải đóng cửa; nhưng mức lươnng cũng không quá hạ thấp bốc lột, khiến cho người làm việc và gia đình không có được một cuộc sống khang trang, xứng đáng với phẩm giá con người. Ngoài ra cơ chế Quốc Gia cũng có bổn phận cùng hợp tác với cả đôi bên, để tiên liệu cho người dân, chủ cũng như thợ, đều có những tổ chức bảo trợ lo liệu có các phương tiện chữa trị và sống còn trong các trường hợp tai nạn, bệnh tật, khuyết tật, già nua, thất nghiệp hay thua lổ ngoài ý muốn.
Đức Thánh Cha Pio XII càng đề cập một cách rõ rệt hơn đến tinh thần " liên đới hỗ tương " khởi đầu ngay từ Thông Điệp đầu tiên của ngài ( Summi pontificatus, in AAS 31( 1939).
Tình liên đới, nền tảng của cộng đồng xã hội, được dựa trên đặc tính chung của tất cả mọi người
- " về nguồn gốc, bản tính, mục đích gần, nhà cửa, mục đích thiêng liêng và các phương thế để đạt được mục đích đó " ( Monti Eros, id. p. 81).
Qua những gì vừa đề cập, chúng ta đang ở trong quan niệm về " nhân vị " của con người, trong đó con người là đối tượng, nền tảng và cùng đích của cả cuộc sống xã hội, trong nhãn quang tổ chức công ích, mà theo quan nniệm của ĐTC Pio XII
- " công ích là môi trường xã hội thích hợp để giúp cho con người và cộng đồng xã hội được phát triển hoàn hảo " ( ĐTCPio XII, Summi pontificatus, id.).
Với ĐTC Pio XII " liên đới hỗ tương " được định nghĩa như là
- " lề luật hay nguyên tắc luân lý tự nhiên, có giá trị đều khắp như là luật lệ, chỉ thị cho các mối tương giao của cộng đồng nhân loại, phải được thể hiện bằng các mối tượng trợ giúp đở lẫn nhau, tin cậy nhau và cộng tác với nhau trong mỗi lãnh vực cuộc sống xã hội, nhứt là dưới hình thức tổ chức cơ chế Quốc Gia, có khả năng thiết định khuôn thước luật pháp, chính trị, kinh tế hiện hành " ( Monti Eros, id.p. 81).
b) Từ Công Đồng Vatican II đến ĐTC Gioan Phaolồ.
Thời Công Đồng Vatican II, thập niên '70, là thời gian đang có nhiều vấn đề liên kết gay cấn phải suy nghĩ, nên Đức Thánh Cha Gioan XXIII nói về " liên đới hỗ tương " liên quan đến những vấn đề quốc tế trong lãnh vực kinh tế - xã hôi.
Trong Thông Điệp Pacem in terris ngài xác quyết rằng " liên đới hỗ tương " " tác động ", cùng chung với chân lý, công lý và tự do là nền tảng của mọi việc xây dựng hoà bình cở tầm mức liên quan thê giới ( Pacem in terris, n. 54).
" Liên đới hỗ tương " có nghĩa là phát triển cho các dân tộc không may mắn trên trần gian và như vậy làm phát sinh ra một cộng đồng chính trị với tầm mức thế giới có khả năng làm triển nở cho cuộc phát triển đó.
Nếu bác ái có ý nghĩa nói lên mối tương quan giữa người với người, ở tầm mức cá nhân với cá nhân, thì " liên đới hỗ tương năng động " nói lên ý nghĩa giữa các cộng đồng chính trị có bổn phận thiêt định các mối tương quan quốc tế với nhau ( Pacem in terris, n. 18).
Trong lời huấn dụ xã hôi của ngài, Đức Thánh Cha Gioan XXIII giải thích " liên đới hỗ tương " trong bối cảnh xã hội lúc đó đã toàn cầu hoá và đầy khó khăn rắc rối khó giải quyết. Chúng ta có thể nói rằng nguyên tắc liên đới hỗ tương đã trở nên phức tạp hơn, do các mối tương quan chung sống xã hội qua các hình thức liên kết hiệp hội, ở bình diện quốc gia cũng như quốc tế.
Trước tình trạng đan kết rắc rối khó giải quyết đó, cộng đồng chính trị thế giới được mời gọi, như là chủ thể có khả năng và bồn phận đánh thức dậy các cấu trúc hoàn cầu có khả năng làm cho vượt thắng được các mối mất quân bình ở mọi mức độ.
Trong Thông Điệp Mater et magistra chúng ta đọc được:
- " Tình liên đới hỗ tương liên kết tất cả mọi con người với nhau và làm cho họ trở nên thành phần của một gia đình, bắt buộc các công đồng chính trị, có được dồi giàu các phương tiện sống, có bổn phận không được dững dưng trước những cộng đồng chính trị mà thành phần của mình đang phải chiến đấu chống lại nghèo khó, khốn cùng và đói khát, và không được hưởng ngay cả những quyền tối thiểu của con người. Hơn nữa, vì sự liên hệ càng ngày càng trở nên lớn lao hơn giữa các dân tộc, giữa họ không thể nào ngự trị tồn tại được một nền hoà bình lâu dài và sung mãn, khi mối bất quân bình quá hiển nhiên như vậy lại hiện hữu trong các hoàn cảnh kinh tế-xã hội của họ " ( Mater et magistra, n.144).
Tuy nhiên với " liên đới hỗ tương ", công đồng chính trị, tức là tổ chức Quốc Gia, phải hội nhập đan kết cộng tác làm việc với các tổ chức tư nhân, với các tổ chức xã hội trung gian ( hiệp hội, chính đảng, công đồng địa phương...) và cả với các cá nhân, theo nguyên tắc " phụ túc bảo trợ ", bởi lẽ các tổ chức xã hội trung gian và cá nhân được đề cập là những chủ thể trách nhiệm tiên khởi cho sự triển nở và phát triển của chính họ ( Mater et magistra, n. 144):
- " Đức Thánh Cha lên án bất cứ nhãn quang toàn trị và toàn diện liên đới hỗ tương nào, trong khi nhấn mạnh rằng cơ chế Quốc Gia ( hay cộng dồng chính trị quốc tế ) mặc dầu dùng những phương tiện có khả năng đáp ứng với thời thế...để thực hiện một xã hội công bình hơn, không bao giờ có thể đáp ứng thích hợp và có khả năng đáp ứng một cách thích đáng các nhu cầu của con người hay của các cộng đồng khác " ( Toso Mario, Solidarietà e sussidiarietà nell'insegnamento sociale della Chiesa, id., p.529).
Nói cách khác, cần phải làm thế nào để các chủ thể năng động có thể hội nhập vào theo tinh thần" phụ túc bảo trợ", để làm nổi bậc được tính cách tự lập thực hữu các lãnh vực khác nhau của việc " phụ túc bảo trợ ".
Trong khoảng thơi gian suy tư nầy, do các biến chuyển rộng lớn trong xã hội đã và đang xảy ra lúc đó, Công Đồng Vatican II, cùng với Hiến Chuơng Mục Vụ về Giáo Hội giữa trần thế hiện đại, Gaudium et spes còn cho thấy rõ hơn sự mâu thuẩn rộng lớn đang hiện diện trong thế giới, luôn luôn càng giàu hơn và tự do hơn ở một vài vùng, và luôn luôn càng nghèo khổ hơn và bị quấy phá, đàn áp hơn dưới nhiều hình thức nô lệ khác nhau ở những vùng khác.
Trong hoàn cảnh như vừa kể, Công Đồng nhấn mạnh rằng con người cảm nhận khẩn thiết cần phải có " liên đới hỗ tương " trong nhãn quang một sự hợp nhứt thiết thực trên thế giới, " liên đới hỗ tương " đó được thực hiện qua việc liên hệ tùy thuộc nhau giữa các cá nhân và các Quốc Gia ( Gaudium et spes, n. 4).
Việc khẩn cấp cần có sự " liên đới hỗ tương ", đối với các Nghị Phụ Công Đồng, phát sinh từ việc xác tín rằng bổn phận của nhân loại là
- " thiết lập một trật tự chính trị, xã hội và kinh tế để phục vụ con người hơn và phục vụ tốt đẹp hơn, giúp các cá nhân và các nhóm có khả năng thành tựu chính mình và phát triển phẩm giá con người...Đây là lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, mọi dân tộc đều...xác tín thực sự rằng các điều tốt đẹp của nền văn minh có thể và phải được trải rộng đến tất cả mọi người " ( Gaudium et spes, n. 9).
Trong thời gian hậu Công Đồng, với Thông Điệp Populorum progrssio, Đức Thánh Cha Phaolồ VI liên kết " liên đới hỗ tương " với phát triển: đó là sự phát triển toàn diện con người ( Populorum progressio, nn. 6-42) và sự phát triển liên đới nhân loại ( id.,43-87).
Phát triển toàn vẹn con người và thăng tiến liên đới xã hội có cùng một ý nghĩa với để giúp liên đới giải quyết các nhu cầu của nhân loại, cần phải giải quyết được nhu cầu của con người trong mọi lãnh vực của đời sống mình và ngược lại.
Vị Giáo Hoàng kết thúc Công Đồng ( ĐTC Phaolồ VI ) đã nhấn mạnh đến " liên đới hỗ tương " như là một nhu cầu nội tại, được khắc sâu vào bản thể con người:
- " Là những người thừa kế của các thế hệ đã qua đi và được hưởng những ân huệ việc làm của cha ông chúng ta hiện tại, chúng ta có các bổn phận bắt buộc đối với tất cả " ( Populorum progressio, n. 17).
Tất cả chúng ta là những người mắc nợ đối với nhau và điều đó càng thể hiện rõ hơn của việc thực tế tùy thuộc vào nhau giữa các Quốc Gia đang thúc giục chúng ta hãy hành xử một mối " liên đới hỗ tương " tổng thể đều khắp.
Cả trong Thông Điệp Octogesima adveniens cũng vậy, Đức Thánh Cha Phaolồ VI đề cập đến " liên đới hỗ tương" bằng các từ ngữ diễn tả thực hiện động tác,chuyên cần dấn thân, tham gia góp phần, có trách nhiệm chung, trong nhãn quang nhằm đáp ứng lại các vấn đề của thế giới hiện đại. Như vậy
- " cần phải chuyên cần dấn thân và hy sinh công sức mình để kiến tạo liên đới hỗ tương năng động và thực hiện với kinh nghiệm sống " (Octogesma adveniens, n. 47).
Với Đức Thánh Cha Gioan Phaolồ II, " liên đới hỗ tương " đạt đến mức độ khai triển đáng kể, đến nỗi ngài đã dùng đi dùng lại từ ngữ vừa kể đến hằng ngàn lần trong huấn dụ xã hội của ngài.
Trong Thông Điệp Redemptor hominis, Đức Thánh Cha nói đến " liên đới hỗ tương " nhu là nguyên tắc tạo các điều kiện thuận tiện nhằm phát huy phẩm giá con người, là nguyên tắc
- " phải gợi ý để tìm kiếm có được những cấu trúc cơ chế và phương thức hoạt động thích hợp " ( Redemptor hominis, n. 16).
Đối với thế giơi lao động, Thông Điệp Laborem excercens, " liên đới hỗ tương " được trình bày như là một sự cần thiết, nhứt là trong các hoàn cảnh xã hội bị suy đồi hủy hoại trầm trọng nguy ngập hơn ( Laborem excercens, n. 8).
Theo một vài ý kiến, Đức Gioan Phaolồ II có cách giải quyết không được cởi mở đối với các nhu cầu kinh tế của thị trường tự do.
Trên thực tế, qua các lời phán dạy can đảm và ngôn sứ của ngài, Đức Gioan Phaolồ II xác nhận rằng một Quốc Gia dân chủ và xã hội cần phải liên đới can thiệp khi đứng trước những vấn đế trầm trọng như nạn thất nghiệp chẳng hạn, làm thế nào để mọi người đều có công ăn việc làm. Liên đới hỗ tương của Quốc Gia đối với các vấn đề làm việc
-" đòi buộc Quốc Gia luôn luôn phải hiện diện bất cứ ở đâu và lúc nào mà tình trạng suy thoái xã hội của các chủ thể làm việc đòi hỏi, việc lạm dụng bốc lột đối với người làm việc và những thành phần dân chúng bần cùng bất hạnh và nghèo đói càng ngày càng gia tăng " ( Laborem excercens, id.).
Trong Thông Điệp Sollecitudo rei socialis, " liên đới hỗ tương " được định nghĩa dưới nhãn quang chú trọng đặc biệt về phương diện luân lý, cho thấy tầm quan trọng của nó trong cuộc sống luân lý-xã hội:
- " Liên đới hỗ tương không phải là cảm nhận tình cảm, thương xót tội nghiệp, cảm thông một cách chung chung hay mềm lòng phiến diện đối với các nỗi bất hạnh của nhiều người, sát gần gay xa lạ. Trái lại, là một thái độ quyết định vững chắc và tiếp tục dấn thân để tạo nên công ích: hay nói đúng hơn tạo nên lợi ích cho tất cả và cho mỗi người, bởi vì tất cả thật sự có trách nhiệm đối với mọi người " ( Sollecitudo rei socialis, n. 38).
Mọi con người hay mỗi dân tộc đều thuộc về đại khối nhân loại, nhưng mình không có được hoàn toàn sự hoàn hảo của cả nhân loại. Bởi đó, cần có việc cùng nhau cộng tác, để minh trở thành con người hay cộng đồng nhân loại với những đặc tính hoàn hảo hơn, nhờ sự trợ lực của người khác, bởi đó mức phát triển hoàn hảo của chúng ta cũng tùy thuộc vào sự phát triển vật chất và tinh thần của họ ( Toso Mario, Solidarietà e sussidiarietà nell'insegnamento della Chiesa, id., p. 532).
Trong Thông Điệp Centesimus annus " liên đới hỗ tương " được trình bày một cách rõ rệt như là phần bổ túc vào cho tinh thần " phụ túc bảo trợ ", như là nguyên tắc đòi buộc phải có sự can thiệp trực tiếp của tổ chức cơ chê Quốc Gia vào những vấn đề xã hội.
Điều mới mẻ của Thông Điệp hệ tại ở
- " việc giải thích liên đới hỗ tương như là việc chuyên cần lo lắng tạo ra được những điều kiện cần thiết, để mọi dân tộc đều có thể tham dự vào các sự việc tốt đẹp cần thiết cho sự thực hiện hoàn hảo chính họ " ( Toso Mario, id., p 533).
Như vậy " liên đới hỗ tương " được hội nhập một cách hoàn hảo vào " phụ tuc bảo trợ ", bởi lẽ trong công cuộc hội nhập và tiến trình năng động thực hiện kế đến, cả hai nguyên tắc đều nhằm bảo đảm cho sự tự lập và tự do sáng kiến của cá nhân, các tổ chức xã hội trung gian cũng như các Quốc Gia trong cộng đồng nhân loại.
c) Suy tư kết luận về " liên đới hỗ tương ".
Duyệt xét qua các Thông Điệp huấn dụ xã hội của Giáo Hội, chúng ta có thể diễn dịch ra rằng " liên đới hỗ tương " trước tiên là một nhân đức, một thái độ xây dựng của con người nhằm quy hướng tự do của chính mình để tạo được lợi ích cho người khác. nhứt là cho những ai đang gặp phải tình trạng thiếu thốn, cần được giúp đỡ.
" Liên đới hỗ tương " luôn luôn có chủ thể nguyên cội của mình nằm trong các con người hiện thực, chớ không phải được coi là các cơ cấu tổ chức và đem ra thực hiện.
" Liên đới hỗ tương " có căn nguyên của mình từ ngay trong cách sống luân lý của con người. Chính con người, đứng trước hoàn cảnh thiếu thốn bần cùng của người đồng loại, mới là người đứng ra giải quyết làm biến đổi tình trạng khá hơn, bằng cách múc lấy từ gia sản giàu có sung mãn và đôi khi dư thừa của mình.
" Liên đới hỗ tương " có cùng đích là tạo ra điều tốt lành cho con người, được thực hiện để đạt được nhiều việc tốt lành cá biệt. Bởi đó, chủ thể luôn luôn là cá nhân con người, tác động nhằm thiết lập các nhóm xã hội trung gian chuyên biệt thuộc nhiều lãnh vực của cuộc sống, từ gia đình, đến chính trị, kinh tế, xã hội và tôn giáo.
Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội xác nhận rằng việc thực hiện được các điều tốt lành vừa kể có liên quan mật thiết với quan niệm về con người, về xã hội và về mục đích cuối cùng của con người.
Các mục đích tốt đẹp khác nhau mà các tổ chức, mỗi nhóm nhằm đạt được mục đích của chính mình, cần phải lưu tâm đến các mục đích cá biệt khác, và nhứt là đến công ích cho tất cả.
Công ích đó là " tổng hợp các điều kiện cho phép mỗi tổ chức xã hội trung gian có được môi trường thích hợp để triển nở hoàn hảo chính mình " ( Toso Mario, id. p. 537).
" Liên đới hỗ tương ", với tư cách là quan niệm và động tác có trách nhiệm đối với chính mình và đối với mọi người khác, cần phải là những gì có hiệu lực và liên hệ chặt chẻ với tự do và công bình xã hội.
Chính trên lãnh vực đó mà " liên đới hỗ tương " không thể nào tách khỏi một nguyên lý căn bản khác trong Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội, đó là nguyên lý " phụ túc bảo trợ ".