NGUYỄN HỌC TẬP
5 - Ai điều khiển.
Vì lý do gì mà trên 40 năm Công Đồng Vatican II đã kết thúc, những tư tưởng về vài trò đặc thù và phục vụ của người tín hữu giáo dân trong Giáo Hội và giữa trần thế vẫn chưa được đón nhận và hiểu biết một cách chính đáng?
Phải chăng là do ý niệm " giáo phẩm trị " trong quá khứ vẫn còn có ảnh hưởng nặng nề, mặc cho dòng thời gian đã thay đổi?
Ngay cả sát liền trước khi Công Đồng Vatican II được Đức Thánh Cha Gioan XXIII triệu tập, vẫn cón có khuynh hướng bảo thủ, lội ngược dòng lịch lịch sử cho rằng người tín hữu giáo dân chỉ là " thành phần thụ động " trong Giáo Hội, có bổn phận
- " cầu nguyện - trang trải - và vâng lời ".
Công Đồng Vatican II đã vạch ra những đường nét chính yếu cho biết quan niệm chính xác về phận vụ của họ trong Giáo Hội.
Nhưng điều được đặt ra là không biết những đường hướng đó có được lãnh hội và hiểu biết đầy đủ chính đáng hay không ở mọi cấp bậc, mặc dầu bầu không khí sau Công Đồng đã được tạo ra với nhiều công trình học hỏi, nghiêng cứu và bàn thảo sôi nổi về các phương thức để " thăng tiến " địa vị và vai trò người tín hữu giáo dân.
Dù sau đi nữa, từ sau Công Đồng Vatican II, số giáo sĩ càng ngày càng tăng đứng ra kêu gọi các tín hữu giáo dân trợ lực với mình:
- " Anh chị em hãy đến, tiếp tay, chúng ta cùng chung nhau điều hành, quản trị họ đạo ".
Điều chúng ta cần lưu ý trước tiên là nếu chúng ta đặt trọng tâm vào tư tưởng " cai quản, lãnh đạo ", chúng ta không có cùng tâm thức như Chúa Ki Tô:
- " Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người " ( Mt 20, 28).
Hiểu như vậy, chúng ta hiểu được trong Giáo Hội không có " chủ nhân ông ", ngoài ra Chúa Ki Tô là Vị Thầy Tối Thưọng của chúng ta.
Tất cả chúng ta là những kẻ phục vụ, với nhiều phương thức và tầm mức khác nhau, như Chúa Ki Tô đã giao phó cho chúng ta.
Một vài người - hàng giáo phẩm - với sứ mạng thừa tác viên để phục vụ trước tiên anh em Ki Tô hữu của mình; kế dến, những người khác - các tín hữu giáo dân - với sứ mạng đặc biệt phục vụ trần thế, để đem thế giới về với Chúa Ki Tô.
Cũng trên cùng một quan niệm sai lạc về Giáo Hội, có người cho rằng trong quá khứ người tín hữu gíáo dân luôn luôn phục vụ, lệ thuộc, nô lệ hàng giáo phẩm, giờ đây là lúc " phá rào, cởi trói " !
Đó là phản ứng quá đáng không phân định lằn mức, như câu tục ngữ người Ý thường nói:
- " Ogni reazione è una esagerazione " ( Mỗi động tác phản đối thường mang theo động tác quá đáng ).
Người tín hữu giáo dân phải biết vâng nghe đối với các lãnh vực giới hạn, mà hàng giáo phẩm nói lên bằng tiếng nói của Chúa Ki Tô, điều đó chứng tỏ đức tin của họ vào Chúa Ki Tô và tình yêu thương đối với Người, chớ không phải tỏ ra " vâng dạ, tôi mọi, nô lệ ".
Người tín hữu giáo dân không phải là " thần dân, tôi mọi, nô lệ " đối với hàng giáo phẩm, họ phải phục vụ trần thế, như là những gì hàng giáo phẩm có bổn phận phục vụ đoàn chiên của mình được Chúa giao phó.
Khác với thời tiền Công Đồng Vatican II, người tín hữu giáo dân không còn phải bị bắt buộc " là cánh tay nối dài " của hàng giáo phẩm; họ không phải là thành phần hay dụng cụ để thực hiện lệnh truyền của hệ thống " quan chức giáo phẩm trị ".
Họ, hay đúng hơn là mỗi người trong họ, trong địa vị, thẩm quyền và sứ mạng của mình, được đặt nền tảng
- trên đời sống đạo đức
- và thẩm quyền trong lãnh vực chuyên môn của mình, phải là sự hiện diện của Chúa Ki Tô trong các hoàn cảnh và lãnh vực trần thế.
Người tín hữu giáo dân
- không tùy thuộc vào hàng giáo phẩm trong đời sống trần thế của mình,
- cũng không phải trả lời cho hàng giáo phẩm về các động tác dân sự và chức nghiệp của mình, mà họ hành động tự mình hay cùng chung với những người khác.
Chúng ta đừng quên rằng đồ án của Chúa Ki Tô đối với thế giới có thể được áp dụng thực hiện bằng nhiều phương thức khác nhau.
Người tín hữu giáo dân làm việc
- theo các nguyên tắc luân lý,
- nhưng với nhãn quang khác nhau đối với các sự việc, bởi đó họ phải tìm giải pháp thích ứng thiết thực, có thể được coi là những điều góp phần chính đáng của Ki Tô giáo vào việc phát triển các động tác của con người ( cfr. GS 43).
Điều đó nói lên tính cách đa nguyên, đa dạng của Ki Tô giáo.
Hàng giáo phẩm có bổn phận dẫn dắt tổng quát về phương diện luân lý, nhưng không phải là lãnh vực của cá vị hạn hẹp các giải pháp có thể để thực hiện các lãnh vực trần thế, mà Chúa Ki Tô vẫn để tự do cho con người.
6 - Tín hữu giáo dân nhân vật chính.
Công Đồng Vatican II mời gọi chúng ta hãy mở rộng nhãn quang và đào sâu thêm ý nghĩa, nếu muốn hiểu được ý nghĩa đích thực địa vị và vai trò của người tín hữu giáo dân.
Chúng ta cần xoá đi khỏi tư tưởng mình quan niệm sai lầm " thừa tác viên giáo dân ", như một vài nhóm người nào đó đề nghị.
Tư tưởng " thừa tác viên giáo dân " vừa kể là một ý nghĩ có giá trị và hữu ích đối với việc cộng tác với hàng giáo phẩm của một vài tín hữu giáo dân để phục vụ cồng đồng dân Chúa; ngoài ra, là sai lầm, nếu gán cho cách phát biểu đó giá trị và đồ án quyền hạn nào rộng lớn hơn.
Chức vụ " thừa tác viên giáo dân ", tự bản thể của nó là một quan niệm sai lạc, bất thường tự bản tính của nó, bởi khối lượng không lồ người giáo dân.
Chúng ta không tìm đâu ra được trong các văn kiện Công Đồng đề cập đến tư tưởng đó.
Chức vụ thừa tác viên đó, đúng hơn có lẽ nên gọi là " các chức vụ thừa tác viên giáo sĩ cho người không được truyền chức ", được ĐTC Phaolồ VI đề nghị năm 1972 ( ĐTC Phaolồ VI, Huấn Dụ Ministeria quaedam, 15.08.1972).
Và như chúng ta vừa đề cập, không có gì liên hệ đến nhãn quang của Công Đồng Vatican II về vai trò và sứ mạng cá biệt của người tín hữu giáo dân.
Các chức " thừa tác viên " vừa được đề cập, chúng ta nên hiểu theo những gì là tầm quan trọng được ĐTC Phaolồ VI có ý đề cập đến trong đó: đó là theo chỉ thị của thời kỳ hậu Công Đồng, có ý nói lên lợi ích cho động tác và tổ chức đời sống nội bộ của Giáo Hội.
Đó không phải là cánh cửa hé mở, để cho người tín hữu giáo dân có thể lách vào đòi hỏi những gì là quyền hạn và phận vụ được giao phó cho mình.
Cánh cửa hé mở còn quá hẹp và khuôn viên phía bên kia cũng quá chật để có chỗ chứa đựng tất cả.
Vị trí của người tín hữu giáo dân không phải ở phía bên kia cánh cửa đó, mà ở một hướng khác.
Chỗ đứng của người tín hữu giáo dân trước tiên không phải nhằm tham gia vào tổ chức Giáo Hội hay dưới phương diện " bán thừa tác viên " ( semiministériel ) trong việc tế tự phụng vụ.
Vị trí cá biệt của họ là tham dự vào đời sống của Giáo Hội giữa trần thế, nhứt là vào đời sống năng động của Giáo Hội, được mệnh danh là rao giảng Phúc Âm.
Hướng dẫn thế giới, để cho thế giới " nhằm mục đích theo đồ án của Thiên Chúa, làm cho thế giới biến đổi và đạt được mục đích hoàn hảo của mình " ( GS 2).
Đó là sứ mạng và thách thức, mà Chúa Ki Tô, qua trung gian của Giáo Hội, ủy thác cho nhứt là các tín hữu giáo dân.
Khả năng lãnh đạo của người tín hữu giáo dân được hiểu ngầm hàm chứa trong sứ mạng đó.
Một đôi khi chúng ta được nghe nói, trong một vài hoàn cảnh, về " dưới các sự lãnh đạo giáo dân của chúng tôi ", phát biểu như vậy để ám chỉ những người tín hữu giáo dân đang thực hiện công việc giúp hàng giáo phẩm trong việc tổ chức và quản trị Giáo Hội.
Đôi khi chúng ta cũng nghe nói đến, để diễn tả thái độ hài lòng, việc " con số những nhà lãnh đạo giáo dân càng ngày càng tăng trưởng thêm ", để cho biết rằng năm ba phần trăm giáo dân gì đó đã được ũy nhiệm
- lãnh đạo các văn phòng thư ký công giáo,
- các văn phòng cố vấn giáo phận
- hay giảng dạy trong các phân khoa triết học, thần học trong các học viện của Giáo Hội.
Dù sao đi nữa, không có tài liệu Công Đồng Vatican II nào cho biết người tín hữu giáo dân phải cạnh tranh với hàng giáo phẩm để " lãnh đạo " các vấn đề của Giáo Hội.
Người tín hữu giáo dân có tinh thần giáo dân chân chính, không có thời giờ cũng không có lợi thú gì để đứng ra ganh đua như vậy trong nội bộ Giáo Hội.
Đối với họ, đó thật là tư tưởng kỳ quặt, đáng buồn cười !
Sứ điệp thực sự của Công Đồng - nói với mọi tín hữu giáo dân, chớ không phải chỉ nói với những giáo dân có khuynh hướng giáo phẩm hoá mình bằng phương thức cạnh tranh - cho biết rằng :
- anh em hãy đi vào giữa thế giới, đương đầu với những thử thách đối ơn gọi trần thế của anh em,
- hãy hành xử công việc của anh em một cách tuyệt đối với thẩm quyền chuyên môn chức nghiệp của con người trong lãnh vực,
- hãy thánh hoá thế giới,
- hãy học hỏi và hiểu biệt thâm sâu tường tận đức tin của anh em ( dĩ nhiên là dưới sự dạy dỗ và hướng dẫn của hàng giáo phẩm ), như vậy anh em mới đích thực là những vị lãnh đạo giáo dân, hướng dẫn thế giới chung quanh mình, hướng dẫn nhân loại đến thiện hảo và đến với Chúa Ki Tô.
Khả năng cá biệt và đầy nghị lực để lãnh đạo cần phải được phát huy nơi giới trẻ công giáo, không phải là khả năng nhằm vào các phận vụ trong Giáo Hội.
Tìm năng lãnh đạo của giới trẻ là lãnh đạo thế giới: đó là những gì thử thách còn rộng lớn hơn nữa ( đối với những gì là phận vụ trong Giáo Hội) và là những gì cần phải đề nghị với họ.
Như vậy thay vì dùng các lối phát biểu " thừa tác vụ giáo dân ", " giới lãnh đạo giáo dân ", như một đôi khi chúng ta nghe nói, thiết nghĩ chúng ta nên dùng cách diễn tả " trợ lực, giúp đỡ của giáo dân " để tránh hiều lầm.