NGUYỄN HỌC TẬP
III - ĐẶC TÍNH TRẦN THẾ CỦA NGƯỜI TÍN HỮU GIÁO DÂN
Như vậy về phương diện căn tính và bản thể, người tín hữu giáo dân sống trên cùng một địa vị như mọi người tín hữu Chúa Ki Tô khác.
Nhưng họ khác với hàng giáo phẩm và các tu sĩ theo phương thức nào?
Công Đồng Vatican II đã chỉ phương thức đó trong đặc tính trần thế của họ ( Lumen Gentium, 31).
Nhìn thoáng qua là một xác nhận khá đơn sơ, người tín hữu giáo dân không phải là lình mục, không phải là tu sĩ, mà là người sống giữa đời.
Nhưng ý nghĩa chính đáng hơn, không phải chỉ có vậy, nếu chúng ta nhìn vào tầm quan trọng ý nghĩa thần học của đặc tính trần thế, dưới ánh sáng đồ án cứu rổi của Thiên Chúa và phận vụ của Giáo Hội.
Giáo Hội có tầm mức trần thế đích thực, liên hết chặt chẽ với bản thể và sứ mạng của mình: Giáo Hội sống giữa trần thế và được sai đi giữa trần thế để tiếp tục công cuộc cứu rổi của Chúa Giêsu Ki Tô.
Do đó mọi thành phần của Giáo Hội đều tham dự vào đặc tính trần thế của Giáo Hội, nhưng dĩ nhiên dưới nhiều hình thức khác nhau.
Nếu nền tảng thần học đều như nhau cho cả cộng đồng dân Chúa, thì hoàn cảnh trần thế - mặc dầu là hoàn cảnh chung cho cả Giáo Hội, vì Giáo Hội hiện diện trong trần thế - đối với người tín hữu giáo dân ( trên một bình diện khác hơn bình diện bản thể ), hoàn cảnh trần thế là nền tảng của những gì cá biệt tích cực và khác biệt đối với hàng giáo phẩm và các tu sĩ.
Công Đồng Vatican II diễn tả hoàn cảnh trần thế của người tín hữu giáo dân như là môi trường, trong đó người tín hữu giáo dân được Chúa gọi cho cuộc sống của họ: " đó là nơi họ được Chúa gọi ".
" Nơi chốn ", mà sống ở đó người tín hữu giáo dân được Chúa gọi không phải đơn sơ chỉ là một yếu tố phiến diện và chỉ là hoàn cảnh xã hội, mà là một thực thể, có được nơi Chúa Ki Tô ý nghĩa trọn hảo của nó. Nói cách khác đó là nơi chốn có ý nghĩă thần học.
" Đó là nơi chốn cao cả đến nỗi không nên vất bỏ đi ", nói như A. Diogneto; đó là nơi chốn được mệnh danh là " taxis", theo ngôn ngữ quân đội, thì đó là cứ địa mà người chiến sĩ phải chiến đấu, không được để mất.
Trốn bỏ đi khỏi " cứ địa " đó, có nghĩa là phản bội đội ngũ, thiếu bổn phận của người chiến sĩ, kể cả là thái độ phản quốc cùng với các hậu quả phải có của nó.
Nếu phải nói về bổn phận chuyên cần dấn thân trần thế của người tín hữu giáo dân, có lẽ chúng ta phải liệt kê tất cả các bổn phận và các động tác giữa trần thế, trong đó cuộc sống của một con người bị đươn kết,
* khởi đầu từ làm việc
* cho đến cả lãnh vực chính trị,
* các thực thể xã hội, nghệ thuật, văn hoá, các phương tiện truyền thông xã hội...
Nói một cách ngắn gọn, chúng ta có thể nói đó là việc chuyên cần dấn thân trần thế, là tất cả những gì con người hành động để chu toàn điều răn của Chúa: quản trị đất đai hay nói như lời của Thánh Kinh, đó là
- " ...trồng trọt và canh giữ đất đai " ( Gen 2, 14).
Nhưng " trồng trọt và canh giữ đất đai " có nghĩa là " xếp đặt và thăng tiến các sự việc ở trần thế theo ý muốn Thiên Chúa " .
Và " xếp đặt và thăng tiến các sự việc ở trần thế theo ý muốn Thiên Chúa " có nghĩa là phải
- lưu ý đến những gì là bản thể của các sự vật như Chúa dựng nên,
- định chuẩn phẩm chất theo bản thể của chúng cho đến điểm cao nhứt, tức là làm cho các sự vật trần thế đạt được ý nghĩa trọn hảo nhứt, chân lý nội tại của các sự vật.
Điều đó bởi vì chân lý nội tại của các sự vật và sự việc trần thế là những gì thể hiện ý muốn của Thiên Chúa.
Bằng một cách đơn sơ, chúng ta đi vào thực tế sắp xếp các theo ý Chúa muốn, có nghĩa là
a) sống và định hướng tính dục trong ý nghĩa thân tình của nó: đó là giải thoát con người khỏi trạng thái đơn độc và làm cho con người có khả sinh trưởng ra đời sống;
b) sống và hiểu ý nghĩa của cuộc sống xã hội như là môi trường để triển nở hoàn hảo chính mình và thăng tiến cả xã hội;
c) sống và hiểu ý nghĩa của việc giáo dục, học hành như là phương thế để biết được chân lý của các sự vật và sự việc;
d) sống và hiểu được ý nghĩa của các trò chơi, phương tiện giải trí, như là thời gian để giải toả, khuây khỏa chính đáng con người.
Áp dụng những gì vừa kể vào các lãnh vực khác của cuộc chuyên cần dấn thân trần thế, chúng ta sẽ thấy được đâu là thế giới mênh mông đang mở ra trước mắt người tín hữu giáo dân.
Hướng dẫn những thực tại trần thế vào ý nghĩa chính đáng của mình, các thực tại đó được chính mình được mở ra và tương đối hoá đối với đối với ươc vọng tối đa mà con người mang trong chính tâm thức của họ: đó là Thiên Chúa.
Như vậy, với quyền năng của Phép Rửa, người tín hữu giáo dân
a) " được mời gọi " góp phần , gần như vào chính bản thể của thế giới, để thăng tiến thế giới,
b) " bằng cách nào? ": bằng cách thực hiện phận vụ của mình và dưới sự hướng dẫn của tinh thần Phúc Âm. và như vậy họ làm cho mọi người đều thấy được sự hiện diện của Chúa Ki Tô, nhứt là chứng nhân bằng đời sống của mình và với ánh sáng chói lọi của đức tin, niềm hy vọng và đức bác ái " ( Lumen gentium, 31).
Thật vậy chính trong tư thế giữa trần thế của người tín hữu giáo dân, mà Thiên Chúa làm sáng tỏ lên đồ án của Người và loan báo ơn gọi " hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa bằng cách hành xử đối với các vấn đề trần thế và quy hướng chúng theo ý muốn của Thiên Chúa".
IV - ƠN THÁNH THIỆN.
Chương V của Hiến Chế Lumen gentium diễn tả tính cách phổ quát ơn ơn gọi trở nên thánh thiện, bằng cách nói lên một định nghĩa mới.
Trở nên thánh thiện
a) không phải là trạng thái thánh thiện của những ai xa lánh trần thế, " thoát tục",
b) không phải là trạng thái thánh thiện của những ai sống giữa trần thế, một cách miễn cưỡng, ngay cả để thi hành thánh ý Chúa.
c) mà là sống giữa trần thế vì đức bác ái, là sống thông hiệp vào tình yêu của Chúa Ki Tô.
Thánh thiện là sống đức bác ái của Chúa Ki Tô, đức bái được diễn tả và thể hiện thực tế bằng động tác, thực thi đức bác ái cho lịch sử con người, cho thế gian, cho các sự vật ở thế gian được Thiên Chúa dựng nên trong Chúa Ki Tô, dựng nên vì Chúa Ki Tô.
Và chỉ ở nơi Chúa Ki Tô, mà các sụ việc và tạo vật đó đạt đến sự trọn hảo của mình: " per Christum, con Christo et in Christo...".
Và tất cả mọi tín hữu Chúa Ki Tô - " mọi tín hữu Chúa Ki Tô ", như những gì đã nêu lên trong Hiến Chế Gaudium et spes, 43 - là
- " những công dân của thị xã ( polis) nầy và thị xã khác "... "được mời gọi hãy trung thành thực hiện các phận vụ trần thế của mình ", bằng cách vượt thắng sự rạn nứt cách biệt giữa đức tin và cuộc sống hằng ngày, theo gương Chúa Ki Tô, hoà hợp tất cả các cố gắng con người của mình, tư gia, nghề nghiệp, khoa học và kỷ thuật trong một Tổng Hợp Sống Duy Nhứt với các kho tàng thánh thiện tôn giáo, mà dưới sự hướng dẫn rất cao cả đó của tôn giáo, mọi việc đều được phối hợp để làm vinh danh Chúa " ( Gaudium et spes, 43a).
Hiểu như vậy, người tín hữu giáo dân không phải là chiếc cầu gạch nối giữa Giáo Hội và thế giới.
Theo Hiến Chế Gaudium et spes, 43a, không có người tín hữu nào được miễn chuẩn khỏi phải thực hiện nơi chính mình , để tôn vinh Chúa, cuộc sống tổng hợp giữa các chuyên cần dấn thân trần thế và các giá trị thiên thánh tôn giáo.
Như vậy, ngay cả hàng giáo phẩm cũng không được cảm thấy mình được miễn chuẩn khỏi khỏi mối tương quan liên hệ kiến tạo với động tác của con người, thành ra quay lưng giao phó cho người khác.
Không những vậy, ngay cả sự tôn trọng đối với quyền tự lập chính đáng đối với các lãnh vực trần thế, hàng giáo phẩm cũng phải có trách nhiệm đối xử, nhứt là trên bình diện lương tâm cá nhân của mình.
Trong bối cảnh tổng thể bao quát đó, chúng ta đọc được trong cùng Hiến Chế câu xác nhận:
- " Riêng chính đối với người tín hữu giáo dân - mặc dầu không phải là riêng chỉ có họ - họ có phận sự về các chuyên cần dấn thân và các động tác trần thế " ( Gaudium et spes, 43b).
Như vậy, người tín hữu giáo dân được khuyến khích sống đối với những gì nói một cách tổng quát, thuộc về lãnh vực của họ, mặc dầu không phải là độc quyền thuộc thẩm quyền của họ, trong việc áp dụng nguyên tắc tự lập chính danh của các thực tại trần thế.
Đi vào thực tế, điều đó có nghĩa là người tín hữu giáo dân hãy tác động như là những công dân,
* thực sự có được thẩm quyền chuyên môn nơi các lãnh vực mà mình tác động,
* cộng tác với những người khác cùng đồng nhắm về một mục đích,
* xác quyết có các quyết định đối với các sáng kiến mới và thực hành những đồ án đã được vạch ra.
Người tín hữu giáo dân nhận biết rằng
- " bổn phận lương tâm của mình, một khi đã được đào tạo đúng đắn chính đáng, là viết lên lề luật của Chúa vào cuộc sống của thị xã trần thế " ( Gaudium et spes, 43b).
Như vậy bằng tác động, người tín hữu giáo dân soi sáng, xếp đặt và hướng dẫn các thực tại trần thế
- " theo phương cách để tất cả được theo ý muốn của Chúa Ki Tô, được tăng trưởng lên và trở thành lời ngợi khen đối với Đấng Tạo Hoá và Đấng Cứu Độ " ( Gaudium et spes, 31).
Sống và hành động như vậy, người tín hữu giáo dân thực hiện ơn gọi trở nên thánh thiện mà Chúa Cha kêu gọi họ.
Sau khi đặt ơn gọi người tín hữu giáo dân trong nhãn quang Ki Tô Luận, chúng ta có thể tiến đến bước thứ hai đó là có thể xác nhận rõ hơn việc tham dự vào tình thương của Chúa Cha cho thế gian, nhờ Chúa Giêsu, có thể được thể hiện bằng nhiều cách sống khác nhau.
Bởi vì Chúa Ki Tô rất dồi dào sung mãn và chúng ta được mời gọi, nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần trợ lực, phát triển dưới cách sống nầy thức nầy hay phương thức khác, thực thể của Chúa Ki Tô.
Dĩ nhiên người tín hữu Chúa Ki Tô thực hiện tất cả các chiều hướng cá thể của Ki Tô giáo:
a ) " giữa trần thế " ( cả vị nữ dòng kín cũng cũng có thể thực hiện theo phương thức dòng của mình, mà ai trong chúng ta cũng xác nhận được);
b) " nhưng không phải thuộc về thế gian ", ngay cả những ai đang có hai tay phải quấn vấy vào các biến chuyển luôn tạo bận tâm bận trí của các lãnh vực kinh tế, không thể chỉ bị coi là con người hoàn toàn tùy thuộc vào thế gian;
c) " cho thế gian ", mỗi người đều phải liên đới với định mệnh của thế gian, vì thế gian Thiên Chúa dựng nên, yêu thương và được Thiên Chúa muốn có cho con người, được dựng nên do lòng yêu thương của Người đối với con người;
d) " chống lại thế gian ", chính vì người tín hữu Chúa Ki Tô yêu thương thế gian, mà do đó nhiều khi phải đứng ra chống lại cách hành xử không chính đáng của thế gian, hành xử đi ngược lại đồ án của Thiên Chúa , làm cho thế gian đi ngược lại phẩm giá con người, được Thiên Chúa dựng nên giống hình ảnh Người ( Gen 1, 27) và là con của Người ( Mt 6, 9).
Qua những gì vừa kể, chúng ta thấy được có nhiều hình thức ơn gọi để sống giữa trần thế:
a) Hình thức thứ nhứt cá biệt của người tín hữu giáo dân.
Đó là phương thức, người tín hữu giáo dân đặc biệt là người được kêu gọi " hiện diện giữa trần thế ", mặc dầu không thuộc về trần thế và được mời gọi bằng các động tác phục vụ thiết thực trong cuộc sống và dấn thân theo ý nghĩa Chúa Ki Tô là Đấng " cho thế gian" và " chống lại thể gian " khi thế gian khép mình lại trước đồ án của Thiên Chúa.
Cũng vậy, cũng là người tín hữu Chúa Ki Tô, mặc dầu đang sống theo một ý nghĩa tổng quát đặc tính trần thế đó. Đó là khi người tín hữu Chúa Ki Tô được mời gọi tuyên xưng rằng tín hữu Chúa Ki Tô không phải là " không hiện diện trong thế gian ", với thái độ xa lánh, khước từ, " thoát tục ", bỏ chạy, mà chỉ có ý nghĩa nói lên rằng " thế gian không phải là tất cả " của cuộc sống mình.
b) Hình thức thứ hai của ơn gọi người tín hữu giáo dân sống giữa trần thế, đó là hình thức phân biệt những người tín hữu giáo dân trong nhiều hình thức khác nhau giữa họ.
Giữa chính những người tín hữu giáo dân với nhau, có thể có nhiều phương thức khác nhau để sống cùng chính một ơn gọi sống đời Ki Tô hữu giữa trần thế, liên quan đến các phương thức thực tế khác nhau mà mỗi người tổ chức và nhấn mạnh nhằm thực hiện đến bốn cá tinh được liệt kê ở trên.