Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng

BBT CGVN YouTube
Thánh Kinh Công Giáo
Cầu nguyện bằng email
Hội Đồng Giám Mục VN
Liên Lạc

Văn Kiện Vatican 2

Lectio divina

Suy Niệm & Cầu Nguyện

Học Hỏi Kinh Thánh

Lớp KT Sr Cảnh Tuyết

Nova Vulgata

Sách Bài Đọc UBPT

LỜI CHÚA LÀ ÁNH SÁNG

GH. Đồng Trách Nhiệm

TAN TRONG ĐẠI DƯƠNG

Video Giảng Lời Chúa

Giáo Huấn Xã Hội CG

Tuần Tin HĐGMVN

Vụn Vặt Suy Tư

Giáo Sĩ Việt Nam

ThăngTiến GiáoDân

Bản Tin Công Giáo VN.

Chứng Nhân Chúa Kitô

Thánh Vịnh Đáp Ca

Phúc Âm Nhật Ký

Tin Vui Thời Điểm

Tin Tức & Sự Kiện

Văn Hóa Xã Hội

Thi Ca Công Giáo

Tâm Lý Giáo Dục

Mục Vụ Gia Đình

Tư Liệu Giáo Hội

Câu Chuyện Thầy Lang

Slideshow-Audio-Video

Chuyện Phiếm Gã Siêu

Các Tác Giả
  Augustinô Đan Quang Tâm
  Ban Biên Tập CGVN
  Bác sĩ Ng Tiến Cảnh, MD.
  Bác Sĩ Nguyễn Ý-Đức, MD.
  Bùi Nghiệp, Saigon
  Bosco Thiện-Bản
  Br. Giuse Trần Ngọc Huấn
  Cursillista Inhaxiô Đặng Phúc Minh
  Dã Quỳ
  Dã Tràng Cát
  Elisabeth Nguyễn
  Emmanuel Đinh Quang Bàn
  Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB.
  EYMARD An Mai Đỗ O.Cist.
  Fr. Francis Quảng Trần C.Ss.R
  Fr. Huynhquảng
  Francis Assisi Lê Đình Bảng
  Gia Đình Lectio Divina
  Gioan Lê Quang Vinh
  Giuse Maria Định
  Gm Phêrô Huỳnh Văn Hai
  Gm. Giuse Đinh Đức Đạo
  Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
  Gm. JB. Bùi Tuần
  Gm. Nguyễn Thái Hợp, op
  Gm. Phêrô Nguyễn Khảm
  Gs. Đỗ Hữu Nghiêm
  Gs. Ben. Đỗ Quang Vinh
  Gs. Lê Xuân Hy, Ph.D.
  Gs. Nguyễn Đăng Trúc
  Gs. Nguyễn Văn Thành
  Gs. Phan Văn Phước
  Gs. Trần Duy Nhiên
  Gs. Trần Văn Cảnh
  Gs. Trần Văn Toàn
  Hạt Bụi Tro
  Hồng Hương
  Hiền Lâm
  Hoàng Thị Đáo Tiệp
  Huệ Minh
  HY. Nguyễn Văn Thuận
  HY. Phạm Minh Mẫn
  JB. Lê Đình Nam
  JB. Nguyễn Hữu Vinh
  JB. Nguyễn Quốc Tuấn
  Jerome Nguyễn Văn Nội
  Jorathe Nắng Tím
  Jos. Hoàng Mạnh Hùng
  Jos. Lê Công Thượng
  Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
  Joseph Vũ
  Khang Nguyễn
  Lê Thiên
  Lm Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, HKK
  Lm Đaminh Hương Quất
  Lm. Anmai, C.Ss.R.
  Lm. Anphong Ng Công Minh, OFM.
  Lm. Anrê Đỗ Xuân Quế op.
  Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
  Lm. Đan Vinh, HHTM
  Lm. Đỗ Vân Lực, op.
  Lm. G.Trần Đức Anh OP.
  Lm. GB. Trương Thành Công
  Lm. Giacôbê Tạ Chúc
  Lm. Gioan Hà Trần
  Lm. Giuse Hoàng Kim Đại
  Lm. Giuse Lê Công Đức
  Lm. Giuse Ngô Mạnh Điệp
  Lm. Giuse Trần Đình Thụy
  Lm. Giuse Vũ Thái Hòa
  Lm. Inhaxio Trần Ngà
  Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
  Lm. JB Trần Hữu Hạnh fsf.
  Lm. JB. Bùi Ngọc Điệp
  Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh
  Lm. Jos Đồng Đăng
  Lm. Jos Cao Phương Kỷ
  Lm. Jos Hoàng Kim Toan
  Lm. Jos Lê Minh Thông, OP
  Lm. Jos Nguyễn Văn Nghĩa
  Lm. Jos Phan Quang Trí, O.Carm.
  Lm. Jos Phạm Ngọc Ngôn
  Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
  Lm. Jos Trần Đình Long sss
  Lm. Jos.Tuấn Việt,O.Carm
  Lm. Lê Quang Uy, DCCT
  Lm. Lê Văn Quảng Psy.D.
  Lm. Linh Tiến Khải
  Lm. Martin Ng Thanh Tuyền, OP.
  Lm. Minh Anh, TGP. Huế
  Lm. Montfort Phạm Quốc Huyên O. Cist.
  Lm. Ng Công Đoan, SJ
  Lm. Ng Ngọc Thế, SJ.
  Lm. Ngô Tôn Huấn, Doctor of Ministry
  Lm. Nguyễn Hữu An
  Lm. Nguyễn Thành Long
  Lm. Nguyễn Văn Hinh (D.Min)
  Lm. Pascal Ng Ngọc Tỉnh
  Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn
  Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
  Lm. Phạm Văn Tuấn
  Lm. Phạm Vinh Sơn
  Lm. PX. Ng Hùng Oánh
  Lm. Raph. Amore Nguyễn
  Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ
  Lm. Tôma Nguyễn V Hiệp
  Lm. Trần Đức Phương
  Lm. Trần Mạnh Hùng, STD
  Lm. Trần Minh Huy, pss
  Lm. Trần Việt Hùng
  Lm. Trần Xuân Sang, SVD
  Lm. TTT. Võ Tá Khánh
  Lm. Vũ Khởi Phụng
  Lm. Vĩnh Sang, DCCT
  Lm. Vinh Sơn, scj
  Luật sư Đoàn Thanh Liêm
  Luật sư Ng Công Bình
  Mẩu Bút Chì
  Mặc Trầm Cung
  Micae Bùi Thành Châu
  Minh Tâm
  Nữ tu Maria Hồng Hà CMR
  Nguyễn Thụ Nhân
  Nguyễn Văn Nghệ
  Người Giồng Trôm
  Nhà Văn Hương Vĩnh
  Nhà văn Quyên Di
  Nhà Văn Trần Đình Ngọc
  Nhạc Sĩ Alpha Linh
  Nhạc Sĩ Phạm Trung
  Nhạc Sĩ Văn Duy Tùng
  Phaolô Phạm Xuân Khôi
  Phêrô Phạm Văn Trung
  Phó tế Giuse Ng Xuân Văn
  Phó tế JB. Nguyễn Định
  Phùng Văn Phụng
  Phạm Hương Sơn
  Phạm Minh-Tâm
  PM. Cao Huy Hoàng
  Sandy Vũ
  Sr. Agnès Cảnh Tuyết, OP
  Sr. M.G. Võ Thị Sương
  Sr. Minh Thùy, OP.
  Têrêsa Ngọc Nga
  Tín Thác
  TGM. Jos Ngô Quang Kiệt
  TGM. Phaolô Bùi Văn Đọc
  Thanh Tâm
  thanhlinh.net
  Thi sĩ Vincent Mai Văn Phấn
  Thiên Phong
  Thy Khánh
  Thơ Hoàng Quang
  Tiến Hùng
  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập
  Tiến Sĩ Tâm Lý Trần Mỹ Duyệt
  Tiến Sĩ Trần Xuân Thời
  Trầm Tĩnh Nguyện
  Trầm Thiên Thu
  Trần Hiếu, San Jose
  Vũ Hưu Dưỡng
  Vũ Sinh Hiên
  Xuân Ly Băng
  Xuân Thái
Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
  GH. Đồng Trách Nhiệm
NGƯỜI TÍN HỮU GIÁO DÂN TRONG GIÁO HỘI VÀ GIỮA TRẦN THẾ ( 1 )

 

NGUYỄN HỌC TẬP 

I - CĂN TÍNH VÀ BẢN TÍNH CỦA NGƯỜI TÍN HỮU GIÁO DÂN. 

Công Đồng Vatican II đã dành một sự chú ý đặc biệt đối với thực thể người tín hữu giáo dân.

Chương IV của Hiến Chế Lumen Gentium trình bày văn bản đầu tiên  trong cả lịch sử Giáo Hội về căn tính ( identité ) và phận vụ của người tín hữu giáo dân.

Trong bản văn vừa kể của chương IV, một cách đặc biệt, có hai yếu tố liên quan đến người tín hữu giáo dân trong sứ mạng của mình. Đó là

   - Giáo Hội tính của người tín hữu giáo dân:người tín hữu giáo dân không những thuộc về Giáo Hội, mà chính là Giáo Hội và tư cách hiện diện của mình giữa trần thế là không có gì khác hơn là làm cho Giáo Hội hiện diện giữa trần thế.

Với tứ tưởng vừa kể, ý nghĩa Công Đồng Vatican II dành cho người tín hữu giáo dân đã vượt lên trên quan niệm người tín hữu giáo dân chỉ là chiếc cầu gạch nối, là người trung gian hay người được ủy thác của Giáo Hội trong việc tiếp xúc giao hảo với trần thế:

   * " Người tín hữu giáo dân không còn phải là người trung gian, mà chính là Giáo Hội " hiện diện " giữa trần thế, giữa thế tục " ( M. D. Chenu, I Laici e la consacratio mundi).

   - Đặc tính trần thế của người tín hữu giáo dân: người tín hữu giáo dân được Chúa kêu gọi sống trong đặc tính trần thế của mình và sống giữa trần thế, nơi mà mình dấn thân chăm lo kiến tạo Nước Chúa:

   * " Do ơn gọi của mình, chính người tín hữu giáo dân có bổn phận tìm kiếm Nước Chúa bằng cách hành xử trên các thực tại trần thế và thiết định các thực tại đó theo ý Chúa muốn " ( Lumen Gentium, 31).  

   A - PHÉP RỬA VÀ BẢN TÍNH MỚI CỦA NGƯỜI TÍN HỮU CHÚA KI TÔ.

Từ Công Đồng Vatican II trở đi, Giáo Hội luôn luôn càng xác tín hơn cần phải phát huy nền thần học về căn tính của người tín hữu giáo dân và, tiếp theo sau Thượng Hội Đồng Giám Mục năm 1987, Đức Thánh Cha Gioan Phaolồ II, trong Thông Điệp Christifideles Laici, đã phát hoạ ra những định hướng chính yếu.

Căn tính hay bản thể của người tín hữu giáo dân, hơn những gì là đối tác tiêu cực với " không phải là giáo sĩ ", được định chuẩn đánh giá  một cách tích cực:

   - " Người tín hữu giáo dân, như tất cả các thành phần của Giáo Hội, là những cành nhánh có căn cội của mình trong Chúa Ki Tô, cây nho đích thực, được Người làm cho sống và trở nên những chủ thể đem lại sự sống " ( Christifideles Laici, 9).  

Như vậy người tín hữu giáo dân có căn tính của mình do sự kiện là họ ở trong Chúa Ki Tô như là cành nho sống động: điều đó hàm chứa bản tính giáo dân Ki Tô hữu trước hết được đặt trên nền tảng sự quyết định cá nhân đón nhận đồ án cứu rổi của Thiên Chúa, như là ơn ban nhưng  không, chọn lựa Chúa Ki Tô như là khuôn mẫu sống và để cho mình được tác tạo biến đổi trong trường phái của Lời Người.

Như vậy, nói cho cùng, căn tính của người tín hữu giáo dân được đặt nền tảng chính yếu, trên thực thể của Chúa Ki Tô, trên thực thể thuộc về Người, chớ không phải trên trạng thái là vì không phải là giáo sĩ. 

Và căn tính vừa kể, nói một cách xác thực hơn, đó là vì người tín hữu Chúa Ki Tô, giáo sĩ cũng như giáo dân, có căn tính của họ được đặt trên việc họ đã nhận được Phép Rửa và qua Phép Rửa, họ đã trở thành một tạo vật mới trong Chúa Ki Tô.

Và kế đến chính trên căn tính nầy, mà trong Cộng Đồng các môn đệ Chúa Ki Tô, mới có việc phân chia ra trách nhiệm thừa tác vụ khác nhau và nhiều khác biệt phẩm trật khác khau. 

Công Đồng Vatican II đặc tâm chú ý đến sự kiện người tín hữu giáo dân phải được coi, vì không thừa hành một chức vụ thừa tác viên được truyền chức hay vì không phải là một tu sĩ, là

   - " người đã nhận được Phép Rửa, đã được hội nhập vào Chúa Ki Tô và được thiết lập thành dân Chúa qua trung gian Phép Rửa " ( Lumen Gentium, 31). 

Và với tư cách đó, sự hiện diện của người tín hữu giáo dân giữa trần thế là sự hiện diện hội nhập văn hoá ( inculturation) Phúc Âm vào môi trường sống trần thế, vào lịch sử. 

Nói một cách rõ hơn, chúng ta có thể nói rằng căn tính của người tín hữu giáo dân được thể hiện ra trong 4 chiếu hướng:

   a) Người tín hữu giáo dân là người đã nhận được Phép Rửa.

Xác nhận đặc tính vừa kể có nghĩa là đặt trọng tâm nhấn mạnh đến tiến trình, trong đó Thiên Chúa, muốn cứu rổi cả nhân loại, ban cho con người có cơ hội đến được với đức tin và hội nhập vào việc thông hiệp với Người, và trong đó, về phía con người, cảm nhận được mình có liên hệ với đồ án vừa kể, dần dần làm cho mình ý thức được những gì Phép Rửa đã tác động trong cuộc sống mình và khiến cho mình học lấy các đức tính của người môn đệ Chúa Ki Tô, mà đức tính đầu tiên, đó là Giới Răn Yêu Thương.

   b) Người tín hữu giáo dân là người được sáp nhập vào Chúa Ki Tô.

     Xác nhận điều vừa kể nhấn mạnh đến bản thể của người nhận được Phép Rửa, chúng ta phải tìm hiểu ở những gì mới mẻ hiệu quả của Phép Rửa  đem đến, trong đó có cả thiên tước được trở thành con Chúa trong Chúa Giêsu.

   c) Người tín hữu giáo dân là thành phần Cộng Đồng Dân Chúa.

     Là thành phần của Cộng Đồng Dân Chúa mới, làm cho người tín hữu giáo dân là thành phần được Chúa chọn với cùng đích chính xác cần phải nhớ, với căn tính của mình, trước khi đề cập đến sứ mạng của mình là làm cho mọi người thấy được sự hiện diện của Chúa trong lịch sử, để cứu rổi họ, những ai chấp nhận trở nên thành phần của dân Người.

   d) Người tín hữu giáo dân khác với các thừa tác viên được truyền chức.

    Người tính hữu giáo dân là người sống ơn gọi cá biệt Phép Rửa của mình bằng cách kiến tạo Nước Chúa bằng cuộc sống nhằm sống trọn hảo những điều  được Phúc Âm dạy bảo cho và tác động việc dấn thân loan truyền Phúc Âm của mình trong các lãnh vực trần thế, đảm nhận lấy những gánh nặng các vấn đề phúc tạp của các lãnh vực trần thế, sống trong môi trường đó như là dấu chứng đặc tâm yêu thương đại lượng và cứu độ của Chúa.

Phận vụ thừa tác viện được truyền chức trái lại, là thực thể mà vị Thầy Chí Thánh đã muốn giao cho, để cho Cộng Đồng Dân Chúa mới có được nơi các Tông Đồ, có được những con người được Chúa Thánh Thần soi sáng cho, có khả năng chuẩn định được các ân sủng được Chúa ban cho trong Cộng Đồng và thăng tiến các ơn sung đó làm lợi ích cho Công Đồng.

Căn tính của người tín hữn giáo dân cũng khác với căn tính của các tu sĩ và các vị thừa tác viên được truyền chức, nhưng không phải vì đó mà ở bậc thấp hơn.

Căn tính của người tín hữu giáo dân khác biệt hơn thì đúng hơn, khác biệt theo phương thức thuộc về thiên chức linh mục của Chúa Ki Tô cho sứ mạng trong nội bộ Cộng Đồng Dân Chúa và theo thành phần cấu trúc, cũng như khác biết đối với phận vụ dấn thân giữa trần thế.

   e ) Địa vị của người tín hữu giáo dân.

Những xác định vừa kể cho phép chúng ta có được một tư tưởng ngắn gọn về địa vị của người tín hữu giáo dân ( Christifideles Laici, 16).

Địa vị của người tín hữu giáo dân trước tiên hệ tại ở chỗ người tín hữu giáo dân là con người ( persona), và với tư cách đó đặc tính thiên thánh bất khả xâm phạm được đặt trên hai nền tảng song đôi. Đó là

   - với tư cách con người, người tín hữu giáo dân được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa ( Gen 1, 27),

   - và là tạo vật duy nhứt, trong tất cả các tạo vật trên mặt đất được ban cho có lương tâm, tự do, trung tâm điểm và là thượng đỉnh của tất cả những gì hiện hữu trên mặt đất.

Như vậy nguồn mạch khởi thủy địa vị của người tín hữu giáo dân là mối liên hệ gia đình giữa mình và Đấng Tạo Hoá, là Đấng sẽ hướng dẫn mình - một khi đã biết được Mạc Khải - đến khuôn mẫu sống chấp nhận con đường sống Ki Tô giáo, và nhờ Phép Rửa

Họ trở nên thành phần cơ thể sống động của Thân Thể Mầu Nhiệm Chúa Ki Tô, là Giáo Hội.

Là thành phần đầy đủ tư cách củ Giáo Hội, người tín hữu giáo dân là Giáo Hội, đem ơn cứu rổi được Chúa Giêsu tác động và ủy thác cho Giáo Hội đến cho mọi người, trong cuộc sống hằng ngày trên thế giới. 

Tất cả những điều đó trở thành khả thi, chính vì nhờ quyền năng của Phép Rửa, người tín hữu giáo dân đã trở thành  con Thiên Chúa  và thành anh em của Chúa Giêsu.

Và với tư cách là " người anh em của Chúa Giêsu ", người tín hữu giáo dân đã nhận được sự tthông hiệp với Chúa Cha, mà Chúa Giêsu là Con, nhờ động tác của Chúa Thánh Thần.    

II - THAM DỰ VÀO TƯỚC VỊ TƯ TẾ, NGÔN SỨ VÀ VƯƠNG GIẢ CỦA CHÚA KI TÔ.

Luôn luôn chính nhờ Phép Rửa, mà người tín hữu giáo dân càng được hiểu biết sâu đậm hơn về địa vị của mình, đưa đến việc tham dự vào chức vụ " phục vụ " ( diaconia ) của Chúa Giêsu, Người Đầy Tớ Chúa, thực hiện và tham dự vào ba " munera Christi " ( ba chức vụ của Chúa Ki Tô), đó là phận vụ Chúa Giêsu tư tế, ngôn sứ và vương giả.

   a) Tham dự vào tước vị tư tế của Chúa Ki Tô.

     Công Đồng Vatican II xác nhận rằng người tín hữu giáo dân, qua Phép Rửa, đã kết hợp mật thiết với đời sống và sứ mạng của Chúa Ki Tô, bởi đó họ cũng tham dự vào chức tụ tư tế của Người.

Như Chúa Ki Tô đã biết dâng chính mình làm của lễ đẹp lòng Chúa Cha để giao hoà lại giữa Thiên Chúa và con người, cũng vậy người tín hữu giáo dân phải biết nhìn thấy và nhận ra mục đích của thực tại trần thế, bằng cách thiết lập nên trong cuộc sống của mình, mối liên kết sâu xa và thân tình với Chúa Thánh Thần, cho phép mình biến việc làm, niềm vui sướng, nỗi khỗ đau, lời kinh nguyện của mình thành " thiên thánh " ( = đẹp lòng Chúa ).

Như vậy phận vụ tư tế của người tín hữu giáo dân là biến đổi sâu đậm các thực tại trần thế nơi mình sống và tác động theo chiều hướng thiêng liêng, tạo nên ý nghĩa cho sự chờ đợi vô thức mà con người cảm nhận, nhưng không giải thích được trong nhiều hoàn cảnh khác nhau của cuộc sống.

Người tín hữu giáo dân tham dự vào chức tư tế của Chúa Ki Tô khi họ thực hiện các động tác của mình trong nhãn quang Phúc Âm và dâng lên Chúa Cha như là lời khen ngợi và tình yêu của mình đối với Người.

   b) Tham dự vào tước vị ngôn sứ của Chúa Ki Tô. 

Tham dự vào chức vụ tư tế của Chúa Ki Tô, suy nghĩ về những gi Công Đồng Vatican II tuyên bố liên hệ, Đức Thánh Cha Gioan Phaolồ II cũng  chỉ cho chúng ta địa vị nầy của người tín hữu giáo dân là nguồn mạch khiến cho họ có tính cách chính danh và khả năng tác động:

   - " Việc tham dự vào chức vụ ngôn sứ của Chúa Ki Tô...chính danh hóa và đòi buộc người tín hữu giáo dân hãy đón nhận trong đức tin Phúc Âm và loan báo bằng lời nói và động tác, bằng cách không ngần ngại can đảm tố cáo sự ác. Hiệp nhứt với Chúa Ki Tô, vị Đại Ngôn Sứ ( Lc 7, 16), và được Chúa Thánh Thần thiết lập thành những chứng nhân của Chúa Ki Tô Phục Sinh, người tín hữu giáo dân được làm cho thăm dự vào đức tin thiêng liêng của Giáo Hội không thể sai lầm trong tín lý, cũng như vào ân sủng của Lời Chúa ( Act 2, 17-18; Ap. 19, 10). Bởi đó họ cũng được mời gọi hãy làm chiếu sáng lên điều mới mẻ và sức mạnh của Phúc Âm trong cuộc sống thường nhật, gia đình và xã hội của mình, cũng như kiên nhẫn và can đảm  nói lên trong các nghịch cảnh của thời hiện đại  niềm hy vọng của mình trong vinh quang, ngay cả trong cấu trúc của đời sống trần thế " ( Christifideles Laici, 14) 

Tham dự vào địa vị ngôn sứ của Chúa Ki Tô đòi buộc người tín hữu giáo dân, nhứt là phải sống như điều gì là chính mình: đó là nhân chứng Phúc Âm.  

   c) Tham dự vào tước vị vương giả của Chúa Ki Tô.

Tham dự vào tước vị vương giả của Chúa Ki Tô được Công Đồng Vatican II xác nhận như sau:

   - " Chúa Ki Tô đã vâng lời cho đến chết và bởi đó được Chúa Cha nhắc lên, đi vào vinh quang của vương quốc của Chúa Cha, mọi vật đều được đặt qụy phục dưới chân Người, để Người đặt chính mình và tất cả mọi tạo vật vâng phục Chúa Cha, để cho Thiên Chúa là tất cả trong mọi người. Quyền bính vừa kể Chúa Giêsu đã thông ban cho các môn đệ, để chính các ngài cũng được tạo dựng nên trong tự do vương giả " ( Lumen Gentium, 36). 

Đức Thánh Cha Gioan Phaolồ II lấy lại quan niệm vừa kể và xác nhận:

   - " Do việc họ thuộc về Chúa Ki Tô là Vua vũ trụ, người tín hữu giáo dân dự phần vào tước vị vương giả của Người và họ được kêu gọi để phục vụ Nước Chúa và để loan truyền Nước Chúa ra trong lịch sử. Người tín hữu giáo dân sống vương tước Ki Tô hữu, trước tiên quan việc chiến đấu thiêng liêng để chiến thắng chính nơi mình quyền lực của tội lỗi ( Rom 6, 12), và kế đến qua động tác dâng hiến chính mình để phục vụ bác ái và công lý, phục vụ chính Chúa Giêsu đang hiện diện trong tất cả anh em, nhứt là nơi những anh em bé mọn " ( Mt 25, 40) ( Christifidels Laici, 14). 

Như vậy, người tín hữu giáo dân có thể làm cho nhập thể và thực hiện tước vị vương giả của Chúa Ki Tô, theo ba phương thức:

   - chiến thắng nơi mình quyền lực của tội lỗi,

   - đưa anh em đến Vương Quốc  Chúa Ki Tô

   - và thiết định mọi việc trong Chúa Ki Tô. 

Nền tảng thần học của người tín hữu giáo dân là Phép Rửa, qua việc hội nhập họ vào Chúa Ki Tô và việc tham dự vào "tria munera Christi" ( ba phận vụ của Chúa Ki Tô ).

    

 

Tác giả:  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!