Tôi đọc trên bản Tin Công giáo Việt Nam (VietCatholic News) ngày 26 -12-2010 bài tường thuật về lễ Giáng sinh năm nay của Đức Cha Micae Hoàng Đức Oanh, Giám mục giáo phận Kontum, dưới nhan đề lạ tai: Mục vụ Mùa Giáng Sinh – Giám mục bờ sông.
Đức cha Oanh được tiếng là vị giám mục năng động, đầy tinh thần mục tử, dễ dàng thích nghi với mọi hoàn cảnh dù là xa lạ, bất thường nhất miễn sao hoàn thành được nhiệm vụ của mình vì lợi ích của con chiên. Cung cách của ngài có một chút gì gợi nhớ tới hành động của các vị thừa sai trong Giáo Hội Việt Nam thời xưa, như tôi đọc thấy trong cuốn Dân Làng Hồ, nguyên là tập Hồi ký truyền giáo của nhà thừa sai Pháp P. Dourisboure (1825-1890), kể về việc loan báo Tin Mừng đầu tiên cho Tây Nguyên.
Chương trình cử hành lễ Giáng Sinh năm nay của vị Chủ Chăn Kontum gồm 4 giáo điểm thuộc vùng sâu vùng xa còn rất khó khăn, nhưng cuối cùng chỉ thực hiện được cho ba điểm vì một điểm bị chính quyền địa phương từ chối. Đoàn mục vụ gồm có ba xe nhỏ 7 chỗ. Trước khi lên đường, Đức Cha và những người tháp tùng đã đến thăm chính quyền, như một cử chỉ lịch sự đồng thời như muốn cho chính quyền các nơi biết rằng rằng chuyến mục vụ này là chính thức và hợp pháp, không trộm vụng lén lút. Tuy vậy, chúng ta sẽ thấy rằng mọi sự chưa thể xảy ra một cách suôn sẻ, bình thường do chính sách hay do cái nhìn còn hẹp hòi, đầy nghi ngờ của một số cán bộ chính quyền cấp dưới đối với tôn giáo (?).
Thánh lễ Giáng Sinh thứ nhất được Đức Cha cử hành lúc 7 giờ tối ngày 24 tháng 12 tại xã An Trung, huyện Kon Chro. Sau lễ, Đức Cha và phái đoàn dùng cơm tại nhà “các Dì”- một cách người miền Nam gọi các nữ tu, vừa rất Việt Nam vừa thân thương, vì “dì” là chị hay em gái của mẹ. Vì vẫn còn việc kiểm tra hộ khẩu mà đoàn đoán chừng sẽ gây khó khăn vừa cho chủ nhà vừa cho khách (có thể phương hại tới chương trình mục vụ của đoàn), nên đoàn chọn cách tìm nơi tá túc qua đêm. Nhưng ở đâu cho khỏi bị rắc rối? Đoàn chọn đi ra bờ sông và ngủ ngay trong xe. Quả thực, đêm hôm đó, dù là đêm Noel, công an vẫn đến kiểm tra hộ khẩu nhà các Dì và “phát hiện” ra –không phải Đức Giám mục mà họ nghi là nghỉ lại trong tu viện- nhưng là ba em học sinh trung học dân tộc cùng đi với Đức Cha. Mọi người cứ tưởng rằng các em có thể ở lại nhà các Dì mà không có vấn đề nào vì chúng là người dân tộc lại chưa làm chứng minh nhân dân. Nhưng các em đã bị công an trục xuất ra khỏi nhà. Nhưng một vài gia đình công giáo ở nơi khác được điều động đưa xe máy tới chở các em về nhà tạm trú qua đêm.
Sáng hôm sau, Đức Cha đến dâng thánh lễ tại Yang Trung, huyện Kon Kro, cách bờ sông ngủ đêm 10 km. Sau lễ, ngài ghé thăm một vài nhà giáo dân.
Theo chương trình, ngài sẽ đến dâng lễ thứ ba lúc 10 giờ tại Sơn Lang, nhưng chính quyền không cho tập trung gần 40 gia đình để dâng lễ, chỉ cho phép ngài, nếu muốn, thì dâng tại mỗi nhà một lễ và không quá một tiếng đồng hồ. Đức Cha không chấp nhận điều kiện này nên đã không đến Sơn Lang. Điều kiện đó thật ra là một cách cấm vị Giám Mục làm lễ.
Đến chiều, vị Chủ Chăn vượt quãng đường kơn 200 km đến dâng lễ ở Ia Lâu, huyện Chư Prông, với 6 xe ôtô hộ tống. Mọi chuyện xuôi chảy, dù có nhiều công an chìm theo dõi và ghi các số xe.
*
Khi đọc bài tường thuật về ngày lễ Giáng Sinh đặc biệt này của Đức Cha giáo phận Kontum, (và tôi vừa tóm tắt để chia sẻ lại với độc giả), tôi rất ngạc nhiên về tình hình tự do tôn giáo ở nơi này. Tại sao sau trên ba mươi năm độc lập và vài chục năm Đổi Mới, một giám mục đi hành đạo trong địa phận mình (lại là dịp lễ tôn giáo rất lớn) mà phải qua đêm trong xe ôtô bên một bờ sông chứ không thể đàng hoàng ngủ trong một nhà xứ, một tu viện vốn thuộc quyền của mình? Tại sao đoàn mục vụ sợ kiểm tra hộ khẩu? Chắc chắn là vì theo kinh nghiệm, đoàn biết rằng loại kiểm tra này thường có cái gì đó không bình thường, nên bất đắc dĩ mới phải “ngủ bờ ngủ bụi”, như có người đã dám nói.
Tôi nhận thấy mỗi lần Liên Hiệp Quốc, Hoa Kỳ hay Cộng đồng Châu Âu lên tiếng về vấn đề tự do tôn giáo và coi Việt Nam, tuy đã có những tiến bộ, nhưng vẫn là một trong những nước còn có vấn đề, thì chính quyền chúng ta lại mau mắn phản đối, cho rằng như thế là thiếu khách quan, thiếu thiện chí, thậm chí xuyên tạc sự thật. Người phát ngôn của chính phủ lại khẳng định Việt Nam luôn tôn trọng quyền tự do tôn giáo và tạo điều kiện cho các tôn giáo hoạt động, bằng chứng là các nhà thờ, thánh thất luôn đầy ắp tín hữu đến dự lễ… Những điều đó là không sai, nhưng chưa phải là đã có khắp mọi nơi. Chính quyền dường như chỉ dựa vào thực tế ở những vùng đồng bằng và thành thị mà không nói gì tới tình hình ở những vùng sâu vùng xa, nơi đó tự do tôn giáo vẫn thường xuyên bị hạn chế và có khi bị vi phạm. Người làm việc tôn giáo và các tín đồ những nơi đó vẫn thường bị làm khó dễ. Có những gia đình dân tộc thiểu số muốn theo đạo thì bị đe doạ, cấm cách, khủng bố tinh thần hoặc có khi bị “cúp” những quyền lợi vật chất nào đó… Chính quyền cũng “quên” rằng có những cán bộ vùng sâu vùng xa, đặc biệt vùng dân tộc, còn hãnh diện vì đã “giữ gìn” cho địa phương mình phụ trách vẫn là một vùng trắng về tôn giáo. Họ hãnh diện, thì phải chăng cũng vì được cấp trên khen ngợi, khuyến khích –ít ra là ngấm ngầm? Bao lâu cán bộ, đảng viên vẫn coi bản chất tôn giáo là “xấu” thì không thể thật lòng nhìn nhận tự do tôn giáo là một quyền được; nói “quyền” là quyền cho cái tốt, chứ không thể có quyền cho cái xấu. Bởi thế nơi nào có thể được, họ làm mọi cách để tôn giáo khỏi có mặt, ít nhất là không thể phát triển. Những nhóm người có đạo đến lập nghiệp trong một vùng mới và muốn tụ họp nhau để làm đọc kinh cầu nguyện, nhất là nếu muốn có một nhà thờ dù rất đơn sơ khiêm tốn, họ luôn luôn phải xin phép và kiên nhẫn đợi chờ tháng này qua tháng khác, thậm chí năm này qua năm khác trước khi chính quyền xem xét và chấp thuận. Chung chung, từ chối là câu trả lời đầu tiên của nhà cầm quyền. Nhiều lần như thế cho đến lúc thấy rằng không thể nói “không” mãi, bấy giờ họ mới chịu đồng ý. Bởi vì một cách tiên thiên, người cán bộ quản lý cộng sản coi tổ chức tôn giáo là “phức tạp” đối với chủ trương đường lối của họ.
Như trên đã nói, so với thời trước đổi mới thì tình hình chung hiện nay là khá tốt đẹp; khó khăn dường như tập trung nhiều hơn vào những vùng xa xôi và đặc biệt đối với các dân tộc ít người. Đại Hội Đảng lần thứ XI sắp nhóm họp. Chúng tôi mong muốn Đảng không hài lòng với vấn đề tự do tôn giáo và coi như đã được giải quyết (như khi trả lời cho các tuyên bố nước ngoài), mà thẳng thắn nhìn vào thực tế để tiếp tục đổi mới hơn nữa và đổi mới toàn diện chính sách tôn giáo. Ba mươi lăm năm độc lập và thống nhất đất nước hẳn là đã đủ để hiểu và nhìn nhận rằng tôn giáo là một yếu tố tích cực cho đời sống xã hội, nhất là trong thời buổi tham nhũng, dối trá và suy thoái đạo đức tràn lan đang đe doạ đất nước và dân tộc ta. Đó mới là kẻ thù cần phải dồn sức chống lại, nếu không mọi nổ lực làm cho “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” sẽ chẳng bao giờ có hy vọng đạt tới thành công.
(Mùa Giáng sinh 2010)