Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng

BBT CGVN YouTube
Thánh Kinh Công Giáo
Cầu nguyện bằng email
Hội Đồng Giám Mục VN
Liên Lạc

Văn Kiện Vatican 2

Lectio divina

Suy Niệm & Cầu Nguyện

Học Hỏi Kinh Thánh

Lớp KT Sr Cảnh Tuyết

Nova Vulgata

Sách Bài Đọc UBPT

LỜI CHÚA LÀ ÁNH SÁNG

GH. Đồng Trách Nhiệm

TAN TRONG ĐẠI DƯƠNG

Video Giảng Lời Chúa

Giáo Huấn Xã Hội CG

Tuần Tin HĐGMVN

Vụn Vặt Suy Tư

Giáo Sĩ Việt Nam

ThăngTiến GiáoDân

Bản Tin Công Giáo VN.

Chứng Nhân Chúa Kitô

Thánh Vịnh Đáp Ca

Phúc Âm Nhật Ký

Tin Vui Thời Điểm

Tin Tức & Sự Kiện

Văn Hóa Xã Hội

Thi Ca Công Giáo

Tâm Lý Giáo Dục

Mục Vụ Gia Đình

Tư Liệu Giáo Hội

Câu Chuyện Thầy Lang

Slideshow-Audio-Video

Chuyện Phiếm Gã Siêu

Các Tác Giả
  Augustinô Đan Quang Tâm
  Đinh Văn Tiến Hùng
  Ban Biên Tập CGVN
  Bác sĩ Ng Tiến Cảnh, MD.
  Bác Sĩ Nguyễn Ý-Đức, MD.
  Bùi Nghiệp, Saigon
  Bosco Thiện-Bản
  Br. Giuse Trần Ngọc Huấn
  Cursillista Inhaxiô Đặng Phúc Minh
  Dã Quỳ
  Dã Tràng Cát
  Elisabeth Nguyễn
  Emmanuel Đinh Quang Bàn
  Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB.
  EYMARD An Mai Đỗ O.Cist.
  Fr. Francis Quảng Trần C.Ss.R
  Fr. Huynhquảng
  Francis Assisi Lê Đình Bảng
  Gia Đình Lectio Divina
  Gioan Lê Quang Vinh
  Giuse Maria Định
  Gm Phêrô Huỳnh Văn Hai
  Gm. Giuse Đinh Đức Đạo
  Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
  Gm. JB. Bùi Tuần
  Gm. Nguyễn Thái Hợp, op
  Gm. Phêrô Nguyễn Khảm
  Gs. Đỗ Hữu Nghiêm
  Gs. Ben. Đỗ Quang Vinh
  Gs. Lê Xuân Hy, Ph.D.
  Gs. Nguyễn Đăng Trúc
  Gs. Nguyễn Văn Thành
  Gs. Phan Văn Phước
  Gs. Trần Duy Nhiên
  Gs. Trần Văn Cảnh
  Gs. Trần Văn Toàn
  Hạt Bụi Tro
  Hồng Hương
  Hiền Lâm
  Hoàng Thị Đáo Tiệp
  Huệ Minh
  HY. Nguyễn Văn Thuận
  HY. Phạm Minh Mẫn
  JB. Lê Đình Nam
  JB. Nguyễn Hữu Vinh
  JB. Nguyễn Quốc Tuấn
  Jerome Nguyễn Văn Nội
  Jorathe Nắng Tím
  Jos. Hoàng Mạnh Hùng
  Jos. Lê Công Thượng
  Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
  Joseph Vũ
  Khang Nguyễn
  Lê Thiên
  Lm Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, HKK
  Lm Đaminh Hương Quất
  Lm. Anmai, C.Ss.R.
  Lm. Anphong Ng Công Minh, OFM.
  Lm. Anrê Đỗ Xuân Quế op.
  Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
  Lm. Đan Vinh, HHTM
  Lm. Đỗ Vân Lực, op.
  Lm. G.Trần Đức Anh OP.
  Lm. GB. Trương Thành Công
  Lm. Giacôbê Tạ Chúc
  Lm. Gioan Hà Trần
  Lm. Giuse Hoàng Kim Đại
  Lm. Giuse Lê Công Đức
  Lm. Giuse Ngô Mạnh Điệp
  Lm. Giuse Trần Đình Thụy
  Lm. Giuse Vũ Thái Hòa
  Lm. Inhaxio Trần Ngà
  Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
  Lm. JB Trần Hữu Hạnh fsf.
  Lm. JB. Bùi Ngọc Điệp
  Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh
  Lm. Jos Đồng Đăng
  Lm. Jos Cao Phương Kỷ
  Lm. Jos Hoàng Kim Toan
  Lm. Jos Lê Minh Thông, OP
  Lm. Jos Nguyễn Văn Nghĩa
  Lm. Jos Phan Quang Trí, O.Carm.
  Lm. Jos Phạm Ngọc Ngôn
  Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
  Lm. Jos Trần Đình Long sss
  Lm. Jos.Tuấn Việt,O.Carm
  Lm. Lê Quang Uy, DCCT
  Lm. Lê Văn Quảng Psy.D.
  Lm. Linh Tiến Khải
  Lm. Martin Ng Thanh Tuyền, OP.
  Lm. Minh Anh, TGP. Huế
  Lm. Montfort Phạm Quốc Huyên O. Cist.
  Lm. Ng Công Đoan, SJ
  Lm. Ng Ngọc Thế, SJ.
  Lm. Ngô Tôn Huấn, Doctor of Ministry
  Lm. Nguyễn Hữu An
  Lm. Nguyễn Thành Long
  Lm. Nguyễn Văn Hinh (D.Min)
  Lm. Pascal Ng Ngọc Tỉnh
  Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn
  Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
  Lm. Phạm Văn Tuấn
  Lm. Phạm Vinh Sơn
  Lm. PX. Ng Hùng Oánh
  Lm. Raph. Amore Nguyễn
  Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ
  Lm. Tôma Nguyễn V Hiệp
  Lm. Trần Đức Phương
  Lm. Trần Mạnh Hùng, STD
  Lm. Trần Minh Huy, pss
  Lm. Trần Việt Hùng
  Lm. Trần Xuân Sang, SVD
  Lm. TTT. Võ Tá Khánh
  Lm. Vũ Khởi Phụng
  Lm. Vĩnh Sang, DCCT
  Lm. Vinh Sơn, scj
  Luật sư Đoàn Thanh Liêm
  Luật sư Ng Công Bình
  Mẩu Bút Chì
  Mặc Trầm Cung
  Micae Bùi Thành Châu
  Minh Tâm
  Nữ tu Maria Hồng Hà CMR
  Nguyễn Thụ Nhân
  Nguyễn Văn Nghệ
  Người Giồng Trôm
  Nhà Văn Hương Vĩnh
  Nhà văn Quyên Di
  Nhà Văn Trần Đình Ngọc
  Nhạc Sĩ Alpha Linh
  Nhạc Sĩ Phạm Trung
  Nhạc Sĩ Văn Duy Tùng
  Phaolô Phạm Xuân Khôi
  Phêrô Phạm Văn Trung
  Phó tế Giuse Ng Xuân Văn
  Phó tế JB. Nguyễn Định
  Phùng Văn Phụng
  Phạm Hương Sơn
  Phạm Minh-Tâm
  PM. Cao Huy Hoàng
  Sandy Vũ
  Sr. Agnès Cảnh Tuyết, OP
  Sr. M.G. Võ Thị Sương
  Sr. Minh Thùy, OP.
  Têrêsa Ngọc Nga
  Tín Thác
  TGM. Jos Ngô Quang Kiệt
  TGM. Phaolô Bùi Văn Đọc
  Thanh Tâm
  thanhlinh.net
  Thi sĩ Vincent Mai Văn Phấn
  Thiên Phong
  Thy Khánh
  Thơ Hoàng Quang
  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập
  Tiến Sĩ Tâm Lý Trần Mỹ Duyệt
  Tiến Sĩ Trần Xuân Thời
  Trầm Tĩnh Nguyện
  Trầm Thiên Thu
  Trần Hiếu, San Jose
  Vũ Hưu Dưỡng
  Vũ Sinh Hiên
  Xuân Ly Băng
  Xuân Thái
Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
  Văn Hóa Xã Hội
ĐÂU LÀ CỐT LÕI CỦA ĐỨC TIN KITÔ GIÁO ? ĐỌC ĐỨC TIN KITÔ GIÁO HÔM QUA VÀ HÔM NAY

Đỗ Mạnh Tri 

Đâu là nội dung và tư tưởng cốt lõi của niềm tin Kitô giáo ? Câu trả lời đương nhiên là Kinh Tin Kính, hay Tín Biểu các Tông đồ. Người ngoài Kitô giáo muốn tìm hiểu đức tin kitô giáo, người kitô giáo muốn ý thức và đào sâu niềm tin của mình cần suy gẫm Kinh Tin Kính. Cuốn Đức Tin Kitô Giáo Hôm qua và Hôm nay[1] (ĐTKTGHQVHN) của Biển Đức 16, một trong những công trình thần học quan trọng nhất của thế kỷ 20, giúp ta thực hiện điều đó, đồng thời cho thấy đức tin không chỉ là khiêm tốn và đón nhận mà còn đòi hỏi nhiều cố gắng trên bình diện lý trí.

Chung quanh cuốn sách.

ĐTKGHQVHN, nguyên là một giáo trình của Biển Đức 16 về Kinh Tin Kính, khi ngài còn là giáo sư trẻ tuổi tại đại học Tübingen, năm 1967. Lời tựa của ấn bản đầu tiên (1968) cho biết vì có sự thúc đẩy kiên nhẫn của tiến sĩ Heinrich Will nên tác giả mới "dám liều lĩnh cho in". Hẳn ông H. Will đã nhận ra tầm quan trọng của giảng khóa. Vì chỉ trong vòng một năm cuốn sách đã được tái bản mười lần. Trong Lời tựa cho lần tái bản thứ mười (1969), tác giả viết:"Khi cuốn sách này lần đầu tiên xuất hiện cách đây một năm, tôi đã không nghĩ nó sẽ tạo ra được tiếng vang lạ lùng như thế. Tôi vô cùng sung sướng và cám ơn vì tác phẩm đã vượt biên giới và mang lại ơn ích cho không những tín hữu ở Tây mà cả ở Đông Đức, không những cho tín hữu công giáo mà cả tín hữu tin lành".

Lúc đó Joseph Ratzinger chưa thành một nhân vật nổi tiếng như sau này. Vậy tiếng vang lạ lùng từ cả hai phía Tin Lành và Công giáo, chỉ có thể đến từ nội dung của tác phẩm. Trong lời tựa ấn bản đầu tiên, năm 1968, tác giả mở đầu bằng một câu hỏi: "Đâu là nội dung và tư tưởng cốt lõi của đức tin kitô giáo ?" Và trả lời bằng một khẳng định táo bạo, khá bất ngờ: "Chưa bao giờ trong lịch sử câu hỏi này bị mây mù che phủ như hôm nay". Nói cách khác, câu hỏi nền tảng, thiết thân của người kitô hữu đang bị cho ra rìa một cách nào đó vì bị khỏa lấp bởi mây mù. Mà thủ phạm đầu tiên chính là thần học: "Không thể chối cãi là hiện đang có một khuynh hướng phổ biến muốn đổi vàng lấy đá". Vì cảm thấy đức tin là gánh nặng nên thần học có khuynh hướng lược bỏ những gì bị coi là phụ thuộc để chỉ giữ lại phần tinh túy của Đạo, nhưng rồi lần hồi từng bước, mỗi đợt một ít, tiến trình lược bỏ không còn biết đâu là cốt lõi, rốt cuộc, cái gọi là cốt lõi biến thành câu chuyện tầm phào.  Tuy nhiên, theo ý tác giả, ta cũng "không thể cản ngăn được khuynh hướng này bằng cách cứ nhắm mắt bám trụ vào những công thức của quá khứ, tuy vẫn óng ánh như vàng mà thật ra là những miếng sắt: Chúng quả là gánh nặng, chứ không mở ra tự do, thoải mái cho đức tin"[2]. Tác giả công nhận có gánh nặng trong quá khứ và không phủ định việc cần tước bỏ. Vấn đề là tước bỏ chỗ nào? Nếu đổi vàng lấy đá thì rồi cũng vất luôn cả đá, vì đá cũng nặng không kém vàng. Vậy trước khi tước bỏ, cần phân định đâu là phần tinh túy của Đạo, đâu là cốt lõi của đức tin kitô giáo: "Và đây là chủ đích của cuốn sách: nó muốn giúp cho người theo Chúa trong thời đại ngày nay hiểu một cách mới rằng, đức tin là một cách thế giúp cho con người trở thành người đích thực; cuốn sách muốn diễn giải đức tin một cách mới mà không biến ra câu chuyện tầm phào, rút cuộc trở thành vô nghĩa".

Tác giả rất ý thức về tính cách 'mới' của mình trong cách tiếp cận vấn đề. Người đọc tất nhiên tự hỏi thế nào là diễn giải đức tin một cách mới, tại sao đức tin là một cách thế giúp cho con người trở thành người đích thực ? Và thế nào là người đích thực ? Không có đức tin kitô giáo có trở thành người đích thực được không ? Nhưng tự vấn như thế tức là được mời đọc.

Lời mời gọi ấy, mấy chục năm sau xem ra còn cấp bách hơn. Sau hai biến cố 1968 "đánh dấu sự vùng dậy của một thế hệ mới" và 1989 " đánh dấu sự sụp đổ đáng kinh ngạc của các chế độ xã hội chủ nghĩa ở Tây phương", thế giới đã biến chuyển vùn vụt với bao nhiêu kinh nghiệm và những vấn nạn mới, nhưng trong lời tựa cho ấn bản năm 2000, tác giả viết: "xét về hướng đi căn bản thì tôi tin mình đã không lầm". Hơn ba chục năm sau ấn bản đầu tiên, hành trình thần học của Hồng y Ratzinger, về căn bản không khác giáo sư thần học Joseph Ratzinger. Và những ai đã đọc Diễn văn tại Ratisbone, và 3 Thông điệp quan trọng của Biển Đức 16: Deus Caritas est, Spe Salvi, Caritas in veritate, cũng dễ dàng nhận ra căn bản thần học đã chứa đựng trong giáo trình của năm 1967. 

Nội dung chủ yếu của ĐTKTGHQVHN.

Tập sách của Biển Đức 16 nên đọc từ từ. Không dễ hiểu. Nhiều chỗ khó hiểu. Khuôn khổ lý luận chặt chẽ và ngôn ngữ triết học, thần học mang tính chuyên môn giúp người đọc ý thức về niềm tin của mình và luôn thể nhìn ra tầm quan trọng của liên hệ sâu xa giữa trí tuệ và đức tin mà Gioan Phaolô 2 cũng như Biển Đức 16 rất quan tâm[3].

 ĐTKGHQVHN đặt vấn đề tin, đi vào chi tiết của Thiên Chúa luận, Kitô học, Giáo hội học, trên bình diện khoa học, triết học, thần học trải dài 20 thế kỷ với những tranh luận cũ, mới. Nội dung ấy phức tạp, hàm súc. Thay vì một bản tóm tắt chỉ có thể hời hợt, người viết xin đề cập đến điểm mà chính tác giả coi là tâm điểm của đức tin kitô giáo, cũng là trọng tâm của tác phẩm: việc tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô.

Sự hình thành của kinh Tin Kính. Mục đích cuốn sách là "dựa vào kinh Tin Kính các Tông Đồ như kim chỉ nam giúp đi sâu và nội dung cụ thể của đức tin" (tr.93). Cội nguồn kinh Tin Kinh trong Tin Mừng Mathêô "Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần" (Mt 28, 19). Từ đó, xuất phát ba câu hỏi được đặt ra cho người tân tòng thời Giáo hội sơ khai tại Rôma: " Con có tin vào Thiên Chúa là Cha toàn năng không? Con có tin vào Đức Giêsu-Kitô Con Thiên Chúa không? Con có tin vào vào Chúa Thánh Thần.. không?" Từ tuyên xưng đức tin cách cô đọng này đã dần dà hình thành kinh Tin Kính vào khoảng thế kỷ thứ IV. Do vị thế của Giáo hội Rôma và những biến chuyển chính trị, bản kinh này lan truyền mau chóng và trở thành bản chính thức cho Tây phương. Tại Đông phương, vì không có một giáo hội địa phương nào nổi bật như giáo hội Rôma bên Tây phương, nên không có một kinh Tin Kinh thống nhất. Thành ra Đông phương "vẫn giữ được tính đa dạng của kinh Tin Kính và hướng thần học cũng hơi khác so với Symbolum của Rôma. Kinh Tin Kính của Rôma (mà cũng là của chung cho phương Tây) nghiêng nhiều hơn về lịch sử cứu độ với trọng tâm là đức Kitô. Có thể nói nó dừng lại ở thực tại lịch sử của mầu nhiệm Đức Kitô, nghĩa là đơn giản đón sự thể Thiên Chúa đã làm người để cứu độ chúng ta chứ không đi sâu vào mối liên hệ của nó với toàn thể thực tại. Ngược lại, Đông phương hiểu đức tin kitô theo chiều kích vũ trụ và siêu hình nhiều hơn. Điều này có thể thấy rõ qua việc - trong các kinh đó - Kitô học được nối kết với mầu nhiệm Tạo Dựng. Nói khác đi, họ đã nối kết chiều kích đặc thù, duy nhất của lịch sử Đức Kitô với chiều kích thường hằng, bao trùm của Tạo Dựng" (tr. 95). Điều không được bộc lộ rõ ràng trong kinh Tin Kính của Tây phương là mối quan hệ giữa đức tin và toàn thể thực tại hữu hình cũng như vô hình. Tuy nhiên đã hàm chứa trong thực tại lịch sử của mầu nhiệm Đức Kitô, Thiên Chúa làm người. Và đây chính là điều được diễn giài minh bạch trong ĐTKGHQVHN qua việc tuyên xưng Đức Kitô Giêsu.

Tâm điểm của kinh Tin Kính. Khoản 2 của kinh Tin Kính tuyên xưng: "Tôi tin kính Đức Chúa Giêsu Kitô, là con một Đức Chúa Cha, cùng là Chúa chúng tôi".

"Lời tuyên xưng Đức Giêsu, một cá nhân cụ thể, bị hành quyết khoảng năm 30 ở Palestina, là Đấng "Kitô" (Đấng được xức dầu, được tuyển chọn) của Thiên Chúa, thậm chí là Con đích thực của Thiên Chúa, là tâm điểm mang ý nghĩa quyết định đối với tất cả lịch sử nhân loại. Quả là táo bạo và điên rồ khi coi một khuôn mặt hoàn toàn đặc thù, hơn nữa, ngày càng chìm mất trong mây mù quá khứ, như là quy chiếu tối hậu của tất cả lịch sử" (tr. 237-238). Niềm tin ấy "là sự nối kết giữa Logos và sarx[4], giữa Lời và xác phàm, giữa đức tin và lịch sử. Giêsu, con người lịch sử, là Con Thiên Chúa, và Con Thiên Chúa chính là con người Giêsu lịch sử đó. Thiên Chúa xuất hiện vì con người xuyên qua những con người. Hay nói cách cụ thể hơn: Chính qua Con Người đó mà ý nghĩa sâu xa nhất của phận người được tỏ lộ […] Tin như thế thì có khác nào rơi vào một chủ trương "thực chứng" quái gở? Có nên bám vào một biến cố cỏn con trong thời gian như thế hay không? Trên đại dương mênh mông của lịch sử, liệu chúng ta có dám liều đặt tất cả đời mình, thậm chí cả lịch sử lên một chút biến cố, chẳng khác gì cọng rơm hay không?" (tr. 239).

Như vậy, cốt lõi của Kitô giáo không phải tin vào Giêsu, cũng không phải tin vào Kitô, mà là tin vào Giêsu Kitô. Nếu Giêsu chỉ là Giêsu, thì lời rao giảng của Ngài dù có ảnh hưởng to lớn mấy đi nữa, Ngài cũng chỉ là một trong những vĩ nhân của lịch sử, thuộc hàng một Socrate, một Khổng Tử, Lão Tử, Zarathoustra, Thích Ca. Và hôm nay, ta vẫn có thể tâm phục những lời giảng dạy của Ngài qua các bản Phúc Âm, như sứ điệp quý báu của một bậc linh sư vĩ đại, mà chẳng cần phải là kitô hữu, thậm chí chẳng cần tin vào Thiên Chúa. Rất nhiều người ngoài Kitô giáo thán phục những lời rao giảng của Chúa Giêsu. Ý tưởng Giêsu chỉ là Giêsu dễ được chấp nhận, nhưng như thế, hết Kitô giáo. Người kitô hữu tin rằng Giêsu, con người 'cọng rơm', bé bỏng, bị nhục hình thập giá, là Kitô, là Con Thiên Chúa, và là Ngôi Hai Thiên Chúa, tâm điểm mang ý nghĩa quyết định đối với tất cả lịch sử nhân loại. Có cần thêm rằng, vì Giêsu và Kitô là một, nên chỉ có Giêsu là Kitô, cũng như chỉ có Thiên Chúa là Thiên Chúa. Ơn cứu độ, vì thế, chỉ có qua Giêsu Kitô. Tất cả lịch sử nhân loại là… tất cả lịch sử nhân loại. Tức nhân loại xưa kia, hiện nay và mai sau lệ thuộc vào Giêsu Kitô. Đó là điên rồ của đức tin.

Sự điên rồ này lại khởi đi từ Thập giá. Vì chính trên Thập giá mà Giêsu được tuyên xưng là Kitô. "Philatô đã nhượng bộ đòi hỏi lên án của người Do Thái và dùng chính lời kết án của họ để khắc lên tấm bảng treo cao trên thập giá. Bản án được viết bằng các ngôn ngữ chính của thời bấy giờ và trình bày Đức Giêsu như vị Vua (Mêsia) của dân do thái bị tử hình. Nghịch lý thay, chính lời tuyên án, chính bản án lịch sử đó, lại trở thành  "lời tuyên xưng đức tin", trở thành khởi điểm đích thực và căn nguyên sâu xa của niềm tin kitô: Chính trong tư cách là Đấng bị đóng đinh mà Đức Giêsu là Đấng Kitô, là Vua. Bị đóng đinh, đó là cách thức làm Vua của Ngài. Thật vậy, đối với Ngài, làm vua có nghĩa là tự hiến chính mình cho nhân loại, và chính trong hành vi trao hiến mình mà Lời, Sứ vụ và Hiện hữu của Ngài nên một với nhau. Vì thế, hiện hữu của Ngài cũng là lời Ngài. Ngài là Lời, bởi Ngài là tình yêu" (tr.255). Vậy đức tin kitô giáo không phải chỉ tin vào lời rao giảng của Giêsu, hoặc chỉ tin vào Ngài như một Đấng được sai đến. Lời rao giảng của Giêsu là lời của Lời, Ngôi Hai Thiên Chúa; Ngài không chỉ là người được Thiên Chúa sai đi như một vị tiên tri, vì Ngài chính là Thiên Chúa Tình yêu. Lời, Sứ vụ và sự Hiện hữu của Ngài là một. Đức tin kitô giáo tin vào một Con người-Thiên Chúa: Giêsu-Kitô.

Tình yêu, Sự Thật và Đức Tin. Chúa Giêsu Kitô, Đấng tự hiến mình cho nhân loại, không sống cho riêng mình, Ngài "sống trọn vẹn vì Cha và trọn vẹn cho con người. Bản thân Ngài là sự đồng nhất giữa Logos (Chân Lý) và Tình Yêu, và vì thế làm cho Tình Yêu trở thành Logos, trở thành Sự Thật của con người" (tr. 259). Vậy tin vào Đức Giêsu Kitô, tất nhiên phải thực hiện tình yêu rộng mở vô điều kiện và trong sự thật.

Để tóm tắt một lời về "Bản chất của Kitô giáo", Joseph Ratzinger viết: "Nói cách mộc mạc, dù có thể gây hiểu lầm: Kitô hữu đích thực không phải là thành viên của một giáo phái, nhưng là kẻ, xuyên qua cách sống kitô hữu mà trở thành con người đầy chất người. Kitô hữu đích thực không phải là kẻ chỉ biết cắm cúi tuân theo một hệ thông phép tắc cách nô lệ, chỉ biết lo cho riêng mình, nhưng là kẻ đã nên tự do với tấm lòng rộng mở, sẵn sàng sống vì tha nhân. Nguyên lý tình yêu (đức mến) đích thực luôn bao hàm đức tin. Chỉ như thế đức tin mới chân thật, đúng nghĩa. Bởi lẽ, như chúng ta thấy, đức tin nói lên đòi hỏi căn bản của con người là lãnh nhận, nói lên tính bất túc của tất cả những gì con người có thể tạo ra. Nếu không bao hàm đức tin như thế, đức mến sẽ trở thành một hành vi tùy ý, theo sức riêng. Nó sẽ tự nâng mình lên và cho mình có thể đạt tới công chính. Đức tin và đức mến tùy thuộc và đòi hỏi lẫn nhau. Cũng vậy, nguyên lý tình yêu cũng đồng thời bao hàm nguyên lý hy vọng, nguyên lý siêu vượt khoảnh khắc hiện tại cùng với tính đặc thù của nó để hướng đến Toàn Thể. Như thế, dòng suy tư của chúng ta cuối cùng dẫn đến ba điều mà thánh Phaolô coi là trụ cột nền tảng của Kitô giáo: "Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến" (1Cr 13,13).

Một vài phê bình.

Từ cách nhìn cốt lõi của đức tin, tác giả phê bình một số nhà thần học hiện đại. Tác giả phê phán Harnac vào đầu thế kỷ 20, chủ trương trở về với Giêsu lịch sử và ngoảnh mặt với Kitô đức tin (tr. 245-247);  ủng hộ Kart Barth, người không tách rời Giêsu và Kitô (tr. 252-254)… Ở đây xin nhắc tới lời phê bình thánh Anselm liên hệ tới hình ảnh về Chúa Cha và lời bàn về kinh Tin Kính liên hệ tới Chúa Thánh Thần và đời sống Giáo hội.

Thuyết đền bù của Thánh Anselm ở Canterbury.

Anselm (khoảng 1033-1109) " cố gắng chứng minh rằng, công trình của Đức Kitô có những lý do tất yếu của nó (rationibus necessariis), và qua đó chứng tỏ cho thấy công trình đó tất yếu phải xảy ra như thế " (tr. 291). Lý do tất yếu là con người đã xúc phạm đến Thiên Chúa, mà mức độ xúc phạm nặng nhẹ tùy thuộc ở kẻ bị xúc phạm. Ám sát một người ăn mày không nặng bằng ám sát một ông vua. Thiên Chúa là Đấng vô cùng. Lỗi phạm của con người vì thế cũng vô cùng. Muốn đền bù cũng phải vô hạn, điều mà con người hữu hạn không thể làm được. Vì thế, phải chính Thiên Chúa làm người mới đền bù được sự xúc phạm. Với tư cách là người, Ngài thuộc về dòng giống những kẻ xúc phạm. Với tư cách là Thiên Chúa "Ngài có thể thực hiện điều mà không một phàm nhân nào làm được, đó là đền bù tất cả những gì mà tội lỗi gây ra" (tr.293).

Không phải quan điểm này không có mặt tích cực của nó. Thánh Anselm cho thấy Thiên Chúa là Đấng sống cho tất cả chúng ta, tất cả là hồng ân Thiên Chúa, vì thế chúng ta cũng chỉ sống trong chừng mực chúng ta quên mình, biết sống cho tha nhân. Nhưng, lối lý giải logích, mang tính pháp lý lạnh lùng, đưa ra một hình ảnh đáng sợ về Thiên Chúa. Và quan điểm của Anselm đã ảnh hưởng sâu đậm lên tâm thức kitô hữu Tây phương suốt thiên niên kỷ thứ hai: " Đối với rất nhiều kitô hữu, nhất là những người chỉ hiểu biết qua loa về đức tin thì Thập Giá nằm trong một thứ cơ chế pháp lý, nghĩa là, khi một quyền bị xúc phạm thì phải tái lập quyền đó. Vì vậy, khi công lý của Thiên chúa bị xúc phạm cách vô cùng thì chỉ có sự đền bù vô hạn mới tái lập được. Do đó, trước mắt con người, Thập Giá chỉ còn nói lên thái độ của một Thiên Chúa hà khắc". (tr. 360). Hơn nữa, một số văn bản suy niệm về đạo đức cũng "hàm chứa quan niệm về một Thiên Chúa nghiệt ngã, công lý của Ngài không biết đến bao dung, và vì thế đòi hỏi phải sát tế con người, sát tế chính Con của mình. Công lý theo nghĩa như thế tất nhiên khiến người ta phải kinh hãi quay mặt đi, thứ công lý đấy sát khí khiến cho sứ điệp về tình yêu trở thành không thể tin nổi"(tr.361).

Và J. Ratzinger không ngần ngại: "Một quan điểm như thế càng lan truyền bao nhiêu càng sai bấy nhiêu" (tr. 361). Vì đối với tác giả, chúng ta không thể quan niệm một Thiên Chúa thịnh nộ đến nỗi phải sát tế chính Con mình. Không, Thiên Chúa là tình yêu, là trao hiến. Đặc biệt trong Tân ước chúng ta thấy một Thiên Chúa hạ mình làm người và "chính trong sự nhỏ bé tột cùng, contineri a minimo – bị vây phủ, dồn ép bởi điều khốn hèn nhất, mà Ngài trở thành Đấng khơi nguồn "siêu bội", và điều đó minh chứng Ngài là Thiên Chúa. Thập Giá là mạc khải. Không phải mạc khải về điều gì đó nhưng là về Thiên Chúa và về con người. Thập Giá tỏ cho thấy Thiên Chúa là ai và thế nào là người" (tr. 374).

Một điều bất ngờ và khá lạ lùng được tác giả nhắc tới: 400 năm trước Thiên Chúa giáng sinh, Platon đã linh cảm Thập Giá: " Theo Platon, người công chính thực sự trong thế giới này, phải mang thân phận của kẻ bị hiểu lầm và bị bách hại. Ông không ngần ngại viết: " Rồi họ sẽ nói rằng, trong hoàn cảnh đó người công chính sẽ bị đánh đập, tra tấn, bị trói chặt, rằng người đó sẽ bị đốt mù cả đôi mắt, và sau khi chịu đủ thứ cực hình thì sẽ bị đóng đinh…" (tr. 375). Suy tư triết học sâu xa linh cảm rằng con người công chính toàn hảo, nếu xuất hiện, sẽ bị nhục hình thập giá. Chúa Kitô Giêsu, Thiên Chúa làm người, Thiên Chúa làm một với con người trong tận cùng hố thẳm của con người trần trụi, nhưng "chính trong hố thẳm thất bại của con người mà một hố thẳm còn thẳm sâu hơn nữa được tỏ hiện, hố thẳm của Tình yêu Thiên Chúa. Như vậy, Thập Giá quả là tâm điểm của mạc khải, nhưng không theo nghĩa hé lộ cho ta vài điều gì đó mà cho đến nay ta chưa được biết, nhưng là mạc khải về chính con người chúng ta, vạch trần con người thật của chúng ta trước Thiên Chúa và vạch rõ hiện diện của Thiên Chúa giữa lòng cuộc sống chúng ta" (tr. 377).

 

Chúa Thánh Thần và Giáo hội.

Sự hình thành của kinh Tin Kính không phải không có vấn đề. Ba câu hỏi trong phép rửa, nguồn gốc của kinh Tin Kính tuyên xưng Thiên Chúa Ba Ngôi, Cha, Con và Thánh Thần. Nhưng Thánh Thần, trong bản văn của kinh, kể như phụ thuộc vào phần chính,  phần về Chúa Con từ lúc thụ thai cho đến khi Ngài lại đến. "Thánh Thần ở đây không được hiểu là một Ngôi Vị Thiên Chúa cho bằng quyền năng của Thiên chúa trong lịch sử mà sự phục sinh của Đức Kitô đã khai mào" (tr. 427). Từ đó, Giáo hội không được nhìn từ chiều kích thần khí cho bằng từ chiều kích nhập thể, có khi "theo nghĩa hết sức trần thế, và cuối cùng thì hoàn toàn có thể giải thích bằng những phạm trù của quyền lực theo quan niệm thế gian" (tr. 428). Giáo lý về Thánh Thần không còn chỗ đứng và vì thế, giáo lý về Thiên Chúa Ba Ngôi cũng trở thành suy lý, trừu tượng.

Từ sự kiện trên, tác giả chỉ ra một nhiệm vụ thiết thực: Thần học về Giáo hội cần tìm lại khởi điểm của nó trong thần học về Chúa Thánh Thần và những ân sủng của Ngài. Vì Chúa Kitô hiện diện trong Giáo hội, nhưng Người hiện diện trong Chúa Thánh Thần, "một hiện diện hết sức rộng mở và rất mực tự do, hiện diện đó chẳng những không loại trừ hình thái thể chế mà còn giúp cho hình thái đó biết đâu là giới hạn của mình cũng như không để cho nó bị đồng hóa với các thể chế thế gian" (tr.429).

 

Câu chuyện dịch thuật.

Độc giả Việt Nam có thêm một lý do khác để đón đọc tác phẩm thần học này. Số là, dịch ra tiếng Việt một tác phẩm như thế khá vất vả. Có những từ ngữ và khái niệm không có trong tiếng Việt; dịch lúc đó thành diễn dịch và dễ bị hiểu lầm. Thêm vào đó, kiểu lý luận chặt chẽ và khúc chiết nhiều khi rất trừu tượng khó chuyển thành tiếng Việt vốn ít trừu tượng. Nhưng cũng chính vì thế mà chúng ta biết ơn các dịch giả ra sức làm công việc khai phá để góp phần làm giàu cho ngôn ngữ và suy tư triết thần của người Việt.

Sau đây, tạm trưng ra một ví dụ minh họa cho sự khó khăn trong vấn đề dịch thuật, đồng thời cho thấy lối lý luận hàm súc của tác phẩm.

Trích một đoạn ngắn ở trang 179. Đoạn này nằm trong Chương Bốn, bàn về Con Người Thời Đại và việc tuyên xưng Niềm tin vào Thiên Chúa. Để hiểu rõ đoạn trích, cần nói là trước đó tác giả đã bàn về niềm tin. Con người ta ai cũng tin, kể cả người khẳng định rằng mình không tin. Vì ai cũng sống/chết và dù muốn dù không cũng phải tự đặt những câu hỏi, đại loại tôi từ đâu mà đến, đến để đi đâu…? Hoặc đời có nghĩa hay không có nghĩa…? Có chăng một Thượng Đế ? Một Thiên Chúa ? Với nhiều cách trả lời. Chẳng hạn hữu thần, vô thần, đa thần. Người hữu thần tin rằng có Thiên Chúa. Người vô thần tin rằng không có Thiên Chúa. Mà người hữu thần nhiều khi cũng bị vô thần ám ảnh. Người vô thần đôi lúc cũng nghi ngờ về xác tín của mình. Thế mới nói là tin. Chứ nếu biết như 2+2=4 thì chẳng còn vấn đề. Vì vậy, tin là một chọn lựa với những hệ quả quyết định:

"Niềm tin kitô giáo vào Thiên Chúa trước hết nhìn nhận vị trí hàng đầu của Logos (logos) trên vật chất đơn thuần. Lời tuyên xưng "Tôi tin có Thiên Chúa" đã hàm chứa một lựa chọn căn bản, theo đó Logos, tức là Tư Tưởng, là Tự Do, là Tình Yêu, có ngay từ khởi thủy chứ không phải chỉ ở cùng tận; Logos là sức mạnh sáng tạo và bao trùm mọi hữu thể. Nói khác đi, tin có nghĩa là nhìn nhận rằng, Tư Tưởng và Ý Nghĩa (tư tưởng và ý nghĩa) không phải chỉ là phó phẩm tình cờ của hữu thể, ngược lại mọi hữu thể đều là sản phẩm của tư tưởng (Tư Tưởng), thậm chí cấu tạo sâu xa nhất của hữu thể là tư tưởng.

Như thế, theo một nghĩa đặc biệt, tin là chọn đứng về phía sự thật, bởi lẽ đối với niềm tin, chính hữu thể là thật, là khả tri và có ý nghĩa. Tất cả những điều đó không phải là sản phẩm phụ của hữu thể, bởi lẽ chính hữu thể, dù xuất hiện ở đâu, thì cũng phải có một ý nghĩa và một mối liên hệ thực sự với toàn bộ thực tại.

Khi tin nhận cấu trúc khả niệm của hữu thể, nghĩa là nhìn nhận ý nghĩa và tư tưởng như là căn nguyên của hữu thể thì sự nhìn nhận đó cũng đã bao hàm niềm tin tạo dựng. Bởi lẽ nói cho cùng, đó cũng là niềm xác tín rằng, "Tinh Thần (tinh thần) khách thể" (objektiver Geist) mà chúng ta khám phá nơi mọi sự vật cũng như nhờ đó mà chúng ta ngày càng hiểu rõ hơn về sự vật, "Tinh Thần (tinh thần) khách thể" đó là dấu ấn và là biểu lộ của "Tinh Thần chủ thể" (subjektiver Geist), và cấu trúc khả niệm của hữu thể là biểu lộ của Tư Tưởng sáng tạo, của "Sáng kiến về " (Vor – denken) hữu thể, trong khi tư tưởng của chúng ta chỉ là sự "suy tư về" (Nach – denken) hữu thể nhờ cấu trúc khả niệm đó."

Thiết tưởng dịch giả đã dịch sát nghĩa, nhưng nội dung đã khó hiểu lại thành khó hiểu hơn vì ba lý do. 1) Việc dùng chữ hoa và chữ con, rất quan trọng, chưa được minh bạch. Ví dụ: Tư Tưởng, Tinh Thần chữ hoa, chỉ Thiên Chúa. Khi dùng chữ con, nói vể tư tưởng và tinh thần nơi con người hay sự vật. 2) Ta không có những từ logos, être, sein là những từ rất quan trọng. Những từ này lại bao hàm những ý niệm nền tảng của tư tưởng tây phương. Từ être, tùy theo văn cảnh có thể có nghĩa là : là, có, hiện hữu, hữu thể, bản thể, sự vật, một vật, một người… , từ logos trong tiếng hy lạp có nghĩa là lời, lý trí, trong Tân ước còn có nghĩa là Lời chữ hoa, tức Ngôi Hai Thiên Chúa. Câu đầu của Tin Mừng Gioan : Khởi đầu đã có Ngôi Lời nhắc tới sách Sáng Thế và Lời Thiên Chúa Tạo Dựng. Khẳng định "vị trí hàng đầu của logos chữ con) trên vật chất đơn thuần" là khẳng định thế thượng phong của lý trí, của trí tuệ, chống lại duy vật. 3) Phương Tây có những lối suy tư hay diễn giải tương đối quen thuộc với độc giả tây phương nhưng xa lạ đối với ta. Nếu nói: Thiên Chúa đã tạo dựng nên trời đất muôn vật thì ai cũng hiểu. Vậy trời đất muôn vật, tức tất cả mọi hữu thể là do Chúa dựng nên. Chúa là Tư Tưởng, là Ý nghĩa chữ hoa, vậy trời đất muôn vật do Chúa dựng nên đều mang dấu ấn của Chúa. Nói cách khác, trong mọi sự vật đều có tư tưởng, ý nghĩa. Vì thế, tư tưởng và ý nghĩa (chữ con chứ không phải chữ hoa như trong bản dịch) không phải tình cờ mà có, hay do con người tưởng tượng ra[5], mà là sản phẩm của Tư Tưởng (chữ hoa chứ không phải chữ con), tức của Chúa, của Logos Tạo Dựng. Nói cách cụ thể hơn, ngày nay nhờ khoa học, con người đã hiểu biết rất nhiều về vũ trụ, về con người. Vì giữa ta và vụ trụ có một cấu trúc chung. Ta và vũ trụ đều là "tinh thần khách thể". Vì ta và vũ trụ có đấy (tức khách thể) như Tinh Thần (tức Thiên Chúa) đã thành tạo vật. Tương tự như ngôi nhà, một khách thể, là ý tưởng trong đầu óc kiến trúc sư thành sự vật. Có điều từ ý tưởng của kiến trúc sư đến ngôi nhà là cả một tiến trình lao động.. Còn Chúa, Chúa phán thì mọi sự trở thành. Vũ trụ này là một khách thể, tức một ý tưởng được suy tưởng bởi Đấng là Logos, Tình Yêu và Tư Tưởng sáng tạo.

Đứng từ quan điểm của đức tin Kitô giáo, lý trí (logos) con người hiểu được là vì cấu trúc tạo thành của trời đất muôn vật đến từ Logos. Trong viễn tượng này, khoa học biết nhưng không biết tại sao mình biết. Đức tin cho phép hiểu. Dĩ nhiên, đức tin là một bước nhảy vượt qua vực thẳm, nhưng có đón nhận đức tin, lý trí mới đạt được hết kích thước của mình và mở ra thực tại vượt tầm lý trí. Trong một ý nghĩa thẳm sâu, hiểu là đón nhận từ một Đấng luôn luôn cho đi và nhận ra Đấng ấy nơi tạo vật.

Thay lời kết: học thuyết mácxít.

Lời tựa cho ấn bản năm 2000 khá dài (23 trang) nhắc tới "hai niên biểu đã tạo nên khúc quanh đặc biệt trong những thập niên cuối của thiên niên kỷ thứ hai: 1968 và 1989" (tr. 9). Năm 1968, một thế hệ mới vùng dậy. Người viết những dòng này có phần nào sống những biến cố năm 1968 tại Ba lê. Điều hiển nhiên nhất là tự do lúc đó như tràn vào lịch sử và theo thiển ý, đánh dấu một khúc ngoặt vẫn còn kéo dài cho tới ngày nay. Tổng Thống Pháp lúc đó, Tướng De Gaulle nói: la CGT oui, le Chienlit non! Ý ông nói: công đoàn CGT, cánh tay của Đảng Cộng sản Pháp (lúc đó còn mạnh) ông chấp nhận, nhưng tự do rối loạn như đám sinh viên, ông không cho, nhưng tự do đã tràn lan ra khắp nước đến nỗi De Gaulle phải chạy trốn mấy tuần. Còn JP Sartre, người từng nói đồ chống cộng là đồ chó, thì tuyên bố trước Đại học Sorbonne : "La dictature du prolétariat n’est que la dictature sur le prolétariat"/ "Chuyên chính vô sản chỉ là chuyên chính trên lớp người vô sản"[6]. Tóm lại, người ta chống độc tài cộng sản. Nhưng theo Hồng y Ratzinger : " Thế hệ mới muốn bắt tay xây dựng lại một thế giới tự do, bình đẳng và công bằng hơn, và đồng thời nghĩ rằng mình đã tìm thấy con đường để thực hiện điều đó: con đường của tư tưởng mácxít" (tr.9). Năm 1989, chế độ xã hội chủ nghĩa sụp đổ bên Tây phương, nhưng : "Trên căn bản, học thuyết cứu độ mácxít, được ứng dụng dĩ nhiên dưới nhiều hình thái khác nhau, đã được coi như học thuyết duy nhất có khả năng vạch đường cho tương lai, bởi lẽ thế giới quan của nó vừa mang động lực đạo đức, vừa phù hợp với tính khoa học. Do đó, dù bị cú sốc năm 1989, nó vẫn không dễ bị đẩy ra dìa lịch sử" (tr.10).

Trích dẫn trên có lẽ khiến nhiều người bỡ ngỡ. Nhất là được viết năm 2000. Dĩ nhiên, HY Ratzinger quá biết sự tàn phá khủng khiếp của chế độ cộng sản. Nhưng học thuyết mácxít có hai phần, phần hoạt động và phần lý luận. Cụ thể hơn, có hai ông Mác, ông Mác triết gia và ông Mác cách mạng. Mác cách mạng chủ trương dùng bạo lực nhằm tiêu diệt kẻ thù giai cấp. Mác này không biết hoài nghi là gì. Nhưng còn ông Mác triết gia nữa. Đã là triết gia, tất có hoài nghi, có khoảng cách. Khoảng cách với chính mình và những suy tư lý luận của mình. Trước hết, J. Ratzinger chỉ ra cái phần có vẻ tốt đẹp này của học thuyết Mácxít. Vì thế ngài mới viết Học thuyết cứu độ Mácxít, công nhận rằng thế giới quan của nó vừa mang động lực đạo đức, vừa phù hợp với tính khoa học. Đến nỗi, theo ngài, đối với nhiều người "Vai trò của ông chẳng khác gì vai trò của Aristote vào thế kỷ 13, khi mà triết lý "tiền kitô" (nghĩa là triết lý "ngoại giáo") cần phải được rửa tội hầu thiết lập mối quan hệ đúng đắn giữa đức tin và lý trí" (tr.13).

Nhưng sau đó, ngài chỉ ra mối họa không tránh nổi trên bình diện thực tiễn và nhất là trên bình diện lý thuyết. Khi đã cho một ngón tay vào bánh xe răng cưa, nó sẽ lôi cả người mình. "Ai đón nhận Mác (dù dưới hình thái tân mác xít nào đi nữa) như là đại diện cho "lý trí thời đại", thì kẻ đó không đơn giản đón nhận một triết lý hay một viễn kiến về cội nguồn và ý nghĩa cuộc sống, nhưng chủ yếu đón nhận một phương thức hành động. Quả vậy, căn bản của "triết lý" này là "hành động", và hành động tạo ra sự thật chứ không đặt nền trên sự thật có trước" (tr. 13).

Học thuyết Macxít cũng nhằm thiết lập công lý và cứu vớt con người khỏi bóc lột, đàn áp. Như vậy, động lực của nó đạo đức. Nó lại mang tính khoa học, nghĩa là đi từ phân tách thực tại (nơi Mác là thực tại chính trị và kinh tế) để tìm ra những quy luật điều hành thực và dựa vào những quy luật đó để làm thay đổi thực tại. (Chẳng hạn Mác đã phân tách sâu sắc chế độ tư sản và chỉ ra vai trò cách mạng như chưa từng có của nó). Điểm cần lưu ý nhất là "hành động tạo ra sự thật chứ không đặt nền trên sự thật". (Và đây cũng là điểm cốt yếu của cái mà Biển Đức 16 gọi là Thời Mới (Modernité), cái thời bắt đầu từ thời Phục Hưng, khi mà khoa học hứa hẹn giải thoát con người bằng cách làm chủ thiên nhiên. Vườn địa đàng đã mất, sẽ được thiết lập bởi khoa học kỹ thuật. Tiến bộ khoa học sẽ đem lại cho con người Chân với Thiện).

Học thuyết mácxít, hiểu như thế là một học thuyết cứu độ. Một thứ Kitô giáo lộn ngược. Tâm điểm mang ý nghĩa quyết định đối với tất cả lịch sử nhân loại không phải Giêsu Kitô, Thiên Chúa làm người, mà là chính con người dùng bàn tay và khối óc của mình để tự cứu mình.

Thuyết Mácxít đáng được coi là lạc giáo (hérésie) cuối cùng của Kitô giáo. Phải chăng vì thế mà có nhiều kitô hữu bị Mác quyến rũ?

 

Đỗ Mạnh Tri 15.9.2010

 

[1] Bản dịch tiếng Việt của Lm Nguyễn Quốc Lâm và Phạm Hồng Lam, Phong Trào Giáo Dân Việt Nam Hải Ngoại xuất bản tháng 10.2009. Sách dày 464 trang, khổ 21/15, bìa cứng. Ấn phí 20€.

[2] Trong bài này, mỗi khi những trích dẫn của tập sách được ấn mạnh là do chúng tôi.

[3] Gioan Phaolô 2 đã gửi hẳn một thông điệp tựa đề Lý trí và Đức Tin.

[4] Sarx/xác phàm. Người do thái không phân biệt hồn và xác. Họ không có từ nào để chỉ xác thịt. Và từ basar chỉ toàn thể con người, được dịch thành sarx trong tiếng hy lạp. Khi phải chỉ xác, tiếng hy lạp dùng từ soma. Sau này sarx được dịch là caro, nghĩa là xác, xác thịt trong tiếng latinh, thành lạc nghĩa. Tin Mừng Gioan dùng từ sarx để nói lên mầu nhiệm Thiên Chúa nhập thể, Ngôi hai làm người. Trong các Thư của Thánh Phaolô, sarx thường có nghĩa xấu. (chiếu theo Wikipèdia). 

[5] Thuyết Tiến hóa của Darwin dễ gây ngộ nhận. Vin vào thuyết này, nhiều người cho rằng tri thức đến sau vật chất, là sản phẩm của tiến hóa, một sản phẩm ngẫu nhiên. Nhưng nếu ta phân biệt Cách nào và Tại sao (Comment, Pourquoi), vấn đề sẽ sáng tỏ. Một em bé bị xe cáng, chết. Cách chết: bị xe cáng. Nhưng bà mẹ vẫn than khóc Tại sao? Chúa dựng nên người bằng đất bùn hay từ loài khỉ là Cách nào chứ không phải Tại sao. Có tiến hóa, nhưng tại sao có tiến hóa? Tại sao có vũ trụ, có Big Bang ? Tại sao có thay vì không có gì? Và tại sao ta hỏi tại sao?

[6] Sartre lặp lại câu nói thời danh của Bakounine, người đồng thời và đối thủ của Mác.

Tác giả:  Đỗ Mạnh Tri

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!