Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng

BBT CGVN YouTube
Thánh Kinh Công Giáo
Cầu nguyện bằng email
Hội Đồng Giám Mục VN
Liên Lạc

Văn Kiện Vatican 2

Lectio divina

Suy Niệm & Cầu Nguyện

Học Hỏi Kinh Thánh

Lớp KT Sr Cảnh Tuyết

Nova Vulgata

Sách Bài Đọc UBPT

LỜI CHÚA LÀ ÁNH SÁNG

GH. Đồng Trách Nhiệm

TAN TRONG ĐẠI DƯƠNG

Video Giảng Lời Chúa

Giáo Huấn Xã Hội CG

Tuần Tin HĐGMVN

Vụn Vặt Suy Tư

Giáo Sĩ Việt Nam

ThăngTiến GiáoDân

Bản Tin Công Giáo VN.

Chứng Nhân Chúa Kitô

Thánh Vịnh Đáp Ca

Phúc Âm Nhật Ký

Tin Vui Thời Điểm

Tin Tức & Sự Kiện

Văn Hóa Xã Hội

Thi Ca Công Giáo

Tâm Lý Giáo Dục

Mục Vụ Gia Đình

Tư Liệu Giáo Hội

Câu Chuyện Thầy Lang

Slideshow-Audio-Video

Chuyện Phiếm Gã Siêu

Các Tác Giả
  Augustinô Đan Quang Tâm
  Đinh Văn Tiến Hùng
  Ban Biên Tập CGVN
  Bác sĩ Ng Tiến Cảnh, MD.
  Bác Sĩ Nguyễn Ý-Đức, MD.
  Bùi Nghiệp, Saigon
  Bosco Thiện-Bản
  Br. Giuse Trần Ngọc Huấn
  Cursillista Inhaxiô Đặng Phúc Minh
  Dã Quỳ
  Dã Tràng Cát
  Elisabeth Nguyễn
  Emmanuel Đinh Quang Bàn
  Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB.
  EYMARD An Mai Đỗ O.Cist.
  Fr. Francis Quảng Trần C.Ss.R
  Fr. Huynhquảng
  Francis Assisi Lê Đình Bảng
  Gia Đình Lectio Divina
  Gioan Lê Quang Vinh
  Giuse Maria Định
  Gm Phêrô Huỳnh Văn Hai
  Gm. Giuse Đinh Đức Đạo
  Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
  Gm. JB. Bùi Tuần
  Gm. Nguyễn Thái Hợp, op
  Gm. Phêrô Nguyễn Khảm
  Gs. Đỗ Hữu Nghiêm
  Gs. Ben. Đỗ Quang Vinh
  Gs. Lê Xuân Hy, Ph.D.
  Gs. Nguyễn Đăng Trúc
  Gs. Nguyễn Văn Thành
  Gs. Phan Văn Phước
  Gs. Trần Duy Nhiên
  Gs. Trần Văn Cảnh
  Gs. Trần Văn Toàn
  Hạt Bụi Tro
  Hồng Hương
  Hiền Lâm
  Hoàng Thị Đáo Tiệp
  Huệ Minh
  HY. Nguyễn Văn Thuận
  HY. Phạm Minh Mẫn
  JB. Lê Đình Nam
  JB. Nguyễn Hữu Vinh
  JB. Nguyễn Quốc Tuấn
  Jerome Nguyễn Văn Nội
  Jorathe Nắng Tím
  Jos. Hoàng Mạnh Hùng
  Jos. Lê Công Thượng
  Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
  Joseph Vũ
  Khang Nguyễn
  Lê Thiên
  Lm Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, HKK
  Lm Đaminh Hương Quất
  Lm. Anmai, C.Ss.R.
  Lm. Anphong Ng Công Minh, OFM.
  Lm. Anrê Đỗ Xuân Quế op.
  Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
  Lm. Đan Vinh, HHTM
  Lm. Đỗ Vân Lực, op.
  Lm. G.Trần Đức Anh OP.
  Lm. GB. Trương Thành Công
  Lm. Giacôbê Tạ Chúc
  Lm. Gioan Hà Trần
  Lm. Giuse Hoàng Kim Đại
  Lm. Giuse Lê Công Đức
  Lm. Giuse Ngô Mạnh Điệp
  Lm. Giuse Trần Đình Thụy
  Lm. Giuse Vũ Thái Hòa
  Lm. Inhaxio Trần Ngà
  Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
  Lm. JB Trần Hữu Hạnh fsf.
  Lm. JB. Bùi Ngọc Điệp
  Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh
  Lm. Jos Đồng Đăng
  Lm. Jos Cao Phương Kỷ
  Lm. Jos Hoàng Kim Toan
  Lm. Jos Lê Minh Thông, OP
  Lm. Jos Nguyễn Văn Nghĩa
  Lm. Jos Phan Quang Trí, O.Carm.
  Lm. Jos Phạm Ngọc Ngôn
  Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
  Lm. Jos Trần Đình Long sss
  Lm. Jos.Tuấn Việt,O.Carm
  Lm. Lê Quang Uy, DCCT
  Lm. Lê Văn Quảng Psy.D.
  Lm. Linh Tiến Khải
  Lm. Martin Ng Thanh Tuyền, OP.
  Lm. Minh Anh, TGP. Huế
  Lm. Montfort Phạm Quốc Huyên O. Cist.
  Lm. Ng Công Đoan, SJ
  Lm. Ng Ngọc Thế, SJ.
  Lm. Ngô Tôn Huấn, Doctor of Ministry
  Lm. Nguyễn Hữu An
  Lm. Nguyễn Thành Long
  Lm. Nguyễn Văn Hinh (D.Min)
  Lm. Pascal Ng Ngọc Tỉnh
  Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn
  Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
  Lm. Phạm Văn Tuấn
  Lm. Phạm Vinh Sơn
  Lm. PX. Ng Hùng Oánh
  Lm. Raph. Amore Nguyễn
  Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ
  Lm. Tôma Nguyễn V Hiệp
  Lm. Trần Đức Phương
  Lm. Trần Mạnh Hùng, STD
  Lm. Trần Minh Huy, pss
  Lm. Trần Việt Hùng
  Lm. Trần Xuân Sang, SVD
  Lm. TTT. Võ Tá Khánh
  Lm. Vũ Khởi Phụng
  Lm. Vĩnh Sang, DCCT
  Lm. Vinh Sơn, scj
  Luật sư Đoàn Thanh Liêm
  Luật sư Ng Công Bình
  Mẩu Bút Chì
  Mặc Trầm Cung
  Micae Bùi Thành Châu
  Minh Tâm
  Nữ tu Maria Hồng Hà CMR
  Nguyễn Thụ Nhân
  Nguyễn Văn Nghệ
  Người Giồng Trôm
  Nhà Văn Hương Vĩnh
  Nhà văn Quyên Di
  Nhà Văn Trần Đình Ngọc
  Nhạc Sĩ Alpha Linh
  Nhạc Sĩ Phạm Trung
  Nhạc Sĩ Văn Duy Tùng
  Phaolô Phạm Xuân Khôi
  Phêrô Phạm Văn Trung
  Phó tế Giuse Ng Xuân Văn
  Phó tế JB. Nguyễn Định
  Phùng Văn Phụng
  Phạm Hương Sơn
  Phạm Minh-Tâm
  PM. Cao Huy Hoàng
  Sandy Vũ
  Sr. Agnès Cảnh Tuyết, OP
  Sr. M.G. Võ Thị Sương
  Sr. Minh Thùy, OP.
  Têrêsa Ngọc Nga
  Tín Thác
  TGM. Jos Ngô Quang Kiệt
  TGM. Phaolô Bùi Văn Đọc
  Thanh Tâm
  thanhlinh.net
  Thi sĩ Vincent Mai Văn Phấn
  Thiên Phong
  Thy Khánh
  Thơ Hoàng Quang
  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập
  Tiến Sĩ Tâm Lý Trần Mỹ Duyệt
  Tiến Sĩ Trần Xuân Thời
  Trầm Tĩnh Nguyện
  Trầm Thiên Thu
  Trần Hiếu, San Jose
  Vũ Hưu Dưỡng
  Vũ Sinh Hiên
  Xuân Ly Băng
  Xuân Thái
Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
  Văn Hóa Xã Hội
NHỮNG TƯ TƯỞNG CÔNG GIÁO ĐỊNH HƯỚNG XÂY DỰNG QUỐC GIA

 NGUYỄN HỌC TẬP 

I – Mẫu tự văn phạm.

Không có một đồ án, một dự thảo xây dựng quốc gia nào có thể được khai triển, càng không có thể được đem ra thực hiện hoặc biến thành chương trình chính trị, nếu đồ án hay dự thảo đó không được đặt trên một nền tảng văn hoá chính trị chung.

Mọi ý kiến chính trị không thể được đồng thuận biến thành văn hóa chính trị chung, nếu bên dưới không có một nền luân lý chung, nếu đa số người dân trong Quốc Gia không đồng thuận  nhau về một vài nền tảng và giá trị luân lý căn bản.

Và sau cùng, nền luân lý sẽ không có cơ đứng vững, nếu không được nâng đỡ bằng niềm tin tôn giáo

Triết gia và chính trị gia người Ý, ông Benedetto Croce đã nhìn thấy rõ mối liên hệ

   - giữa chương trình chính trị và "niềm tin luân lý ",

   - giữa sơ đồ xây dựng quốc gia và văn hóa chính trị,

   - giữa "niềm tin luân lý " và tôn giáo,

khi ông viết: 

     * " Mối liên hệ giữa các chương trình chính trị và " niềm tin luân lý " là " niềm tin luân lý " có trước các chương trình chính trị và sinh ra chương trình chính trị.

Một khi thiếu " niềm tin luân lý ", dù chương trình chính trị có huy hoàng bao nhiêu cũng vô ích: một toà nhà không có nền móng vững chắc không ai có thể củng cố bằng các vẻ đẹp kiến trúc và trang hoàng được. Do đó cần xác nhận xem những ai đang nỗ lực tác tạo ra chương trình, có phải là những người do ảo tưởng thúc đẩy nhằm đạt được từ bên ngoài những trợ lực mà họ trống rỗng bên trong chăng. Và nếu quả thật như vậy, trước hết cần giúp họ thoát khỏi ảo tưởng đó và thúc đẩy họ kiện toàn, nơi chính họ cũng như người khác, " niềm tin luân lý".

Trước hết " niềm tin luân lý ", rồi mớí đến chương trình chính trị; trước hết tâm hồn phải sẵn sàng, kế đến cánh tay mới tung vẫy đầy nghị lực" ( Benedetto Croce, Cultura e vita morale, cap.XXII: Fede e Programmi, Laterza, Bari 1955, 161.166).    

Và rồi B. Croce tiếp nối cho rằng: " niềm tin luân lý " chỉ có thể đứng vững nếu " được  tôn giáo nâng đỡ ". 

Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII cũng kết thúc thông điệp Mater et Magistra của Ngài với một tư tưởng tương tự:

   - " Giá trị luân lý chỉ có thể đứng vững trong niềm tin nơi Thiên  Chúa: tách rời khỏi Thiên Chúa, luân lý sẽ bị phân tán.

Bởi vì con người không phải chỉ là một cơ thể vật chất, con người còn là một hữu thể linh thiêng, được ban cho có tư tưởng và tự do. Do đó con người cần có một bậc thang giá trị luân lý - tôn giáo.

Hơn bất cứ giá trị vật chất nào, bậc thang giá trị luân lý và tôn giáo ảnh hưởng đến các chiều hướng và phương thức giải quyết những vấn đề của cuộc sống cá nhân và cộng đồng, bên trong cộng đồng quốc gia cũng như đối với các liên hệ giữa các quốc gia với nhau" ( ĐGH Gioan XXIII, Thông điệp Mẹ và Thầy, Mater et Magistra, 208).  

Văn hoá chính trị, những bậc thang giá trị cần được tôn trọng hay " niềm tin luân lý " và " lòng tin tôn giáo " được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II  nêu lên trong bài diễn văn trước Hội Đồng Liên Hiệp Quốc như là những "mẫu tự văn phạm" không thể thiếu trong cuộc sống có tổ chức của con người:

   - " Chúng ta không đang sống trong một thế giới không lý trí hay vô nghĩa. Trái lại, trong thế giới của chúng ta hiện diện một ý thức luân lý đúng lý, soi sáng cho sự hiện hữu của con người, làm cho người có thể đối thoại với người, quốc gia với quốc gia...Nếu chúng ta muốn thế kỷ của áp chế nhường chỗ cho thế kỷ của thuyết phục, chúng ta phải tìm ra con đường để bàn luận, với những ngôn từ có thể hiểu được và đồng thuận phổ quát. Luật luân lý phổ quát được viết  trong trái tim của mỗi con người  là một loại mẫu tự văn phạm cần thiết  cho thế giới con người để bàn luận với nhau về chính tương lai của họ  " ( Gioan Phaolô II, Discorso all'ONU, 05.10.1995, n. 3, in Osservatore Romano , 06.10.1995).  

Loại mẫu tự văn phạm cần thiết để con người bàn luận với nhau về chính tương lai của họ được Đức Gioan Phaolô II vừa đề cập, chúng ta sẽ cố gắng cùng nhau tìm hiểu qua các giáo huấn xã hội của Giáo Hội Công Giáo. 

II - Những nguyên tắc định hướng.   

   1 - Nguyên tắc nhân vị.

Nguyên tắc đầu tiên trên đó nền luân lý và văn hóa chính trị đặt nền tảng, để cùng nhau xây dựng một xã hội mới, chắc chắn phải là địa vị tối thượng của con người.

Con người có giá trị vì con người là con người, chớ không phải con người là sở hữu chủ của tài sản gì hay làm được gì. Đó là mẫu tự văn phạm luân lý đầu tiên.

Nhìn nhận nguyên tắc tiên khởi nầy, tức là nhìn nhận thuyết lý cũng như thực tế, con người với điạ vị thượng đẳng của mình là

   - " chủ thể, trung tâm điểm và là cùng đích của mọi cuộc sống kinh tế và xã hội " (Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay, Gaudium et Spes, 63).  

Sau nhiều thế kỷ tương phản cùng với nhiều lối suy tư lệch lạc, chúng ta có thể tin rằng, ngoại trừ một vài nhóm người cố chấp vì quyền lực và lợi lộc, tâm thức của hầu hết nhân loại đều đồng thuận:

   - " Các tín hữu tôn giáo cũng như người không tôn giáo gần như đều đồng thuận với nhau rằng mọi sự vật hiện hữu trên mặt đất nầy đều quy hướng về con người như là trung tâm điểm và tột đỉnh của chúng" ( Gaudium et Spes, 12). 

Đều xác tín vừa kể của những ai có lương tâm ngay chính đã được sự mặc khải Thiên Chúa Giáo xác định :

   - " Con người được Thiên Chúa dựng nên giống hình ảnh Ngài, có khả năng nhận biết và yêu mến Đấng Tạo Hoá đã tạo dựng ra mình và được chính Ngài dựng nên trổi vượt hơn mọi tạo vật trần thế như là chủ nhân của chúng, để cai trị chúng và xử dụng chúng làm vinh danh Thiên Chúa " ( id.). 

Đức Gioan XXIII trong thông điệp Pacem in Terris đã diển tả một cách rõ rệt hơn nguyên tắc địa vị tối thượng của con người vừa được đề cập:

   - " Trong cuộc chung sống trật tự và sung mãn cần phải đặt làm nền tảng nguyên tắc mỗi con người là một nhân vị, nghĩa là được ban cho trí khôn ngoan và ý chí tự do; và như vậy là chủ thể của các quyền và nhiệm vụ phát xuất lập tức và đồng lúc với chính bản tính của mình. Bởi các quyền và nhiệm vụ đó có tính cách phổ quát, bất khả xâm phạm và bất khả nhượng"  (ĐGH Gioan XXIII, Thông điệp Hòa Bình trên thế giới, Pacem in Terris, số 9 ).  

Con người là chủ thể các quyền và nhiệm vụ đi kèm với bản tính của mình. Điều đó có nghĩa là quyền và nhiệm vụ của con người không do quốc gia ban phát hay xác định mới có.

Nói cách khác, con người với điạ vị tối thượng , quyền và nhiệm vụ của mình có trước tổ chức quốc gia.

Ở trung tâm điểm tổ chức quốc gia có con người với quyền và nhiệm vụ của mình, khởi đầu là quyền được sống, là nền tảng của tất cả các quyền căn bản khác: tự do tư tưởng, tự do lương tâm, tự do giáo dục và hội họp, cùng mọi quyền chính trị và dân sự khác.

Từ nguyên tắc địa vị tối thượng của con người vừa kể, chúng ta có thể rút ra được hai hệ luận:

   a -Tổ chức quốc gia cũng như các tổ chức xã hội dân sự trung gian được thiết lập để mưu cầu ích lợi chung, phải đặt lợi ích chung đó tùy thuộc vào việc nhằm  phát huy triển nở toàn vẹn con người.

Tổ chức quốc gia và tổ chức xã hội có thể sắp xếp điều hợp các hoạt động của người dân để đạt đến mục đích chung, nhưng không bao giờ được hy sinh con người, hy sinh đời sống con người cho mục đích của tổ chức, bởi vì quyền được sống là quyền căn bản đối với tất cả các quyền khác.

   b - Chính con người cũng không có quyền xử dụng mạng sống của mình cách nào tùy hỷ theo ý mình muốn, mà không vi phạm lằn mức không thể vượt qua của luân lý, vi phạm đến địa vị cao cả trổi thượng của mình. Bởi lẽ chính đời sống của con người và điạ vị cao cả của mình không do con người tạo nên. Con người nhận lãnh từ tay Thiên Chúa. 

   2 - Nguyên tắc liên đới.

Địa vị tối thượng của con người không có gì làm cho con người đối nghịch với xã hội. Trái lại, chính nơi bản tính cá nhân của con người là nền tảng xã hội tính của con người.

Xã hội và tổ chức quốc gia có sau con người, được thiết lập vì con người, để phục vụ con người. Xã hội phát xuất từ con người là kết quả của con người.

Đó là những mẫu tự văn phạm luân lý thứ hai trong tiến trình kiến trúc quốc gia.

Con người hiện hữu và phát triển thành đạt chính mình luôn trong tổ chức xã hội. Con người  là một thực thể cá nhân vừa cá nhân, vừa xã hội:

   - " Từ nguyên thủy, người nam và người nữ. Thiên Chúa dựng nên và sự hợp nhất giữa họ là hình thức thông hiệp đầu tiên giữa hai nhân vị. Thật vậy, con người do bản tính là một thực thể xã hội. Không liên hệ với người khác , con người không thể sống và cũng không thể phát huy các tài năng của mình "( Gaudium et Spes, 12). 

Chính dựa trên tính cách thiết yếu của xã hội tính  con người, mà nền tảng của sự bình đẳng giữa người nam và người nữ được thiết lập.

Nam và nữ là hai cách thức hiện thể của con người. Hình ảnh của Thiên Chúa được mặc khải dưới hình thức cả nam lẫn nữ:

   - " Thiên chúa dựng nên con người giống hình ảnh Ngài

   Giống hình ảnh Thiên Chúa, Ngài dựng nên;

   Người nam và người nữ, Ngài dựng nên " (Sáng thế 1, 27).

Trong thông điệp về địa vị người phụ nữ, Mulieris Dignitatem, Đức Gioan Phaolô II đã bình luận về hai cách thức hiện thể nam nữ của con người như sau:

   - " Con người là một nhân vị, bình đẳng giữa người nam và người nữ: bởi vì họ được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa và giống như Thiên Chúa(...) Chúng ta có thể hiểu rõ hơn nữa đặc tính của con người là gì, nhờ vào cả hai - người nam và người nữ- giống như Thiên Chúa... Trong việc kết hợp nhau, người nam và người nữ từ thuở đầu không những được kêu gọi, người nầy sống bên cạnh người kia hoặc sống chung nhau, mà là sống cho nhau, người nầy sống cho người kia" ( ĐGH Gioan Phaolô II, Tông thư Phẩm Giá Người Phụ Nữ Mulieris Dignitatem, 6.7).

Đặc tính liên đới, bổ túc cho nhau của người nam và người nữ được Thiên Chúa dựng nên để tạo thành khuôn viên đầu tiên cho xã hội tính của con người: gia đình.

Khuôn viên thứ hai cho xã hội tính của con người, rộng lớn hơn, những tổ chức xã hội dân sự trung gian ( học đường, cộng đồng, hiệp hội, đảng phái, làng xã thôn ấp...) cũng phát sinh từ xã hội tính của con người, không kém gì gia đình.

Tổ chức xã hội dân sự trung gian không ở bên ngoài, cũng không đứng bên trên con người. Và ngược lại con người không thể sống còn bên ngoài và bên trên các tổ chức xã hội dân sự.

Các tổ chức xã hội dân sự có đặc tính " con người " và con người có " xã hội tính ":

   - " Do xã hội tính của con người, chúng ta nhận thấy rõ rệt rằng việc phát huy hoàn hảo con người và mức triển nở của xã hội tùy thuộc nhau. Thật vậy, nguồn mạch, chủ thể và cùng đích của mọi tổ chức xã hội phải là con người, cũng như điều mà con người do bản tính của mình cần đến là xã hội tính. Bởi vì đời sống xã hội không phải là một cái gì ở bên ngoài con người. Con người có thể phát huy tất cả các tài năng của mình và có thể đáp ứng lại ơn gọi của mình trong tương giao với người khác, trong nhiệm vụ hổ tương và trong đối thoại với anh em" ( Gaudium et Spes, 25).

Qua những điều vừa trính bày chúng ta thấy rằng niềm tin tôn giáo kiện toàn những gì lẽ phải xác nhận và giúp chúng ta hiểu một cách sâu xa hơn những gì lương tâm ngay chính hướng dẫn.

Dưới ánh sáng vừa kể, chúng ta sẽ thấy rằng

   - nếu Đức Giáo Hoàng Leo XIII đề cập đến vấn đề lương bổng tương xứng đối với giới công nhân trong thông điệp Rerum Novarum ( 1881)

   - thì Đức Giáo Hoàng Pio XI, bốn mươi năm sau, với thông điệp Quadragesimo Anno, đề cầp đến xã hội tính của con người, đến quyền tư hữu như là dụng cụ để bảo vệ quyền tự do của cá nhân, nhưng tư hữu cũng liên hệ mật thiết với chiều hướng xã hội. Nguyên tắc liên đới một đàng ngăn  cản chúng ta rơi vào các ý thức hệ không tưởng xã hội chủ nghĩa, kinh tế chỉ huy và cá nhân chủ nghĩa thái cực, đàng khác hướng dẫn chúng ta điều hòa việc xử dụng quyền tự do tư hữu và hòa hợp tự do tư hữu với công ích (ĐGH Pio XI, Thông điệp Năm thứ Bốn Mươi, Quadragesimo Anno, 54).

Như chúng ta đã thấy địa vị tối thượng và trung tâm điểm của con người trong tổ chức quốc gia được xác tín và hỗ trợ bằng niềm tin tôn giáo, trong đó con người được Thiên Chúa dựng nên giống hình ảnh Ngài, cũng vậy lương tâm tự nhiên về liên đới hổ tương cũng được niềm tin tôn giáo biến đổi lòng nhân ái ( philanthropie) thành đức bác ái (charité). 

Đức Gioan Phaolô II lưu ý tầm vóc quan trọng của tôn giáo trong việc xây dựng quốc gia:

   - " Cần lưu ý tầm quan trọng việc đánh thức lương tâm tôn giáo của mọi người và của mọi dân tộc để thiết lập một xã hội với tầm vóc con người" (ĐGV Gioan Phaolô II, Thông điệp Liên Đới Xã Hội Sollecitudo Rei Socialis, 39).  

Và dưới ánh sáng cao cả của niềm tin Ki Tô giáo, sự liên đới hổ tương đã biến thành đức bác ái Ki Tô giáo: người công dân trong một quốc gia không chỉ là con người với quyền, tự do  và bình đẳng trong xã hội mà người khác phải kính trọng, con người trong Ki Tô giáo là con Thiên Chúa:

" ...dưới ánh sáng của đức tin, sự liên đới hổ tương có khuynh hướng vượt thoát lên trên chính mình, để mang lấy những chiều hướng Ki Tô giáo được Thiên Chúa ban tặng nhưng không, mang lấy chiều hướng khoan dung  tha thứ và hoà giải.

Người thân cận không những chỉ là con người với  các quyền và bình đẳng căn bản đối với tất cả mọi người, mà còn trở thành hình ảnh của Thiên Chúa, được Đức Giêsu cứu chuộc bằng máu  Ngài và luôn được đặt trong  ân sủng của Chúa Thánh Linh. Do đó người thân cận là người phải được thương yêu, dẫu cho là kẻ thù, cũng bằng chính tình thương mà  Thiên Chúa yêu thương anh ta. Và cho anh ta, nếu cần, cũng phải sẳng sàng hy sinh , ngay cả sự hy sinh tột đỉnh: "hy sinh mạng sống mình vì anh em ". Nói vắn tắt: sự liên đới Ki tô giáo xây dựng cộng đồng và đem đến sự " thông hiệp" huynh đệ " ( Gioan Phaolồ II, Thông điệp Các Vấn Đề Xã Hội Sollecitudo Rei Socialis, 39). 

Như vậy đức bác ái, một hình thức của tình thân hữu liên đới được niềm tin tôn giáo tăng cường, thúc giục chúng ta  quyết định những chọn lựa can đảm và nhiều khi anh hùng để mưu ích cho người khác, nhứt là  đối với những kẻ thấp cổ bé họng, những con người bị loại ra bên lề xã hội, " dân oan bị đánh đập", tù nhân bị tra tấn, " trấn nước", " bịt miệng ", đối xử như súc vật.

Đức bác ái Kitô giáo không phải chỉ đòi buộc là những cảm nhận tình cảm, mà còn đòi buộc  cảm nhận tình cảm và thực hiện bằng động tác, hành xử như người Samaritanô nhân hậu ( Lc 10, 29-37).

Đức bác ái khiến chúng ta dấn thân tự nguyện chia sẻ những thiếu thốn, bần cùng của anh em, trợ giúp người nghèo để biến chính họ trở thành những chủ thể có khả năng thăng tiến đời sống của họ và từ đó thăng tiến đời sống của người thân cận.

Một phương diện khác của đức bác ái, tình thân hữu liên đới được niềm tin tôn giáo tăng cường, là sự hiện hữu của đức bác ái làm cho công lý có bộ mặt nhân bản hơn.

Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolồ II trong suốt hai tiểu đoạn của thông điệp Sollecitudo Rei Socialis đã đề cập đến đức bác ái như là nền tảng của mọi sự  hoà thuận xã hội, trên bình diện quốc gia cũng như quốc tế.

   - Nếu trong quá khứ chúng ta định nghĩa hoà bình là kết qủa của công lý    ( opus justitiae pax),

   - thì hôm nay chúng ta có thể nói hoà bình là kết quả của tình liên đới ( opus solidarietatis pax) hay đúng hơn của đức bác ái ( Gioan Phaolồ II, Sollecitudo Rei Socialis, 39). 

Áp dụng vào tổ chức xã hội, nguyên tắc liên đới giúp cho chúng ta một vài tiêu chuẩn để phán đoán:

   - " cần phải thực hiện những đòi buộc của công lý, để khỏi bị lầm lẫn xem những nhiệm vụ do công lý đòi buộc thành quà tặng do lòng bác ái,

  - cần phải loại trừ không những hậu quả của tai ác, mà cả những nguyên nghân của nó,

  - các nguồn viện trợ giúp đỡ cần được tổ chức thế nào để những ai nhận được trợ giúp dần dần được giải thoát khỏi phải tùy thuộc vào người khác, trở thành chủ thể tự lập cho chính mình" ( Apostolicam Actuositatem, 8). 

   3 - Nguyên tắc bổ trợ ( sussidiariété ) .

Như trên đã nói, con người có trước các tổ chức xã hội dân sự và xã hội dân sự có trước tổ chức quốc gia. Đó là quan niệm chính yếu về xã hội và quốc gia của tư tưởng công giáo.

Tư tưởng đó đã được Cha Luigi Sturzo, vị sáng lập Đảng Đại Chúng ( Partito Popolare), tiền thân của Đảng Dân Chủ Thiên Chúa Giáo ( Democrazia Cristiana) Ý giải thích :

"- Đối với chúng tôi - diễn từ tại Đại Hội IV Đảng Đại Chúng, Torino 12.04.1923- Quốc Gia là một xã hội tổ chức một cách chính trị để đạt được những mục đích đặc  biệt;

Quốc Gia không bóp nghẽn, không tiêu hủy, không tác tạo ra các quyền của con người, của gia đình, của xã ấp, của đoàn thể , của tôn giáo.

Quốc gia chỉ " nhận biết " và " bảo vệ ", phối hợp các quyền đó trong giới hạn hoạt động của mình.

   - " Đối với chúng tôi, quốc gia không phải là nguồn mạch luân lý, không tác tạo ra luân lý, mà chỉ diễn đạt luân lý thành luật lệ và cung cấp cho các luật lệ đó sức mạnh xã hội,

  - Đối với chúng tôi, quốc gia không phải là tự do, quốc gia cũng không ở trên tự do, quốc gia chỉ " nhận biết " và phối hợp, định chế các giới hạn để ngưòi dân sử dụng tự do không làm băng hoại thành giấy phép.

 - Đối với chúng tôi, quốc gia không phải là tôn giáo. Quốc gia kính trọng tôn giáo, bảo đãm cho quyền thực thi tôn giáo được diễn đạt ra bên ngoài và ở những nơi công cộng.

  - Đối với chúng tôi, quốc gia không phải là tổ chức siêu nhiên thu hút đời sống của mọi cá nhân.

  - Quốc gia là một tập thể phức tạp, có nhiệm vụ hoạt động trong liên đới, phát huy các động năng của mình trong cơ chế, trong đó một quốc gia văn minh được tổ chức " (Luigi Sturzo, Il Partito Popolare, vol II : Il Popolarismo e Fascismo (1924), Zanichelli, Bologna 1956, 107).  

Mối tương quan năng động giữa các tổ chức xã hội dân sự và tổ chức quốc gia được dựa trên nguyên tắc bổ trợ: các tổ chức dân sự, tổ chức  nghiệp đoàn, hiệp hội, xã ấp, quận, tỉnh, vùng là những  cấu trúc tự nhiên của xã hội.

Mỗi tổ chức vừa kể có những đặc tính riêng, lãnh vực tự lập, lý do tồn tại của mình mà tất cả đều phải tôn trọng. Tính cách liên đới hổ tương năng động liên hệ giữa các  tổ chức làm cho các cơ chế quốc gia trở thành những biểu tượng thoả đáng cho các tổ chức xã hội dân sự và cho các nhu cầu cần được thoả mãn.

Chính Đức Giáo Hoàng Pio XI là người tiên khởi tuyên bố nguyên tắc bổ trợ:

   - " Cần ý thức một cách chắc chắn nguyên tắc tối quan trọng nầy của triết lý xã hội: tước bỏ đi đối với  cá nhân điều gì cá nhân tự mình có thể làm được  bằng sức lực và sáng kiến của mình  là hành vi bất chính, thì cũng bất chính không kém giao cho một tổ chức xã hội lớn hơn và ở thứ bậc cao hơn  điều gì các tổ chức xã hội nhỏ hơn và ở độ thấp hơn có thể thực hiện.

Điều vừa kể là một tai hại trầm trọng vừa là một sự xáo trộn trật tự xã hội. Bởi vì đối tượng của bất cứ việc an thiệp nào của  chính  xã hội là trợ giúp và nâng đở các thành phần của xã hội chớ không phải tiêu diệt hoặc thu hút hấp thụ các thành phần đó " (Pio XI, Quadragesimo Anno, 86).    

Nêu lên những điều vừa kể, Đúc Piô XI có ý lên án các ý thức hệ ỷ thế độc tài toàn trị quy tóm mọi động tác của con người và tổ chức xã hội dân sự dưới quyền hành lãnh đạo của tập quyền trung ương như ý thức hệ Cộng Sản, Phát Xít và Đức Quốc Xã.

Cộng Sản, Phát Xít và Đức Quốc Xã đều đã bị phá sản, hiện nay Giáo Hội công giáo áp dụng nguyên tắc bổ trợ vừa nêu trên và lưu ý chính quyền trong việc

   - can thiệp vào đời sống kinh tế trong phạm vi quốc gia( Gioan XIII, Mater et Magistra, 51-58),

   - cũng như trong các mối tương giao quốc tế (ĐGH Gioan XXIII, Pacem in Terris, 141).

Và sau đây là lời huấn dụ của Công Đồng Vatican II trong hiện tại:

   - " Người công dân, với tư cách cá nhân cũng như thành viên của các đoàn thể có quyền và nhiệm vụ tham dự một cách tích cực vào việc công cộng. Do đó, giới hành quyền một đàng đừng cản trở các tổ hợp gia đình, các hiệp hội xã hội hoặc văn hóa, các cơ cấu và tổ chức trung gian, cũng đừng làm cho họ thiếu các hoạt động chính đáng và hữu hiệu của họ; đàng khác người dân, riêng rẻ hay đảng phái, đừng ủy thác cho chính quyền qúa nhiều quyền lực, cũng đừng kỳ vọng ở chính quyền quá nhiều lợi lộc. Làm như vậy có thể đưa đến việc giảm đi trách nhiệm của người dân, của gia đình và của các đoàn thể xã hội " ( Gaudium et Spes, 75).   

Nói cách khác, lối quốc gia cứu tế của Cộng Sản, guồng máy quan liêu, lối cai trị trung ương tập quyền bóp nghẽn các tổ chức tự trị địa phương là hình thức bệnh hoạn và lạc hướng đối  đường lối tổ chức xã hội chính đáng, đi ngược lại nguyên tắc phụ túc bổ trợ.

Đó là quy luật mẫu tự văn phạm thứ ba, một quy luật không thể vi phạm mà không lãnh lấy hậu quả tệ hại.

Mỗi khi giao cho quốc gia, trái ngược lại với nguyên tắc bổ trợ, những nhiệm vụ mà đáng lý ra phải để cho các tổ chức xã hội trung gian hoặc những cơ quan hành chánh địa phương thực hiện, chúng ta không làm điều gì khá hơn là sang bằng những khó khăn để cho các thói hành xử lạm quyền và hối lộ có cơ sinh sôi nẩy nở.

Lạm quyền và hồi lộ sẽ mạnh mẽ phát triển, khi tổ chức quan liêu trở thành to tác vượt bậc và được ủy thác cho những nhiệm vụ quá to lớn và quá tốn kém.

Một xã hội hợp với tầm vóc con người là một xã hội dựa trên ưu tiên của các xã hội dân sự trung gian, khuyến khích và giao trách nhiệm cho các hiệp hội, đoàn thể, cộng đồng, làng xóm, quận, tỉnh, vùng và các tổ chức tự nguyện:

   - " Tổ chức xã hội ở bậc cao hơn không nên can thiệp vào  đời sống riêng tư của một tổ chức ở bậc thấp hơn, làm cho tổ chức thấp hơn bị mất thẩm quyền. Trái lại trong trường hợp cần thiết tổ chức ở bậc ao hơn phải trợ lực tổ chức ở bậc thấp phối hợp hoạt động của mình với các thành phần xã hội khác, để đạt được công ích" ( Gioan Paholồ II, Centesimus Annus, 48).  

4 - Nguyên tắc công ích.

Nguyên tắc mẫu tự văn phạm thứ tư , nguyên tắc công ích, là nguyên tắc được coi như là kết qủa của việc tuân giữ ba nguyên tắc vừa được đề cập. Nguyên tắc công ích phối hợp và thực hiện ba nguyên tắc trên .

Công ích là gi?

Nhiều ý thức hệ định nghĩa công ích một cách giới hạn.

- quan niệm tự do cổ điển cho rằng công ích chỉ là vấn đề tư riêng. Mỗi người phải tự lo lấy cho mình, thực hiện thành đạt đời sống mình càng hoàn hảo càng tốt, tìm cách đạt được mục đích mà mình nhắm tới. Thành đạt để tạo cho mình hạnh phúc là đủ. Vấn đề liên đới hổ tương không nằm trong mẫu tự văn phạm của họ.

Như vậy công ích không có gì khác hơn là tổng số các thành đạt và hạnh phúc cá nhân gộp lại. Một đoàn cừu hạnh phúc trên đồng cỏ, khi mỗi con cừu được tự do ăn no nê số lượng cỏ ngon tùy thích, mỗi con tự tạo hạnh phúc cho mình. Người mục tử ( hay quốc gia) có nhiệm vụ canh chừng để không con cừu nào bị ngăn cấm.

Trong quan niệm vừa kể, mọi tư tưởng liên quan đến luân lý và giá trị thiêng liêng đều không có chỗ đứng.

Cuộc sống cộng đồng không phải chỉ có mục đích tạo hạnh phúc cho cá nhân, bởi vì có những lợi ích vừa cá nhân vừa là của tất cả mọi người trong cộng đồng. Đó là những lợi ích không thể phân chia, chỉ có thể đạt được nếu mọi người đều nổ lực góp phần : lợi ích đó vượt lên trên lợi ích của mỗi cá nhân, nhưng đồng thời là điều kiện không thể thiếu để thực hiện lợi ích cho cá nhân:

   - " Công ích được thể hiện trên thực tế là tập hợp những điều kiện xã hội cho phép và trợ giúp cho mỗi  người được phát triển toàn vẹn con người của mình" ( Gioan XXIII, Mater et Magistra, 65).   

Qua câu xác định vừa kể của Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII, chúng ta thấy rằng quyền tối thượng của con người vẫn là yếu tố thiết yếu trong quan niệm công ích, " trợ giúp cho mỗi người đưọc phát triển toàn vẹn con người của mình".

Nhưng con người đó chỉ có thể thực hiện chính mình trong môi trường xã hội, " công ích là... tập hợp những điều kiện xã hội cho phép và trợ giúp..." . Bởi lẽ con người là thành phần nội tại của xã hội và vì con ngưòi là một hữu thể có xã hội tính.

Do đó xã hội con người không thể so sánh với đàn cừu, trong đó con nầy đứng bên cạnh con kia.

Xã hội con người là một cộng đồng, trong đó lợi ích cá nhân liên hệ  chặt chẽ với lợi ích của những người khác. Và như vậy, mỗi khi lợi ích của tôi tương phản với lợi ích của anh, điều đó có nghĩa là có một cái gì đó cần được dẹp bỏ đi. Sự đụng chạm và tranh chấp trong cuộc sống xã hội không bao giờ có thể giải quyết bằng lấn lướt, dùng sức mạnh đè bẹp người yếu thế, mà là tìm kiếm sự đồng thuận cho công ích.

Đức Gioan Phaolô II nhận xét:

   - " ...những ước vọng của xã hội nhiều khi không được cứu xét theo tiêu chuẩn công bình và luân lý, mà theo sức mạnh của lá phiếu hoặc sức mạnh  tài chánh của những phe nhóm ủng hộ ( ...) Từ đó càng ngày càng không có khả năng xếp đặt các lợi ích riêng tư trong cái nhìn đúng đắn về công ích. Công ích không phải đơn sơ chỉ là tổng số các lợi ích riêng tư, mà còn hàm chưa việc định giá trị và cứu xét  thành phần kết cấu của chúng dựa trên nền tảng của bậc thang giá trị và nói cho cùng, dựa trên sự hiểu biết chính xác về địa vị và các  quyền của con người" ( Gioan Phaolồ II, Centesimus Annus, 47).  

- một quan niệm giới hạn khác về công ích, đó là quan niệm tập thể của ý thức hệ cộng sản.

Theo đó thì công ích hoàn toàn hấp thụ tất cả mọi mục đích xã hội khác, kể cả ích lợi của cả bản thân con người.

Thay vì con người,  quan niệm tập thể đặt quyền tối thượng  cho giai cấp, đảng phái và quốc gia. Và trong quan niệm tập thể, luân lý và tôn giáo linh thiêng không có chổ đứng.

 Công ích đối với quan niệm tập thể cộng sản chỉ nhằm đạt đến việc gia tăng sản xuất đến mức nhiều nhứt có thể, đến việc tạo ra thịnh vượng kinh tế, đến việc quốc gia đứng ra cung cấp các phục vụ, không cần biết tiến trình vừa kể có làm con người mất cá tính và phẩm giá của mình hay không.

Người dân trong quan niệm tập thể cộng sản chỉ còn là những con số, bị san bằng cưỡng bách và giả tạo, không đếm xỉa gì đến năng khiếu riêng tư, nhu cầu và khả năng sáng tạo của mỗi người.

Quan niệm công ích của Công giáo bao hàm một cái nhìn bao quát hơn những gì của hai quan niệm giới hạn vừa kể.

Dĩ nhiên công ích của quan niệm Công giáo

   - cũng bao gồm tất cả những điều kiện vật chất phải có để phát triển hoàn hảo con người,

   - nhưng đồng thời cũng mở ngỏ cho những giá trị thiết yếu khác để cho con người có được một cuộc sống cho ra người. Đó là giá trị của nghệ thuật, của văn hóa, giáo dục, suy niệm, chiều hướng thiêng liêng và tôn giáo:

   - " Trong thời đại chúng ta càng ngày con người càng ý thức về địa vị cao cả của mình, con người trổi thượng hơn mọi sự vật. Các quyền và nhiệm vụ của con người có giá trị phổ quát và bất khả xâm phạm. Do đó  con người cần phải có được tất cả những điều kiện cần thiết để có thể có được một cuộc sống xứng đáng là người, như cơm nước, áo quần, nhà cửa, quyền được tự do lựa chọn cách thức sống và quyền tự do được thành lập gia đình, giáo dục con  cái, quyền làm việc, quyền danh dự được kính trọng, quyền được thông tin, quyền được hành động theo tiếng nói của lương tâm ngay chính, quyền được bảo vệ mạng sống riêng tư và cả tự do chính đáng trong lãnh vực tôn giáo" ( Gaudium et Spes, 26).

Như vậy công ích phù hợp với phẩm chất của cuộc sống hơn là số lượng sản phẩm được cung cấp.

Nói tóm lại, muốn kiến tạo quốc gia để con người có được một cuộc sống xứng đáng với nhân phẩm con người, không có con đường nào khác hơn là đặt nền tảng quốc gia trên những nguyên tắc " mẫu tự văn phạm" luân lý chung mà Thiên Chúa đã viết vào tâm hồn con người, khi Ngài dựng nên con người:

   - " Ta hãy tạo dựng con người giống như Ta "

   - " Thiên Chúa dựng nên con người giống hình ảnh Thiên Chúa " ( Gen 1, 26.27).

Quốc gia của con người cho ra người không có nền tảng nào khác hơn là nền tảng

   - trên đó con người có quyền tối thượng , là trung tâm điểm và cùng đích của tổ chức quốc gia,

   - trên đó tình liên đới thân hữu giữa người với người được đặt lên hàng quốc sách,

   - trên đó nguyên tắc liên đới hổ tương và bổ trợ  được cổ võ khiến cho mọi người  tham dự một cách có trách nhiệm vào việc xây dựng công ích, công ích được hiểu theo quan niệm rộng lớn của Công Đồng Vatican II vừa được trích dẫn ( Gaudium et Spes, 26).

Tác giả:  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!