(Ga 20:19-31)
Ngày nay con người sợ hãi đủ thứ : bệnh tật, tai nạn, khủng bố, bạo động dưới mọi hình thức, nghèo khó, chiến tranh, v.v. Ác thần đã khai thác triệt để nỗi sợ hãi đó để khuynh loát nhân loại. Do đó, nhiều công cuộc dở dang hay thất bại hoàn toàn.
Chúa Giêsu đã chìm ngập trong cơn sợ hãi, khi sắp dấn thân vào công cuộc cứu độ. Nhưng Người đã chiến thắng nỗi lo sợ nơi chính lòng mình. Nhờ thế, Người đã khẳng khái đối đầu với những quyền lực đạo đời thời đó. Khi Phục sinh, Chúa luôn trấn an các môn đệ : “Ðừng Sợ !” Trong toàn bộ Kinh Thánh, câu này được lặp lại 366 lần dưới nhiều hình thức, đủ cho ta nhắc lại mỗi ngày trong năm.
Giữa lúc các môn đệ hoảng loạn vì sợ người Do thái, Chúa Giêsu xuất hiện với nụ cười trên môi : “Bình an cho anh em !” (Ga 20:19) Tất cả đều vui mừng, không phải vì những lực lượng thù nghịch đã tiêu tan, nhưng vì Thày Chí Thánh Phục sinh. Chính sự hiện diện của Thày là một bảo đảm vững chắc cho tinh thần và đời sống của các ông. Chắc chắn các ông có thể vượt qua sự sợ hãi và sống bình an, vì đã được quyền lực mạnh nhất che chở : “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần.” (Ga 20:22) Ðó là bảo đảm vững chắc nhất cho bước đường truyền giáo, dù khó khăn tới đâu. Không những thế, chính họ cũng đem lại sự bình an và giải thoát nhiều người khỏi xiềng xích tội lỗi.
Tất cả đều phải bắt đầu từ niềm tin vào Ðức Giêsu Phục Sinh. Nếu không, tình trạng hỗn loạn vẫn còn nguyên. Ông Thomas đòi một niềm tin bắt nguồn từ kinh nghiệm vật chất. Trong khi đó đức tin nằm trong lãnh vực siêu nhiên hoàn toàn. Từ kinh nghiệm giác quan đến niềm tin siêu nhiên có một bước nhảy vọt rất lớn. Chính Thánh Linh đã giúp ông nhảy từ thế giới này sang bờ bên kia. Dĩ nhiên, không thể dùng những phương tiện giác quan để khám phá mầu nhiệm Thiên Chúa. Dù thế, trong điều kiện sống của con người, Thiên Chúa cũng muốn dẫn con người tới cõi linh thiêng qua những lần mò của giác quan.
Nếu ông Thomas bắt đầu từ cảm nghiệm giác quan đến niềm tin Phục Sinh, chúng ta cũng cần thấy chứng từ mới có thể đón nhận được niềm tin ấy. Cả kinh nghiệm và chứng từ cũng dừng lại ở một giới hạn. Dù được thấy Chúa hay không, ai cũng phải nhờ đến quyền năng Chúa Thánh Linh. Ðức tin quả là một hồng ân vô cùng lớn lao và là một kỳ công của Người. Ðức tin của ông Thomas cũng là đức tin của chúng ta. Bởi đó, dù không diện kiến trực tiếp với Chúa, Kitô hữu cũng cần đích thân gặp gỡ Người. Chính Thánh Linh sẽ thực hiện cuộc gặp gỡ lạ lùng này trong lời cầu nguyện. Người sẽ dùng những lời khôn tả và sức mạnh huyền nhiệm để ta tiếp cận với Chúa Giêsu, nguồn bình an của chúng ta.
Nếu không có đức tin vững chắc, chúng ta sẽ bị kìm kẹp trong tay thần chết. Quả vậy, “nhờ tin mà được sự sống nhờ danh Người.” (Ga 20:31) Có tin, các môn đệ mới đi vào cuộc hiệp thông với Chúa. Có tin, họ mới có thể thiết lập mối tương quan thâm sâu với Ðấng Hằng Sống. Chính đức tin đã thốt lên : “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con !” (Ga 20:28) Ðó là xác tín căn bản và trung tâm của niềm tin Kitô giáo. Chính nhờ niềm tin này, từ nay các môn đệ có thể đi khắp nơi đem sức mạnh đầy lòng thương xót của Chúa mà tha thứ cho tội nhân và giải thoát nhân loại khỏi mọi cơ chế bất công.
Không gặp Chúa Kitô, các môn đệ phải trốn chui trốn nhủi như những con gián ngày hay như con cáy thập thò miệng lỗ. Họ bị tê liệt hoàn toàn vì ký ức vẫn chưa phai những hình ảnh kinh hoàng về cái chết của vị lãnh đạo khả ái. Nhưng chính sự hiện diện và lời Thày đã đem lại kết quả đầy kinh ngạc. Chỉ cần một lời chào “Bình An” của Chúa, họ lấy lại được quyền kiểm soát thế gian. Quả thật, Người có đó để trao họ một tặng phẩm tuyệt vời là lòng thành tín sâu thẳm và bất biến. Tất cả đều tốt đẹp, dù cho những bề ngoài có vẻ thê lương.
Tất cả đều tốt đẹp vì Chúa Giêsu đã ban cho họ Thánh Thần. Thánh Linh có thể đi vào tới miền sâu thẳm nhất của con người và làm Chúa Giêsu hiện diện đích thực với họ hơn cả khi gặp Người lúc sinh thời. Chúa cũng ban cho chúng ta cùng một Thánh Linh. Thánh Linh có thể làm cho Chúa hiện diện kỳ diệu nơi chúng ta. Vì chính Thánh Linh làm cho chúng ta tin Thiên Chúa yêu thương ta đến nỗi chẳng có gì phải sợ. Chỉ vì không có mặt với các tông đồ lúc Chúa ban Thánh Linh, nên ông Thomas mới không thể tin chứng từ Phục sinh do các môn đệ khác chia sẻ với ông. Nhưng khi gặp được Chúa rồi, mọi sự đều thay đổi. Chúa đã trở thành trung tâm đời sống của ông. Chứng từ của người khác bao giờ cũng quan trọng. Nhưng không gì có thể thay thế việc đích thân gặp gỡ Chúa.
Không đích thân gặp gỡ Chúa, không thể có bình an. Chính Thánh Linh sẽ giàn xếp cho cuộc gặp gỡ này. Người là đạo diễn tài tình đem Chúa Kitô và các môn đệ giáp mặt nhau, ngoài sự tưởng tượng của họ. Sau khi Chúa chúc bình an, các môn đệ rất vui mừng. Nhưng có phải các môn đệ yên tâm vui hưởng niềm bình an trong phòng kín, vì các lực lượng thù địch đã tan biến ? Nếu các kẻ thù còn đó, các ngài có im lặng cũng vì khôn ngoan thôi. Nếu không, sẽ mất mạng như chơi ! Liều lĩnh không phải là can đảm !
Nhưng không ! Ngay sau khi chúc bình an, Chúa nói : “Như Chúa Cha đã sai Thày, thì Thày cũng sai anh em.” (Ga 20:22) Sứ mệnh các ngài cũng giống hệt như Thày mình. Sứ mệnh Thày nổi cộm với hình ảnh “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy.” (Lc 9:22) Như thế là các ông không thể “ăn no ngủ kỹ” ! Nếu chỉ lo yên thân ấm cật, làm sao có thể thi hành sứ mệnh cứu độ ?
Sứ mệnh chính của Ðức Giêsu là loan báo “Nước Trời là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần.” (Rm 14:17) Chúa đã tranh đấu cho tới chết để công chính hóa nhân loại. Sự công chính làm cho con người trở thành con Chúa và trả lại quyền làm người cho con người. Chỉ có sự công chính mới đem lại cho con người bình an và hạnh phúc. Nhưng sự công chính ấy đòi Thày phải trả một giá rất mắc ! Chẳng lẽ môn đệ của Thày lại không phải trả giá nào ?!
Nhìn vào xã hội Việt nam hôm nay, các môn đệ có phải trả giá nào cho Nước Trời mau đến không ? Liệu sự công chính có thể tồn tại trong một xã hội đầy bất công như Việt nam hiện nay không ? Cả một guồng máy bất công đang đè bẹp con người. Bao nhiêu tự do, nhân quyền, công bình tiêu tan. Giữa tình hình ấy, im lặng bao giờ cũng dễ hơn lên tiếng. Các mục tử đã chọn giải pháp dễ dàng nhất. Chẳng lẽ ngồi yên nhìn các nạn nhân quằn quại trong một xã hội bất công và bất an mãi sao ?! Chẳng lẽ các ngài có thể phớt lờ trước tiếng nói Chúa Thánh Thần vang lên từ cộng đồng dân Chúa ư ?
Ðã đến lúc cộng đồng hải ngoại nên xét lại những đóng góp của mình cho Giáo Hội Việt nam ! Khi các giám mục Việt nam sang Mỹ kêu chúng ta giúp đỡ những dự án xây nhà thờ, những công cuộc bác ái v.v., chúng ta mau chóng đáp ứng lời kêu gọi của các ngài. Nhưng thử hỏi trước bao nhiêu góp ý về phụng vụ, nhất là về cuốn “Nghi Thức Thánh Lễ 2005,” bao nhiêu tiếng kêu thống thiết về nhân quyền tại Việt nam, các ngài có quan tâm không ? Các ngài coi chúng ta là cái gì ?
Xưa nay, chúng ta vẫn cố gắng làm việc bác ái để thể hiện niềm tin. Chúng ta cứ tưởng chỉ có bác ái là cách duy nhất thực hiện lời khuyên của thánh Giacôbê : “Ðức tin không có hành động thì quả là đức tin chết.” (Gc 2:17) Thực tế, nếu không đem lại công lý, đức ái sẽ giết chết con người ! Khi sang bên Mỹ quyên tiền làm việc bác ái, các giám mục Việt nam tưởng mình chu toàn sứ mệnh Chúa. Các ngài đã làm việc bác ái, dựa trên sự hy sinh của người khác, chứ không phải của mình. Ðồng tiền có thể xoa dịu một số người trong chốc lát, nhưng lại di hại cho cả dân tộc bao đời, nếu không nhắm tới công lý. Làm bác ái bao giờ cũng dễ hơn tranh đấu cho công bình. Tuy là nhân đức cao cả, nhưng thực tế bác ái không ảnh hưởng rộng lớn như công lý. Gom tiền của người khác để về bố thí cho dân nghèo sao bằng lấy mạng sống tranh đấu cho quyền làm người ?! Công lý mới chạm tới mạng sống ! Chỉ vì công lý Chúa đã mất mạng. Chỉ có công lý mới đem Nước Chúa đến với dân tộc mà thôi !
Thiết tưởng từ nay, chúng ta nên chuyển những đóng góp của mình sang một hướng mới. Thay vì đóng góp cho những công cuộc bác ái, chúng ta hãy góp tiền cho những công cuộc tranh đấu cho công lý và nhân quyền cho Việt nam. Bất cứ công cuộc bác ái nào cũng phải nhắm mục đích đưa lại công lý cho Việt nam. Sự đóng góp phải có điều kiện. Bác ái phải đi đôi với công lý. Công lý là trả lại cho nhân quyền làm người của họ. Công lý chắc chắn có giá trị gấp ngàn lần cơm áo. Công lý phải là nền tảng và động lực cho việc bác ái. Thiếu công lý, bác ái không thể đi xa và dễ bị lạm dụng.
Cả một dân tộc đang khiếp sợ trước guồng máy chuyên chính. Nếu giám mục đại diện Chúa Kitô, liệu sự hiện diện của các ngài có đem lại bình an như Chúa không ? Chẳng lẽ sự hiện diện của các ngài không có ý nghĩa và giá trị gì ? Hiện tại các ngài vẫn im lặng, sự im lặng đang gây ngộ nhận cho cộng đồng dân Chúa và làm cớ cho chính quyền đàn áp dữ dội hơn. Nếu thực sự Thánh Linh đang hoạt động trong Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam, tại sao các ngài vẫn tự nhốt mình ở nơi “các cửa đều đóng kín” (Ga 20:19) ? Phải chăng “vì sợ” (Ga 20:19) quân dữ đằng đằng sát khí giữa rừng “gươm giáo gậy gộc,” nên các ngài chẳng dám hé môi ?!
Có người bảo các ngài đang chờ Vatican bật đèn xanh. Thực tế, giám mục là đại diện của Chúa Kitô, chứ không phải của Ðức Giáo Hoàng. Nếu là đại diện của Ðức Giáo Hoàng, các ngài mới cần chờ lệnh Vatican. Mỗi giám mục có toàn quyền trong giáo phận mình như Ðức Giáo Hoàng trong toàn thể Giáo hội, miễn là vẫn hiệp thông với Ðức Giáo Hoàng và Giáo Hội toàn cầu. Vatican chẳng hề bật đèn xanh cho giám mục hay linh mục nào tranh đấu cho nhân quyền bao giờ. Khi tranh đấu cho tự do dân tộc Balan, Ðức Hồng Y Karol Woytyla (tức ÐGH Gioan Phaolô II) có đợi Vatican bật đèn xanh không ? Cuộc dấn thân chính trị đó có vi phạm Giáo luật 287, khoản 2 không ? Sao không thấy ai bàn tới ?
Ðây là cơ hội ngàn vàng cho các giám mục Việt nam ! Nếu can đảm lên tiếng đòi nhân quyền cho dân tôc, các ngài sẽ làm một việc bác ái có giá trị gấp ngàn lần đi quyên tiền cho người nghèo. Ảnh hưởng rất lớn đối với Dân tộc và Giáo hội. Các ngài sẽ được dân Chúa và mọi người tin tưởng và mến phục. Cả thế giới sẽ ủng hộ các ngài. Cả dân tộc sẽ mang ơn các ngài. Nước Chúa sẽ mau đến trên quê hương !
Xin Chúa Thánh Linh ngự đến và xin Ðức Kitô hiện diện thực sự trong Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam để các ngài luôn sống bình an và xác tín vào sứ mệnh Chúa Giêsu : “ Như Chúa Cha đã sai Thày, thì Thày cũng sai anh em.” (Ga 20:22)
đỗ lực
15.04.2007