Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng

BBT CGVN YouTube
Thánh Kinh Công Giáo
Cầu nguyện bằng email
Hội Đồng Giám Mục VN
Liên Lạc

Văn Kiện Vatican 2

Lectio divina

Suy Niệm & Cầu Nguyện

Học Hỏi Kinh Thánh

Lớp KT Sr Cảnh Tuyết

Nova Vulgata

Sách Bài Đọc UBPT

LỜI CHÚA LÀ ÁNH SÁNG

GH. Đồng Trách Nhiệm

TAN TRONG ĐẠI DƯƠNG

Video Giảng Lời Chúa

Giáo Huấn Xã Hội CG

Tuần Tin HĐGMVN

Vụn Vặt Suy Tư

Giáo Sĩ Việt Nam

ThăngTiến GiáoDân

Bản Tin Công Giáo VN.

Chứng Nhân Chúa Kitô

Thánh Vịnh Đáp Ca

Phúc Âm Nhật Ký

Tin Vui Thời Điểm

Tin Tức & Sự Kiện

Văn Hóa Xã Hội

Thi Ca Công Giáo

Tâm Lý Giáo Dục

Mục Vụ Gia Đình

Tư Liệu Giáo Hội

Câu Chuyện Thầy Lang

Slideshow-Audio-Video

Chuyện Phiếm Gã Siêu

Các Tác Giả
  Augustinô Đan Quang Tâm
  Đinh Văn Tiến Hùng
  Ban Biên Tập CGVN
  Bác sĩ Ng Tiến Cảnh, MD.
  Bác Sĩ Nguyễn Ý-Đức, MD.
  Bùi Nghiệp, Saigon
  Bosco Thiện-Bản
  Br. Giuse Trần Ngọc Huấn
  Cursillista Inhaxiô Đặng Phúc Minh
  Dã Quỳ
  Dã Tràng Cát
  Elisabeth Nguyễn
  Emmanuel Đinh Quang Bàn
  Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB.
  EYMARD An Mai Đỗ O.Cist.
  Fr. Francis Quảng Trần C.Ss.R
  Fr. Huynhquảng
  Francis Assisi Lê Đình Bảng
  Gia Đình Lectio Divina
  Gioan Lê Quang Vinh
  Giuse Maria Định
  Gm Phêrô Huỳnh Văn Hai
  Gm. Giuse Đinh Đức Đạo
  Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
  Gm. JB. Bùi Tuần
  Gm. Nguyễn Thái Hợp, op
  Gm. Phêrô Nguyễn Khảm
  Gs. Đỗ Hữu Nghiêm
  Gs. Ben. Đỗ Quang Vinh
  Gs. Lê Xuân Hy, Ph.D.
  Gs. Nguyễn Đăng Trúc
  Gs. Nguyễn Văn Thành
  Gs. Phan Văn Phước
  Gs. Trần Duy Nhiên
  Gs. Trần Văn Cảnh
  Gs. Trần Văn Toàn
  Hạt Bụi Tro
  Hồng Hương
  Hiền Lâm
  Hoàng Thị Đáo Tiệp
  Huệ Minh
  HY. Nguyễn Văn Thuận
  HY. Phạm Minh Mẫn
  JB. Lê Đình Nam
  JB. Nguyễn Hữu Vinh
  JB. Nguyễn Quốc Tuấn
  Jerome Nguyễn Văn Nội
  Jorathe Nắng Tím
  Jos. Hoàng Mạnh Hùng
  Jos. Lê Công Thượng
  Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
  Joseph Vũ
  Khang Nguyễn
  Lê Thiên
  Lm Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, HKK
  Lm Đaminh Hương Quất
  Lm. Anmai, C.Ss.R.
  Lm. Anphong Ng Công Minh, OFM.
  Lm. Anrê Đỗ Xuân Quế op.
  Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
  Lm. Đan Vinh, HHTM
  Lm. Đỗ Vân Lực, op.
  Lm. G.Trần Đức Anh OP.
  Lm. GB. Trương Thành Công
  Lm. Giacôbê Tạ Chúc
  Lm. Gioan Hà Trần
  Lm. Giuse Hoàng Kim Đại
  Lm. Giuse Lê Công Đức
  Lm. Giuse Ngô Mạnh Điệp
  Lm. Giuse Trần Đình Thụy
  Lm. Giuse Vũ Thái Hòa
  Lm. Inhaxio Trần Ngà
  Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
  Lm. JB Trần Hữu Hạnh fsf.
  Lm. JB. Bùi Ngọc Điệp
  Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh
  Lm. Jos Đồng Đăng
  Lm. Jos Cao Phương Kỷ
  Lm. Jos Hoàng Kim Toan
  Lm. Jos Lê Minh Thông, OP
  Lm. Jos Nguyễn Văn Nghĩa
  Lm. Jos Phan Quang Trí, O.Carm.
  Lm. Jos Phạm Ngọc Ngôn
  Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
  Lm. Jos Trần Đình Long sss
  Lm. Jos.Tuấn Việt,O.Carm
  Lm. Lê Quang Uy, DCCT
  Lm. Lê Văn Quảng Psy.D.
  Lm. Linh Tiến Khải
  Lm. Martin Ng Thanh Tuyền, OP.
  Lm. Minh Anh, TGP. Huế
  Lm. Montfort Phạm Quốc Huyên O. Cist.
  Lm. Ng Công Đoan, SJ
  Lm. Ng Ngọc Thế, SJ.
  Lm. Ngô Tôn Huấn, Doctor of Ministry
  Lm. Nguyễn Hữu An
  Lm. Nguyễn Thành Long
  Lm. Nguyễn Văn Hinh (D.Min)
  Lm. Pascal Ng Ngọc Tỉnh
  Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn
  Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
  Lm. Phạm Văn Tuấn
  Lm. Phạm Vinh Sơn
  Lm. PX. Ng Hùng Oánh
  Lm. Raph. Amore Nguyễn
  Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ
  Lm. Tôma Nguyễn V Hiệp
  Lm. Trần Đức Phương
  Lm. Trần Mạnh Hùng, STD
  Lm. Trần Minh Huy, pss
  Lm. Trần Việt Hùng
  Lm. Trần Xuân Sang, SVD
  Lm. TTT. Võ Tá Khánh
  Lm. Vũ Khởi Phụng
  Lm. Vĩnh Sang, DCCT
  Lm. Vinh Sơn, scj
  Luật sư Đoàn Thanh Liêm
  Luật sư Ng Công Bình
  Mẩu Bút Chì
  Mặc Trầm Cung
  Micae Bùi Thành Châu
  Minh Tâm
  Nữ tu Maria Hồng Hà CMR
  Nguyễn Thụ Nhân
  Nguyễn Văn Nghệ
  Người Giồng Trôm
  Nhà Văn Hương Vĩnh
  Nhà văn Quyên Di
  Nhà Văn Trần Đình Ngọc
  Nhạc Sĩ Alpha Linh
  Nhạc Sĩ Phạm Trung
  Nhạc Sĩ Văn Duy Tùng
  Phaolô Phạm Xuân Khôi
  Phêrô Phạm Văn Trung
  Phó tế Giuse Ng Xuân Văn
  Phó tế JB. Nguyễn Định
  Phùng Văn Phụng
  Phạm Hương Sơn
  Phạm Minh-Tâm
  PM. Cao Huy Hoàng
  Sandy Vũ
  Sr. Agnès Cảnh Tuyết, OP
  Sr. M.G. Võ Thị Sương
  Sr. Minh Thùy, OP.
  Têrêsa Ngọc Nga
  Tín Thác
  TGM. Jos Ngô Quang Kiệt
  TGM. Phaolô Bùi Văn Đọc
  Thanh Tâm
  thanhlinh.net
  Thi sĩ Vincent Mai Văn Phấn
  Thiên Phong
  Thy Khánh
  Thơ Hoàng Quang
  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập
  Tiến Sĩ Tâm Lý Trần Mỹ Duyệt
  Tiến Sĩ Trần Xuân Thời
  Trầm Tĩnh Nguyện
  Trầm Thiên Thu
  Trần Hiếu, San Jose
  Vũ Hưu Dưỡng
  Vũ Sinh Hiên
  Xuân Ly Băng
  Xuân Thái
Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
  Giáo Sĩ Việt Nam
NOI GƯƠNG CÁC CHA DÒNG TÊN THỜI BẢO TRỢ 1615-1659, CHƯƠNG TRÌNH TRUYỀN GIÁO HIỆN NAY NÊN TỰA VÀO HÀNG GIÁO SĨ TRUYỀN GIÁO TRÁCH NHIỆM

 

(Mừng Năm Thánh 2010, xem lịch sử truyền giáo Việt Nam, Bài 7)  

Kinh nghiệm truyền giáo thời Bão Trợ, đặc biệt kinh nghiệm của các cha Dòng Tên (bài 5 và 6), từ 1615 đến 1659, đã tạo cho Giáo Hội Việt Nam một cộng đoàn tân tòng đông đếm được 100.000 giáo hữu và có tinh thần hiệp nhất và yêu thương, là một kinh nghiệm rất quý giá cho Giáo Hội Việt Nam hiện nay. Tựa vào kinh nghiệm này và kinh nghiệm của các cha Thừa sai Hải Ngoại Paris, trong thời Tông Tòa, từ 1659 đến 1960, đã làm lớn mạnh Giáo Hội, đem số giáo dân lên tới số 2.096.540 giáo hữu, chẳng những có tinh thần hiệp nhất và yêu thương mà còn can trường tuyên xưng đức tin, Hàng Giáo Phẩm Việt Nam đang hé cho chúng ta thấy một đề nghị mà các ngài đang muốn phác thảo cho dự án truyền giáo ở Việt Nam cho những thập niên đầu của thế kỷ XXI.

Dự án truyền giáo này có mục tiêu nhiều tham vọng, là làm lớn mạnh giáo hội hơn nữa, với một lớp giáo hữu chẳng những có tinh thần hiệp nhất, yêu thương và can trường tuyên xưng đức tin, mà còn có tinh thần truyền giáo nữa. Đó là điều mà HĐGMVN đã nhiều lần công bố vào dịp Năm Thánh 2010. 

Trong thư HĐGMVN gửi Cộng Đồng Dân Chúa ngày 17/04/2009, về việc chuẩn bị Năm Thánh 2010, Đức cha Chủ Tịch Nguyễn Văn Nhơn viết : « Cử hành Năm Thánh 2010 là dịp để chúng ta cùng nhau nhìn lại chặng đường lịch sử đã qua trong tâm tình tạ ơn về biết bao hồng ân Chúa ban, tạ ơn vì những hy sinh của các bậc tiền nhân, các ân nhân cũng như các chứng nhân đức tin ; đồng thời tạ lỗi vì đã chưa bày tỏ được hình ảnh Giáo Hội như lòng Chúa mong ước. Dây cũng là cơ hội cho ta nhìn vào hiện tại với cặp mắt đức tin để phân định những thách đố cũng như những thuận lợi cho đời sống và sứ mạng của Giáo Hội. Đây còn là thời điểm thúc đẩy chúng ta nhìn tới tương lai với quyết tâm xây dựng một Giáo Hội như gia đình của Chúa, như cộng đoàn hiệp thông huynh đệ, và là cộng đoàn loan báo Tin Mừng Chúa Kitô nhằm phục vụ sự sống và phẩm giá của mọi người, nhất là những người nghèo khổ ». Mục tiêu truyền giáo này, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI rất tán đồng, qua sứ điệp Ngài gửi cho Đức cha Chủ Tịch, ngày 17/11/2009, với những lời như sau : « Năm Thánh là một thời điểm chứa chan ân sủng, thuận lợi cho việc hòa giải với Thiên Chúa và anh em đồng loại. Trong ý hướng đó, chúng ta nên nhìn nhận những sai lỗi chúng ta đã phạm trong quá khứ và hiện tại, đối với anh em đồng đạo và anh em đồng bào, và xin mọi người tha thứ. Đồng thời, chúng ta nên quyết tâm đào sâu và phong phú hóa sự hiệp thông trong giáo hội và xây dựng một xã hội công bằng, liên đới và bình đẳng, bằng con đường đối thoại chính thực, tôn trọng lẫn nhau và hợp tác cách lành mạnh với nhau. Năm Thánh cũng là một thời gian đặc biệt dành cho chúng ta để làm mới lại công việc loan báo Tin Mừng cho anh em đồng bào, và để chúng ta ngày càng trở nên một giáo hội của Hiệp Thông và Sứ Vụ ».

Để đạt mục tiêu có tham vọng tương đối cao này, chương trình nào sẽ phải được thiết kế ? Để thiết kế được những công việc phải làm trong một chương trình nào đó, phương pháp dự án đưa ra hai nguyên tắc. Thứ nhất phải tìm ra những nguyên nhân của tình huống hiện tại hầu sửa đổi hay cải tiến tình huống này. Thứ hai phải dựa vào những nguyên nhân của tình huống hiện tại và dựa theo mục tiêu của tương lai để tìm ra chương trình những công việc phải làm hầu đạt mục tiêu đã xác định mà loại bỏ được những nguyên nhân xấu đã tạo nên tình huống hiện taị, hay tối ưu hóa những nguyên nhân hữu hiệu đã làm tốt tình huống hiện tại. Giữa những nguyên nhân của tình huống hiện tại và chương trình thực hiện của đường hướng tương lai có một liên hệ nhân quả rất mật thiết. Nói như vậy, lần lượt chúng ta sẽ cứu xét hai điểm sau đây : 1- Những nguyên nhân của tình trạng truyền giáo hiện nay ; 2. Noi gương các cha Dòng Tên thi Bảo Tr, chương trình truyền giáo hin nay nên tựa vào hàng giáo sĩ truyền giáo trách nhiệm.

 

1. Những nguyên nhân của tình trạng truyền giáo hiện nay

 

Trong các doanh nghiệp, khi xét đến tình trạng ở một giai đoạn nào đó, thường thì ba kết quả sẽ được đưa ra : số lượng sản phẩm, số lượng khách hàng và số lượng tài chính. Trong việc truyền giáo, dẫu theo quan niệm « Ở giữa lương dân (inter gentes) » hay « «Đến với lương dân (Ad gentes) », thì số giáo dân vẫn là một yếu tố căn bản mà tất cả các thống kê đều ghi nhận, vì nó là một yếu tố quan trọng đo lường sự hiện hữu mạnh yếu của một tôn giáo. Năm loại nguyên nhân phương tiện (les 5 Moyens) thường được dùng để phân tích tình trạng của một kết quả : chất liệu (matière), thiết bị (Matériel), nhân sự (Main d’œuvre), phương pháp (Méthode) và môi trường (Milieu).

Thời Bảo Trợ, dẫu về thiết bị là cơ sở và phương tiện eo hẹp, dẫu về môi trường là thái độ ganh ghét của một số nho sĩ và phật tử, nhưng nhờ nhân sự là các cha dòng Tên có tài năng và trách nhiệm, cũng như các thầy giảng có nhiệt thành, nhờ phương pháp là sự tôn trọng và hội nhập văn hóa việt nam và nhờ chất liệu là người việt nam có tâm tình tôn giáo cao, một kết quả ngoài tưởng tượng đã đạt được. Đó là sự gia nhập của 100.000 tân tòng có tinh thần hiệp nhất và yêu thương nhau.

 

Vậy nguyên nhân nào đã đưa đến kết quả truyền giáo hiện nay ? Cha Antôn Nguyễn Ngọc Sơn đã nhận định rằng « Việc truyền giáo (hiện nay) ở Việt Nam có hiệu quả chưa cao, vì số tăng trưởng tỷ số công giáo / toàn dân chỉ được 0.22% từ 1960 đến 2007. (Tỷ số này hẳn thật sẽ đã cao hơn, nếu không có cuộc vượt biên từ 1975 của trên 1.000.000 người, trong đó có rất nhiều người công giáo). Và cha Sơn đã đưa ra ba nguyên nhân : 1- Chưa có một nhận thức đầy đủ về việc loan báo Tin Mừng ; 2- Thiếu nền tảng Kitô học vững chắc ; 3- Thực trạng sống đạo chưa đáp ứng với yêu cầu của Tin Mừng. Cả ba nguyên nhân mà cha Sơn đã phân tích đều qui về một. Đó là nhân sự. Dĩ nhiên ai cũng thấy rằng, trong việc truyền giáo, yếu tố nhân sự là quan trọng hơn cả. Nhưng, để có một cái nhìn toàn diện, có lẽ cả năm yếu tố phương tiện sẽ cần phải được gợi ra.

 

Về chất liệu : con người việt nam, lương và giáo, dẫu vẫn còn tâm tình tôn giáo cao, nhiều người hiện nay đã bị chủ nghĩa vật chất chiếm đoạt, mà biến tính, thành ra gian dối, giả hình, ích kỷ…Đó là một trong những lý do khiến có những người trở lại đạo chỉ vì để được làm lễ cưới với người công giáo, ch chưa tht tình mun theo đạo.

Về môi trường, những người chống tôn giáo, và chống công giáo, có quyền lực nhiều hơn, có tổ chức chặt chẽ và thống nhất hơn, có lực lượng mạnh và đông hơn, và có kỹ thuật đàn áp tinh xảo hơn,…

 

Về nhân sự, số cán bộ công giáo là giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân đông hơn, sánh với thời Bảo Trợ. Nhưng ba sự kiện mới. Trước nhất là sĩ số giáo sỹ giảm hẳn xuống, vì những lý do khác nhau, trong thời gian gần 50 năm ở miền Bắc, từ 1954 đến 2000, và gần 30 năm ở miền Nam, từ 1975 đến 2000. Từ đó, sự kiện mới thứ hai là ý thức sứ mệnh thay đổi. Thời Bảo trợ và Tông Tòa, tất cả các giáo sỹ ngoại quốc đều cho mình có sứ mệnh trước nhất là truyền giáo ra ngoài cho lương dân, trong khi đó, sang thời Chính Tòa, nhất là trong ba thập niên 70, 80 và 90, các giáo sỹ việt nam thấy sứ mệnh cai trị nội bộ giáo phận và giáo xứ là quan trọng hơn, để bảo vệ đức tin. Rồi, sự kiện mới thứ ba, xuất hiện rõ nét từ thập niên 2000, là thay đổi về trách nhiệm và công việc ưu tiên. Các giáo sĩ và những giáo dân nhiệt thành đã chuyển hướng ưu tiên sang những công việc về tổ chức và sinh hoạt nội bộ họ đạo : xây cất, trang trí và làm đẹp thánh đường, lo việc ca hát, lễ lậy, lập các hội đoàn, tổ chức hội họp,…. Một số xí nghiệp mà nhân viên rất giỏi và chuyên tâm về việc sản xuất các sản phẩn có chất lượng rất cao, nhưng sao nhãng việc chinh phục khách hàng để bán sản phẩm ra bên ngoài. Kết quả là các sản phẩm chất lượng cao ấy bị tồn kho, ứ đọng trong nội bộ, không được hoặc rất ít được lưu hành ra bên ngoài. Khó khăn rồi khủng hoảng. Nếu biết thức tỉnh giao dịch, lối thoát sẽ được mở ra, rồi sự sinh tồn được duy trì và phát triển. Nếu không, một tương lai khác sẽ khó lường.

 

Về cơ sở thiết bị và phương pháp dụng cụ, từ 1954 đến 1975, trong hai tổng giáo phận Sài Gòn và Huế, các cơ sở và thiết bị của Giáo hội đã được xây dựng hoặc tái thiết rất nhiều, ở thành phố cũng như ở thôn quê. Vào năm 1967, trong hai giáo tỉnh Huế và Sài Gòn, có 1.406 trường tiểu học qui tụ 311.000 học sinh, 188 trường trung học qui tụ 254.801 học sinh, 1 viện Đại Học Đà Lạt. Năm 1970, mở thêm 2 đại học khác : Viện Đại Học Minh Đức Sài Gòn do Lm Bửu Dưỡng và Viện Đại Học Thành Nhân Sài Gòn do các sư huynh Lasan (Lange, Claude : Ecole catholique et Mission de l’Eglise au Vietnam (1860-1975), trong Echos de la rue du Bac, n°237, mars 1989, tr. 88-96). Năm 1969, trong hai giáo tỉnh Sài Gòn và Huế, có 41 bệnh viện với 7000 giường, 239 trạm phát thuốc, 36 nhà hộ sinh, 9 trại cùi với 2.500 bệnh nhân, 82 cô nhi viện với 11.000 trẻ mồ côi, 29 viện dưỡng lão (Linh mục nguyệt san, số 105 ; 1970, tr. 618-619).

Từ 1975, hầu hết các cơ sở văn hóa giáo dục và xã hội y tế đều đã bị tước đoạt, tịch thu hay mượn tạm. Cho đến nay, chúng vẫn chưa được hoàn trả. Hai phương tiện truyền giáo ưu tiên của giáo hội đã bị chặt cụt. Phương pháp truyền giáo hữu hiệu nhất của Giáo Hội Việt Nam, đã được đào luyện từ thời Bảo Trợ, dựa vào giáo dục đào tạo, hội nhập văn hóa và bác ái xã hội đã bị tịch thu để xử dụng vào việc khác.

 

Như vậy, hai phương tiện có gốc từ bên ngoài là chất liệu và môi trường, dường như bất lợi hơn cho việc truyền giáo. Ba phương tiện phát xuất từ nội bộ là nhân sự, cơ sở và phương pháp, do thời thế, cũng bị rất nhiều nghịch cảnh, đe dọa và tai họa. Trước những bất lợi, nghịch cảnh, đe dọa và tai họa trên đối với các phương tiện, để đạt được mục tiêu mà HĐGMVN đã hé mở ra, việc truyền giáo trong tương lai phải đua ra chương trình nào ? Phải tựa vào điều chủ yếu nào ?

 

 

2. Noi gương các cha Dòng Tên thi Bảo Tr, chương trình truyền giáo hin nay nên tựa vào hàng giáo sĩ truyền giáo trách nhiệm

 

Dường như một luồng gió mới Thánh Linh đang thổi vào giáo hội, từ những năm 2000 và nhất là từ ngày khai mạc Năm Thánh tại Sở Kiện, ngày 24/11/2009.

Năm 1980, khi thành lập HĐGMVN, các chủ chăn chỉ nghĩ tới việc thành lập 3 ủy ban là 1- Phụng tự, 2- Linh mục, tu sĩ và chủng sinh, 3- Giáo dân.

 

Năm 2001, thời cơ thuận lợi hơn, các ngài đã nghĩ đến việc tìm một giải đáp tổ chức cho việc truyền giáo bằng cách thành lập 4 ủy ban mới. Đó là 1- Loan báo Tin Mừng 2- Giáo lý Ðức tin và Thánh Kinh, 3-Văn Hoá và 4- Bác Ái Xâ hội. Qua bốn ủy ban này, một dự án truyền giáo đã được gợi ý, xoay quanh ba trục : trục hành động là truyền giáo, trục nội dung rao truyền là giáo lý, đức tin và kinh thánh, trục phương pháp là bằng văn hóa và bác ái xã hội. Cũng năm 2001 này, Ủy Ban Linh mục, tu sĩ và chủng sinh, được thành lập từ 1980, đã được chia làm hai Ủy Ban : Tu sĩ và Giáo sĩ Chủng sinh. Từ đây, số lượng chủng sinh và linh mục tăng dần lên. Hiện nay, số tân linh mục hằng năm đếm được cả trăm vị. Số linh mục được gởi đi tu nghiệp, chuẩn bị các học vị thạc sĩ và tiến sĩ cũng tăng hẳn lên. 

 

Năm 2003, qua thư mục vụ, HĐGMVN đã đưa ra một giải đáp chi tiết hơn cho việc truyền giáo bằng cách mời gọi mọi tín hữu « hãy đáp lại lời gọi “Ra khơi” của Đức Thánh Cha, qui hướng lời cầu nguyện và hoạt động của Hội Thánh tại Việt Nam vào việc “Loan báo Tin Mừng” (HĐGMVN, Sứ mạng loan báo Tin Mừng của Hội Thánh Việt Nam Hôm Nay, Thư mục vụ năm 2003 c ủa HĐGMVN).

Và để thực hiện việc loan báo Tin Mừng, thư mục vụ đã nêu ra bốn tiếp cận : 1- Chúng ta hãy tiếp bước các vị thừa sai đầy nhiệt tình tông đồ, hãy phát triển truyền thống kiên cường của các bậc tiền nhân anh hùng tử đạo ; 2- Sống hoà thuận thương yêu nhau (x. Cv 2, 44-46) và rao truyền đức tin trong tất cả mọi hoàn cảnh của cuộc sống ; 3- đến với những môi trường mới, đến với những con người chưa được nghe rao giảng Tin Mừng, Tin Mừng phải hội nhập vào mọi lãnh vực của con người ; và 4- biết sử dụng ngôn ngữ, cách diễn tả phù hợp với văn hoá và tâm lý người đương thời.

Theo những tiếp cận này, một chương trình gồm ba nhóm việc làm đã được HĐGM đề nghị : 1- Về phương diện thiêng liêng : Cầu nguyện cho việc truyền giáo, Nêu gương sống lương tâm công giáo ; 2- Về phương diện đối thoại : Thăm viếng thân hữu các thành viên tôn giáo bạn, Trao đổi với người ngoài công giáo về một đề tài chung ; 3- Về phương diện thực hành : Thiết lập ban truyền giáo, kết nghĩa và làm việc bác ái.

Năm 2009, hai tài liệu chuyên biệt về việc truyền giáo đã được hai Ủy Ban Giám Mục của HĐGMVN phổ biến.

Tiếp nối đường hướng của Thư Mục Vụ 2003 của HĐGMVN, Ủy Ban Loan Báo Tin Mừng trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, qua  cuộc hội thảo với chủ đề “Người thừa sai trên cánh đồng sứ vụ” từ ngày 23 đến ngày 25.03.2009, tại Trung Tâm Văn Hoá Đức Tin Công Giáo Sài Gòn đã đưa ra một chương trình hành động cụ thể cho việc truyền giáo hiện nay ở ba cấp. Cấp gia đình và giáo xứ : Gia đình cầu nguyện, Phổ biến Lời Chúa, Xứ đạo truyền giáo. Cấp giáo phận : Củng cố UBLBTM, Thực hiện chương trình : “Người người Tân Ước, nhà nhà Kinh Thánh”. Cấp toàn quốc : thiết lập Ban Thường Vụ UBLBTM ; tìm cách thực hiện chương trình: “Người người Tân Ước, nhà nhà Kinh Thánh” ; Tìm cách phối hợp chặt chẽ với các UB khác như UBTT, UBBAXH-Caritas, UBVH, UBĐT… ; Quan tâm và giúp đỡ việc đào tạo giáo dân dấn thân tham gia trực tiếp vào công việc truyền giáo ; Nghiên cứu và cung cấp tài liệu truyền giáo…

Tiếp nối công việc « Sống Lời Chúa » đã được HĐGMVN nói đến trong thư mục vụ 2005, Ủy Ban Kinh Thánh vửa phổ biến một nghiên cứu dưới chủ đề « Rao giảng Lời Chúa tại Việt Nam trong 50 năm qua (1960-2010) ». Nói về việc định hướng tương lai, Ủy Ban đã đưa ra 6 đề nghị, trong đó về đề nghị thứ sáu là « Quan tâm đưa Lời Chúa hội nhập vào trong môi trường văn hoá », việc đào tạo các nhà truyền giáo đã được nhấn mạnh. Ủy Ban viết : « Nhằm một việc hội nhập văn hoá trung thực sứ điệp Tin Mừng, ta phải đảm bảo việc đào tạo các nhà truyền giáo bằng những phương tiện thích hợp để hiểu biết tận chiều sâu môi trường sống, hoàn cảnh văn hoá xã hội, sao cho họ có thể tháp nhập vào trong môi trường, trong ngôn ngữ cũng như trong các nền văn hoá bản địa. Trách nhiệm đầu tiên của Hội Thánh địa phương là làm cho sứ điệp Tin Mừng có thể hội nhập văn hoá trung thực, trong khi dĩ nhiên vẫn lưu ý đến nguy cơ chiết trung. Phẩm chất của công việc hội nhập văn hoá tùy thuộc mức độ chín chắn của cộng đoàn có nhiệm vụ loan báo Tin Mừng ».

 

Nhìn qua ba thời điểm 2001, 2003 và 2009, ta có thể bảo rằng đó là ba tiền chương trình đã và đang được gợi ra. Những chương trình này có thích hợp với dự án truyền giáo mà Giáo Hội Việt Nam đang muốn xây dựng cho tương lai, nhân dịp Năm Thánh 2010 không ? Chúng có khả năng loại bỏ được những nguyên nhân khiến việc truyền giáo chưa tiến nhanh hơn không? Phải tựa vào đâu để thiết lập chương trình làm việc phát triển việc truyền giáo cho những thập niên đầu thế kỷ XXI ? Để trả lời những vấn đề này trước nhất chúng ta thử so sánh những nguyên nhân đã nhận ra và những (tiền) chương trình đã được gợi ra.

 

 

Nguyên nhân nhận ra

Chương trình đã gợi ra

Chất liệu

Con người việt nam, lương và giáo, dẫu vẫn còn tâm tình tôn giáo cao, nhưng nhiều người hiện nay đã bị chủ nghĩa vật chất chiếm đoạt, mà biến tính, thành ra gian dối, giả hình, ích kỷ…

 

Môi trường

Những người chống tôn giáo, và chống công giáo, có quyền lực nhiều hơn, có tổ chức chặt chẽ và thống nhất hơn, có lực lượng mạnh và đông hơn, và có kỹ thuật đàn áp tinh xảo hơn,…

 

Nhân sự

Nhân sự giáo sĩ sụt số lượng trong những năm 1954-1999, sứ mệnh thiên về quản trị giáo xứ, giáo phận hơn là hướng về truyền giáo cho lương dân, và ưu tiên công việc  dành cho tổ chức họ đạo, giáo phận.

1.      2001 UB Giao sĩ chủng sinh : tăng vic đào tạo giáo sĩ.

2.      2009 UBTK : Đào tạo các nhà truyền giáo

 

Phương pháp

Phương pháp truyền giáo hữu hiệu nhất của Giáo Hội Việt Nam, đã được đào luyện từ thời Bảo Trợ, dựa vào giáo dục đào tạo, hội nhập văn hóa và bác ái xã hội đã bị tịch thu để xử dụng vào việc khác.

 

1.      2001 : Tổ chức việc truyền giáo qua việc lập 4 ủy ban mới : LBBTM, GLĐTKT, BAXH, VH 

2.      2003 : phương pháp thiêng liêng, đối thoại, tổ chức giáo họ và bác ái

3.      Biết xử dụng ngôn ngữ, cách diễn tả phù hợp với văn hóa và tâm lý người đương thời.

4.      2009 UBLBTM : tổ chức ba cấp truyền giáo : giáo xứ, giáo phận và toàn quốc

Thiết bị

Các cơ sở văn hóa giáo dục và y tế xã hội đều bị tước đoạt, tịch thu hay mượn tạm

 

 

Nhìn bảng so sánh này, ba nhận xét dễ dàng nẩy ra. Thứ nhất là ba nguyên nhân : chất liệu, môi trường và thiết bị còn trống, chưa có chương trình nào cải tiến. Đó là một thiếu sót mà chương trình tương lai cần phải cứu xét và bổ khuyết, tùy theo hoàn cảnh và khả năng.

Ngược lại, rõ rệt tác nhân phương pháp đã được đặc biệt lưu tâm trong ba tiền dự án 2001, 2003 và 2009. Chẳng những hai phương pháp cổ điển là văn hóa đào tạo và y tế xã hội đã được đề nghị, mà đặc sắc nhất là khía cạnh tổ chức truyền giáo ở ba cấp giáo xứ, giáo phận, toàn quốc đã được tỷ mỉ phác thảo. Chương trình tương lai cần giữ lại và thực hiện ba công việc này. Đó là nhận xét thứ hai. Nhận xét thứ ba, là về vấn đề nhân viên giáo sĩ truyền giáo, có lẽ ba tiền dự án 2001, 2003 và 2009 chưa nhấn mạnh cho đủ.

 

Về ba nguyên nhân liên hệ đến nhân sự truyền giáo, nguyên nhân thứ nhất là sự giảm sút số lượng đào tạo giáo sĩ trong những năm 1954-2000 đã đang được cải tiến khả quan từ năm 2000. Với hoàn cảnh đổi mới hiện nay, có nhiều hy vọng để việc đào tạo giáo sĩ vẫn có điều kiện thuận lợi để phát triển trong tương lai.

Nguyên nhân thứ hai liên hệ đến sự chuyển hướng sứ mệnh từ « truyền giáo cho lương dân » sang « quản trị giáo phận và giáo xứ » và nguyên nhân thứ ba dành ưu tiên cho công việc « tổ chức giáo phận, giáo xứ » hơn là « gặp gỡ, đối thoại với lương dân » chưa có biện pháp nào đã được đưa ra để sửa đổi và cải tiến. Sứ mệnh và công việc ưu tiên là những điểm rất quan trọng mà chỉ các giáo sĩ lãnh đạo mới có khả năng lấy những quyết định có thẩm quyền. Trong những chương trình truyền giáo tương lai, sứ mệnh « truyền giáo cho lương dân » và công việc « gặp gỡ, đối thoại với lương dân » có sẽ được ưu tiên không ?

 

Về nhân sự truyền giáo, còn một điều rất quan trọng khác cần phải nói rõ. Đó là sự kiện phải phân biệt hai lớp nhân sự : lớp giáo sĩ lãnh đạo là HĐGMVN, giám mục chính tòa và linh mục chính xứ, và lớp tu sĩ và giáo dân cộng tác viên.

Truyền giáo là một công việc, hay đúng hơn là một công trình. Giáo sĩ lãnh đạo truyền giáo, cũng như bất cứ lãnh đạo nào khác, có thể ủy quyền trong mọi sự, nhưng phải đảm trách hai việc là định hướng và kiểm soát. Công việc truyền giáo chỉ có thể được thực hiện tốt khi có giáo sĩ lãnh đạo nhận lãnh trách nhiệm. Tiêu chuẩn chất lượng ISO 9001 đưa ra 6 trách nhiệm mà một lãnh đạo phải thực hiện. Áp dụng vào giáo sĩ lãnh đạo truyền giáo ta có thể ghi ra sáu trách nhiệm sau đây :

·        làm lời cam kết làm việc truyền giáo,

·        theo dõi và lắng nghe nhu cầu của lương dân và của giáo dân,

·        thiết kế một chính sách truyền giáo,

·        thiết lập một chương trình làm việc truyền giáo,

·        quản trị công việc truyền giáo và

·        duyệt xét công việc và kết quả truyền giáo.

 

Khi ta có giáo sĩ lãnh đạo truyền giáo lãnh nhận và thực hiện sáu trách nhiệm lãnh đạo này, thì ta sẽ có giáo sĩ truyền giáo trách nhiệm và gương mẫu. Người lãnh đạo gương mẫu, nhờ có tinh thần trách nhiệm lãnh đạo, lo lắng để ban lãnh đạo và toàn thể cơ quan đều nhằm cùng một mục đích chung và tạo mọi điều kiện để các cộng tác viên có thể dấn thân thực hiện mục đích chung của cơ quan. Khi ta có giáo sĩ truyền giáo trách nhiệm thì ta sẽ có một yếu tố quyết định để có được kết quả truyền giáo có chất lượng cao. Đó là lý do khiến chúng ta dám đề nghị rằng : « Noi gương các cha Dòng Tên thi Bảo Tr, chương trình truyền giáo hin nay nên tựa vào hàng giáo sĩ truyền giáo trách nhiệm».

Đó cũng là kinh nghiệm mà các cha Dòng Tên thời Bảo Trợ đã truyền lại cho Giáo Hội Việt Nam.

 

 

KẾT LUẬN

Đọc lại lịch sử truyền giáo thời Bảo Trợ, đặc biệt là giai đoạn 1615-1659, người đọc không khỏi ngỡ ngàng vể những kết quả vượt tưởng tượng mà các cha Dòng Tên đã đạt được. Nhưng khi tìm hiểu thêm về cách làm việc và tinh thần trách nhiệm của họ, thì ta thấy quả thật họ xứng đáng với những kết quả đã đạt được. Nói theo tiêu chuẩn chất lượng ISO 9000, thì :

·        Là giáo sĩ lãnh đạo truyền giáo, mỗi cha Dòng Tên đều nêu gương lãnh đạo truyền giáo.

·        Họ tìm hiểu những biến đổi của môi trường truyền giáo và của xã hội việt nam để thích ứng theo.

·        Họ theo dõi nhu cầu của mọi phần tử liên hệ đến việc truyền giáo, từ lương dân, giáo hữu cộng sự viên, đến quan quyền và các thàng phần xã hội khác, về văn hóa, tôn giáo, kinh tế, chính trị.

·        Họ nhìn ra hướng đi rõ rệt cho việc truyền giáo trong tương lai.

·        Họ xác định được những giá trị và một cư xử chung cho đoàn truyền giáo.

·        Họ gây được tín nhiệm và loại bỏ được những nghi nan.

·        Họ cung ứng cho các cộng sự viên những phương tiện cần thiết và tin tưởng cho họ tự do lấy sáng kiến hành động một cách trách nhiệm.

·        Họ biết nhìn nhận công lao của các cộng sự viên và khích lệ họ.

·        Họ đào tạo, huấn luyện và hướng dẫn các cộng sự viên.

·        Họ dám xác định những mục tiêu truyền giáo cao

·        Và họ tìm cách thiết kế một chiến thuật thực hiện những mục tiêu đã ấn định.

 

Trong việc truyền giáo tại Việt Nam thời Bảo Trợ, tất cả các cha dòng Tên đều đã tích cực và hy sinh đủ điều, chấp nhận mọi khó khăn để loan báo Tin Mừng. Cha Đắc Lộ được coi là biểu tượng của các cha Dòng Tên ở Việt Nam thời đó. Ngay từ khi có ý định gia nhập Dòng Tên ở Roma, cha đã muốn sau này được đi truyền giáo ở Đông Á. Vào truyền giáo ở Việt Nam, cha hoạt động truyền giáo ở Đàng Trong qua hai thời kỳ : 1624-1626 và 1640-1645. Là một trong hai người đầu tiên chính thức mở ra cuộc truyền giáo ở Đàng ngoài từ 1627-1630, cha Đắc Lộ có nhiều sáng kiến, nhiệt tình, can đảm trong sứ vụ. Cha là thừa sai đi lại nhiều nơi nhất ở Việt Nam thời đó (Đỗ Quang Chính, Dòng Tên trong xã hội Đại Việt 1615-1773, 2007, Texas, tr. 76). Có thể nói rằng cha đã làm tất cả 11 điều nêu trên đây. Cha rao giảng Tin Mừng theo phương pháp thích hợp với văn minh và văn hóa việt nam. Cha xây dựng giáo hội hòa nhập với văn hóa gia đình việt nam : hiếu thảo với ông bà cha mẹ, đọc kinh sáng tối trong gia đình, lập tổ chức Nhà Đức Chúa Trời, linh tông, …Có thể bảo rằng cha Đắc Lộ xứng đáng làm mẫu gương cho tất cả các giáo sĩ truyền giáo trách nhiệm việt nam trong mọi thời, ngay cả thời hiện đại.  

Giáo hội đang chuẩn bị hồ sơ phong thánh cho ba vị : Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận (đại diện cho thời Chính Tòa). Hai Đức cha François Pallu và Pierre Lambert de la Motte (đại diện cho thời Tông Tòa). HĐGMVN có nên đề nghi với Dòng Tên cùng gửi Thỉnh Nguyện Thư xin mở án phong chân phước cho cha Đắc Lộ (đại diện cho thời Bảo Trợ) không ?

  

Paris, ngày 14 tháng 01 năm 2010

Trần Văn Cảnh

Tác giả:  Gs. Trần Văn Cảnh

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!