Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng

BBT CGVN YouTube
Thánh Kinh Công Giáo
Cầu nguyện bằng email
Hội Đồng Giám Mục VN
Liên Lạc

Văn Kiện Vatican 2

Lectio divina

Suy Niệm & Cầu Nguyện

Học Hỏi Kinh Thánh

Lớp KT Sr Cảnh Tuyết

Nova Vulgata

Sách Bài Đọc UBPT

LỜI CHÚA LÀ ÁNH SÁNG

GH. Đồng Trách Nhiệm

TAN TRONG ĐẠI DƯƠNG

Video Giảng Lời Chúa

Giáo Huấn Xã Hội CG

Tuần Tin HĐGMVN

Vụn Vặt Suy Tư

Giáo Sĩ Việt Nam

ThăngTiến GiáoDân

Bản Tin Công Giáo VN.

Chứng Nhân Chúa Kitô

Thánh Vịnh Đáp Ca

Phúc Âm Nhật Ký

Tin Vui Thời Điểm

Tin Tức & Sự Kiện

Văn Hóa Xã Hội

Thi Ca Công Giáo

Tâm Lý Giáo Dục

Mục Vụ Gia Đình

Tư Liệu Giáo Hội

Câu Chuyện Thầy Lang

Slideshow-Audio-Video

Chuyện Phiếm Gã Siêu

Các Tác Giả
  Augustinô Đan Quang Tâm
  Đinh Văn Tiến Hùng
  Ban Biên Tập CGVN
  Bác sĩ Ng Tiến Cảnh, MD.
  Bác Sĩ Nguyễn Ý-Đức, MD.
  Bùi Nghiệp, Saigon
  Bosco Thiện-Bản
  Br. Giuse Trần Ngọc Huấn
  Cursillista Inhaxiô Đặng Phúc Minh
  Dã Quỳ
  Dã Tràng Cát
  Elisabeth Nguyễn
  Emmanuel Đinh Quang Bàn
  Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB.
  EYMARD An Mai Đỗ O.Cist.
  Fr. Francis Quảng Trần C.Ss.R
  Fr. Huynhquảng
  Francis Assisi Lê Đình Bảng
  Gia Đình Lectio Divina
  Gioan Lê Quang Vinh
  Giuse Maria Định
  Gm Phêrô Huỳnh Văn Hai
  Gm. Giuse Đinh Đức Đạo
  Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
  Gm. JB. Bùi Tuần
  Gm. Nguyễn Thái Hợp, op
  Gm. Phêrô Nguyễn Khảm
  Gs. Đỗ Hữu Nghiêm
  Gs. Ben. Đỗ Quang Vinh
  Gs. Lê Xuân Hy, Ph.D.
  Gs. Nguyễn Đăng Trúc
  Gs. Nguyễn Văn Thành
  Gs. Phan Văn Phước
  Gs. Trần Duy Nhiên
  Gs. Trần Văn Cảnh
  Gs. Trần Văn Toàn
  Hạt Bụi Tro
  Hồng Hương
  Hiền Lâm
  Hoàng Thị Đáo Tiệp
  Huệ Minh
  HY. Nguyễn Văn Thuận
  HY. Phạm Minh Mẫn
  JB. Lê Đình Nam
  JB. Nguyễn Hữu Vinh
  JB. Nguyễn Quốc Tuấn
  Jerome Nguyễn Văn Nội
  Jorathe Nắng Tím
  Jos. Hoàng Mạnh Hùng
  Jos. Lê Công Thượng
  Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
  Joseph Vũ
  Khang Nguyễn
  Lê Thiên
  Lm Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, HKK
  Lm Đaminh Hương Quất
  Lm. Anmai, C.Ss.R.
  Lm. Anphong Ng Công Minh, OFM.
  Lm. Anrê Đỗ Xuân Quế op.
  Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
  Lm. Đan Vinh, HHTM
  Lm. Đỗ Vân Lực, op.
  Lm. G.Trần Đức Anh OP.
  Lm. GB. Trương Thành Công
  Lm. Giacôbê Tạ Chúc
  Lm. Gioan Hà Trần
  Lm. Giuse Hoàng Kim Đại
  Lm. Giuse Lê Công Đức
  Lm. Giuse Ngô Mạnh Điệp
  Lm. Giuse Trần Đình Thụy
  Lm. Giuse Vũ Thái Hòa
  Lm. Inhaxio Trần Ngà
  Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
  Lm. JB Trần Hữu Hạnh fsf.
  Lm. JB. Bùi Ngọc Điệp
  Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh
  Lm. Jos Đồng Đăng
  Lm. Jos Cao Phương Kỷ
  Lm. Jos Hoàng Kim Toan
  Lm. Jos Lê Minh Thông, OP
  Lm. Jos Nguyễn Văn Nghĩa
  Lm. Jos Phan Quang Trí, O.Carm.
  Lm. Jos Phạm Ngọc Ngôn
  Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
  Lm. Jos Trần Đình Long sss
  Lm. Jos.Tuấn Việt,O.Carm
  Lm. Lê Quang Uy, DCCT
  Lm. Lê Văn Quảng Psy.D.
  Lm. Linh Tiến Khải
  Lm. Martin Ng Thanh Tuyền, OP.
  Lm. Minh Anh, TGP. Huế
  Lm. Montfort Phạm Quốc Huyên O. Cist.
  Lm. Ng Công Đoan, SJ
  Lm. Ng Ngọc Thế, SJ.
  Lm. Ngô Tôn Huấn, Doctor of Ministry
  Lm. Nguyễn Hữu An
  Lm. Nguyễn Thành Long
  Lm. Nguyễn Văn Hinh (D.Min)
  Lm. Pascal Ng Ngọc Tỉnh
  Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn
  Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
  Lm. Phạm Văn Tuấn
  Lm. Phạm Vinh Sơn
  Lm. PX. Ng Hùng Oánh
  Lm. Raph. Amore Nguyễn
  Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ
  Lm. Tôma Nguyễn V Hiệp
  Lm. Trần Đức Phương
  Lm. Trần Mạnh Hùng, STD
  Lm. Trần Minh Huy, pss
  Lm. Trần Việt Hùng
  Lm. Trần Xuân Sang, SVD
  Lm. TTT. Võ Tá Khánh
  Lm. Vũ Khởi Phụng
  Lm. Vĩnh Sang, DCCT
  Lm. Vinh Sơn, scj
  Luật sư Đoàn Thanh Liêm
  Luật sư Ng Công Bình
  Mẩu Bút Chì
  Mặc Trầm Cung
  Micae Bùi Thành Châu
  Minh Tâm
  Nữ tu Maria Hồng Hà CMR
  Nguyễn Thụ Nhân
  Nguyễn Văn Nghệ
  Người Giồng Trôm
  Nhà Văn Hương Vĩnh
  Nhà văn Quyên Di
  Nhà Văn Trần Đình Ngọc
  Nhạc Sĩ Alpha Linh
  Nhạc Sĩ Phạm Trung
  Nhạc Sĩ Văn Duy Tùng
  Phaolô Phạm Xuân Khôi
  Phêrô Phạm Văn Trung
  Phó tế Giuse Ng Xuân Văn
  Phó tế JB. Nguyễn Định
  Phùng Văn Phụng
  Phạm Hương Sơn
  Phạm Minh-Tâm
  PM. Cao Huy Hoàng
  Sandy Vũ
  Sr. Agnès Cảnh Tuyết, OP
  Sr. M.G. Võ Thị Sương
  Sr. Minh Thùy, OP.
  Têrêsa Ngọc Nga
  Tín Thác
  TGM. Jos Ngô Quang Kiệt
  TGM. Phaolô Bùi Văn Đọc
  Thanh Tâm
  thanhlinh.net
  Thi sĩ Vincent Mai Văn Phấn
  Thiên Phong
  Thy Khánh
  Thơ Hoàng Quang
  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập
  Tiến Sĩ Tâm Lý Trần Mỹ Duyệt
  Tiến Sĩ Trần Xuân Thời
  Trầm Tĩnh Nguyện
  Trầm Thiên Thu
  Trần Hiếu, San Jose
  Vũ Hưu Dưỡng
  Vũ Sinh Hiên
  Xuân Ly Băng
  Xuân Thái
Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
  Chứng Nhân Chúa Kitô
ANH ROBERT DUTTON

 

ĐỜI THƯỜNG

Là Kitô hữu xác tín và dấn thân, Robert Dutton điều khiển công ty RONA trong chức vụ chủ tịch tổng giám đốc từ năm 1992. Dưới sự quản trị của anh, RONA đã đứng đầu trong nước Canada về ngành buôn bán sản phẩm ngũ kim và những vật liệu xây cất.  

Robert Dutton có bằng cấp cử nhân ngành quản trị, chuyên môn về tài chánh và nghiên cứu thị trường của Trường Thương Mãi và Kinh Doanh Montréal năm 1977. Trong những năm gần đây, anh đã nhận được những giấy ban khen của nhiều cơ quan khác nhau, trong đó có Đại Học McGill. Anh cũng rất hoạt động trong những công tác từ thiện khác nữa.  

 “TÔI CÓ THỂ GIÚP BẠN ĐƯỢC KHÔNG?”  

Đó không phải là một câu hỏi không đúng chỗ. Đối với một người như tôi đã lớn lên trong ngành buôn bán ngũ kim và ngày hôm nay đang điều khiển một xí nghiệp bán lẻ, thì câu nói: “Tôi có thể giúp bạn được không?”đã nằm trong ngữ vựng hằng ngày của tôi. Đó là điều tự nhiên mỗi khi tôi giúp đỡ những ai cần đến tôi.  

Nhưng trong khuôn khổ bài nầy, thật tình tôi không thể giúp đỡ quí bạn được. Tôi không có tham vọng làm điều đó. Đúng hơn, tôi muốn “trình bày” với quí bạn sự hỗ trợ thiêng liêng đã cho phép tôi trở nên một người như ngày hôm nay. Sự hỗ trợ linh thiêng đó luôn luôn trở nên đèn soi và nhờ thế tôi đã triển khai những giá trị thâm sâu để hướng dẫn tôi trong mọi sự lựa chọn – trên bình diện cá nhân cũng như nghề nghiệp.  

Tôi nay được 47 tuổi và mỗi lần tôi phải làm một sự lựa chọn quan trọng, mỗi khi ở ngã ba đường đời của tôi, tôi đã gặp gỡ Thiên Chúa, Đức Kitô và Thánh Linh của Ngài. Và do đó tôi cũng tiếp cận với đức tin, đức cậy và đức mến. Với một tinh thần khiêm tốn, tôi mong ước được chia sẻ với quí bạn hành trình cá nhân của tôi trong việc gặp gỡ Thiên Chúa.  

Cuộc gặp gỡ đầu tiên 

Tôi được bốn tuổi khi cha mẹ tôi mở một cửa tiệm nho nhỏ bán ngũ kim và những vật liệu xây cất có tên gọi là RONA trong vùng Laval, tỉnh bang Québec, Canada. Những dãy hàng đinh ốc và đinh bù lon, những dãy kệ bày bán dụng cụ và những quầy hàng bán đủ các loại sơn đã trở thành mảnh đất giải trí của anh chị em tôi và của tôi nữa.  

Chúng tôi đã sống thời thơ ấu hạnh phúc, được cha mẹ rộng lượng nuông chiều. Họ đã gieo nơi chúng tôi những giá trị thật cao cả. Những giá trị đó gây nguồn hứng khởi không những đối với những cam kết có tính cách cá nhân và nghề nghiệp mà còn là một cách sống đức tin của tôi. Cha mẹ tôi đã truyền đạt cho tôi ba giá trị thiết yếu sau đây:  

- Niềm vui được giúp đỡ kẻ khác: bằng việc làm tôi đã theo gương mẹ tôi và bằng việc cam kết trong cộng đồng như gương ba tôi đã sống.

- Ý thức về bổn phận: bằng tinh thần trách nhiệm và tôn trọng những điều đã cam kết qua gương can đảm của mẹ tôi.

- Sự quan trọng của gia đình: bằng cách đặt tầm mức quan trọng vào sự hợp nhất và liên kết giữa những phần tử trong gia đình với nhau.  

Tôi thật may mắn có được những bậc cha mẹ như thế và tôi vô cùng biết ơn.  

Cũng như những thiếu niên cùng thế hệ với tôi, tôi đã không được lớn lên trong một khung cảnh xã hội rất đạo đức. Đó là thời kỳ tiếp theo sau Công Đồng Vatican II, với mọi sự đảo lộn như người ta đã biết. Cha mẹ tôi đã có một thái độ mà tôi có thể tạm gọi là “chừng mực” đối với tôn giáo. Cần phải nói rõ là cha tôi đã sinh trưởng trong một môi trường mà căn rễ đạo giáo là Tin Lành. Khác với hầu hết những tín hữu tỉnh bang Québec, trong gia đình tôi không có ai sống đời thánh hiến, không có linh mục hay tu sĩ.  

Khoảng mười sáu tuổi, tôi nhận thấy rằng tôi là người duy nhất thuộc một nhóm bạn bè năng lui tới nhà thờ trong giáo xứ của tôi. Tệ hơn nữa, tôi lại “thích” lui tới nhà thờ và thích cầu nguyện. Tôi cảm thấy bị thu hút bởi sự linh thánh. Tôi luôn luôn muốn được chia sẻ những giây phút sống thân mật với Thiên Chúa, cho dù rất vắn vỏi. Tôi cảm thấy cần được một sự hiện diện của Bên Trên.  

Lúc bấy giờ tôi thật sự ý thức sự hiện hữu của Thiên Chúa, một Thiên Chúa đồng hành với tôi và để mắt trông coi tôi. Tôi thường nhớ tới Thánh vịnh số 8, câu 5: “Con người là chi mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm?” Điều đó đã mang lại cho tâm hồn thanh xuân của tôi những vấn nạn sau đây: Thiên Chúa là ai mà yêu thương chúng ta như thế? Nếu Ngài đến gặp gỡ tôi, liệu tôi có hiểu được điều Ngài mong muốn nơi tôi không?  

Lúc mười sáu tuổi, người ta thắc mắc rất nhiều về tương lai, về những gì sẽ xảy ra trong cuộc đời mình. Người ta mơ mộng, hoài bão nhiều lý tưởng. Người ta tìm kiếm một sứ vụ cho mình, một định hướng mà xưa kia thường mệnh danh là “ơn gọi”. Tôi không khác biệt với những đứa trẻ cùng lứa tuổi với tôi, nhưng sự say mê tôn giáo và đời sống nội tâm của tôi đã vượt rất xa những bạn bè và các bạn học cùng lớp. Và Thiên Chúa Quan Phòng đã không đặt để một người yêu trên đường đời để tôi có thể chia sẻ cuộc sống với người đó. 

Bởi vì tôi không tìm được câu trả lời cho những vấn nạn của tôi, tôi bắt đầu say mê đọc Lời Chúa để hiểu biết Ngài nhiều hơn. Cuối cùng tôi nhận ra rằng:  

- Thiên Chúa đã chọn tôi và tôi là con Ngài, con rất yêu dấu của Ngài.

- Ngài đã yêu tôi trước tiên. Tôi nhận chân điều đó qua cha mẹ tôi mà Ngài đã ban tặng.

- Ngài đã chúc phúc cho tôi bằng cách trao ban đức tin cho tôi.

- Ở trong tôi có một cung thánh mà tôi có thể tha hồ gặp gỡ Ngài. Tôi sẽ không bao giờ cô đơn.  

Nhờ sự thinh lặng, cầu nguyện và rước lễ, Ngài đã trở thành nơi trú ẩn của tôi. Tôi cảm nhận một cách chắc chắn sự hiện hữu của Thiên Chúa là Cha đã cho chúng ta Con Ngài, tử nạn và phục sinh cho chúng ta. Đó là cốt lõi đức tin của tôi.  

Cuộc gặp gỡ thứ hai 

Tôi lăn xả vào việc học, ngoài ra còn dấn thân vào những công việc của xí nghiệp gia đình. Do đó tôi khá bận rộn. Sau thời gian học tập ở Trường Kinh Doanh và Thương Mãi, tôi đã duyệt xét tỉ mỉ những cơ hội liên quan đến nghề nghiệp đang mở rộng trước tầm mắt tôi. Lúc bấy giờ tôi quyết định đảm trách một vai trò ngày càng lớn mạnh ở ngay trong xí nghiệp gia đình để chuẩn bị một ngày nào đó giúp đỡ cha mẹ tôi làm cho xí nghiệp phát triển hơn lên.  

Vào thời điểm đó, tôi là con người dè dặt và e lệ. Tôi thiếu sự tự tin ở nơi tôi. Đó là một khuyết điểm lớn lao mà tôi đã thành công trong việc khắc phục được nhờ những cố gắng phi thường.  

Tôi luôn luôn nói với cha mẹ tôi là tôi sẽ làm việc trong tiệm bán ngũ kim của cha mẹ tôi, nhưng chẳng bao giờ sẽ làm việc cho một đại xí nghiệp có tên gọi là RONA. Sự tổ hợp loại đó không làm tôi thích thú, cho dù cha tôi hãnh diện ra mặt khi được đóng góp vào sự hình thành như vậy.

 Nhưng vài tuần lễ sau khi hoàn tất việc học, một cuộc thi tuyển nhân dịp đó đã đưa tôi vào làm việc ở RONA. Người ta ủy thác cho tôi trong vòng hai năm ở cương vị cố vấn đặc trách việc đưa ra một dịch vụ nghiên cứu thị trường để bán hàng hóa. Và tôi đã bắt gặp tiếng sét ái tình đối với ngành buôn bán ngũ kim và vật liệu xây cất!  

Trước hết tôi cảm thấy bị thu hút bởi sự thách đố mà RONA đã cung ứng cho tôi. Đó là một tổ hợp của những người dân tỉnh bang Québec đã chứng tỏ một sự lớn mạnh ngày cành vững chắc. Tổ hợp đó được nổi bật bởi sự linh động phi thường của những thành viên tổ hợp. Những người nầy đã bày tỏ và còn tiếp tục bày tỏ cho đến ngày hôm nay ý muốn của họ là ước mong xây đắp tổ hợp và nhìn thấy tổ hợp ngày càng lớn mạnh.  

Tôi cũng bị thu hút bởi nhóm chuyên viên trong tổ hợp khắng khít làm việc với nhau. Nhờ họ, tôi đã tìm thấy tinh thần gia đình mà trong đó tôi đã lớn lên. Một năm sau, tôi được bổ nhiệm làm giám đốc dịch vụ để nghiên cứu thị trường. Ba năm sau, họ giao phó cho tôi hồ sơ quảng cáo. Rồi năm 28 tuổi, tôi trở thành phó tổng giám đốc đặc trách nghiên cứu thị trường và phát triển.  

Khi gần ba mươi tuổi, tôi đã quyết định làm bảng tổng kết đầu tiên về cuộc đời tôi. Lúc đó tôi đang đi vào giai đoạn thứ hai rất quan trọng trong đời sống tôi. Vào cái tuổi đó, người ta bắt đầu ý thức thời gian đi qua rất nhanh. Người ta nhìn lại quá khứ và bắt đầu cân nhắc tầm mức quan trọng của những mục tiêu đã vạch ra hay ít nhất là những chuyển hướng của cuộc đời, bắt đầu từ sự thực hiện những dự án canh cánh bên lòng. Do đó người ta thấy rõ ràng hơn những ước mơ của đời mình.  

Tôi đã lợi dụng một chuyến đi về miền Tây Canada để suy tư về cuộc đời của tôi. Tôi đang có một nghề nghiệp trong tay khá đảm bảo. Tôi còn độc thân và chưa bao giờ gặp được một người đàn bà mà tôi ao ước lập gia đình với người đó. Lúc bấy giờ tôi đã ý thức về một điều rất quan trọng: tôi không cảm thấy sự độc thân đó như là một thách đố. Đứng trước sự ghi nhận đó, tôi cảm thấy sẵn sàng phác họa một chương trình với những mục tiêu rõ rệt cho đời sống cá nhân cũng như đời sống nghề nghiệp và tâm linh. 

Đối với đời sống cá nhân, tôi có những quyết định sau đây:  

- Tôi trao phó cho Chúa Quan Phòng để Ngài định liệu về vấn đề độc thân của tôi.

- Tôi đặt trọng tâm vào việc sống một đời sống quân bình, bao gồm việc đặt để một chỗ quan trọng trong cuộc sống của tôi đối với gia đình, bè bạn và sức khoẻ thể xác cũng như tâm linh.

- Tôi đặc biệt nhấn mạnh đến những cam kết trong đời sống xã hội.  

Đối với đời sống nghề nghiệp, tôi lấy nguồn cảm hứng từ câu nói của Aristote: “Người ta thành nhân bằng cách mỗi ngày vươn lên.” Vì vậy tôi ước định:  

- Tôi luôn luôn được thúc đẩy bởi động cơ chấp nhận những thách đố nhằm đưa tới việc thích thú phục vụ kẻ khác.

- Tôi muốn một ngày kia điều hướng định mệnh của công ty. Tôi đã có một thị kiến và tôi sẵn sàng làm việc tận lực để những tổ viên độc lập của RONA có một chỗ đứng xứng đáng với họ trong nền kinh tế của tỉnh bang Québec. 

Đối với đời sống tâm linh, tôi quyết định để Chúa ảnh hưởng nhiều hơn trong việc quyết định những mục tiêu vươn lên của tôi. Vì vậy tôi bắt đầu suy tư về đời sống đạo đức cá nhân và luân lý của tôi. Lúc bấy giờ tôi đã đưa ra ba nguyên tắc để đóng khung cuộc đời của tôi và phong cách quản trị của tôi:  

- Không làm việc chỉ vì đồng tiền mà thôi: đừng để đồng tiền làm trung tâm điểm những mục tiêu của đời sống, quí trọng đồng tiền nhưng không tôn sùng nó.

- Nên thận trọng với quyền bính: phải ý thức rằng quyền bính là một thứ nha phiến phát sinh những ảo tưởng khiến xa rời thực tế, xa rời những giá trị đích thực.

- Đừng bao giờ tìm kiếm sự biết ơn của quần chúng: điều gì tôi làm là làm cho Thiên Chúa, chứ không phải cho ai khác. Tôi muốn được phục vụ bằng cách lấy nguồn cảm hứng từ Đức Kitô không tự cho mình ngang hàng với Thiên Chúa. Ngài đã làm người để trở thành một tôi đòi (Xem Phi-lip-phê 2, 6-11).  

Tôi bắt đầu suy tư về cách thức làm cho đức tin của tôi lớn lên. Lại một lần nữa, tôi tự hỏi điều mà Thiên Chúa có thể chờ đợi nơi tôi. Câu hỏi thời danh: “Tôi có thể giúp bạn được không?” lại xuất hiện. Giúp đỡ Đức Kitô, phục vụ Ngài, trước hết, như thánh sử Mát-Thêu đã công bố là lo cho những người bị bỏ rơi, những người nghèo khó, những tù nhân, theo gương những khuôn mẫu thời đại là Jean Vanier, Mẹ Têrêxa… 

Tôi phải đối diện với một song đề. Một mặt, tôi chưa sẵn sàng buông bỏ hết mọi mục tiêu nghề nghiệp, tôi có nhiều việc phải làm trên đời nầy. Mặt khác, tôi muốn nuôi dưỡng đời sống nội tâm.  

Trước hết tôi thực hành thường xuyên hơn việc nhận lãnh bí tích Thánh Thể và bí tích hòa giải. Tiếp theo đó tôi đặt cho mình một kỷ luật bằng cách mỗi ngày dành nhiều thời giờ hơn cho việc cầu nguyện, đọc và suy gẫm Phúc Am. Dần dần tôi quen với sự thinh lặng của Đấng nghe tôi trong cô tịch. Sự cầu nguyện tới một cách tự nhiên trong cuộc sống nội tâm của tôi, như thần học gia Henri Nouwen đã quả quyết: “Cầu nguyện là suy tư và sống trước mặt Thiên Chúa. Do đó người ta cầu nguyện liên lĩ và đó cũng là cách thức mà tôi cầu nguyện.” 

Bắt đầu từ đó, sự cầu nguyện đã chiếm một vị thế căn bản trong đời sống tôi. Không có sự cầu nguyện, cuộc đời của tôi là một chuỗi tiếp nối những biến cố vô nghĩa, những hư từ, những cuộc hội ngộ vô bổ. Tôi cảm thấy một nhu cầu thâm sâu được hằng ngày chia sẻ với Chúa về những gì tôi sống và cảm nhận, những đau buồn cũng như mừng vui, những gì làm tôi hứng khởi hay nổi loạn. Tôi cũng chia sẻ với Chúa những quyết định của tôi để Ngài soi sáng.  

Đó không phải là những lời cầu nguyện thâm sâu. Thật ra những lời cầu nguyện đó chất chứa những vọng động, những mê lầm và những sự chia trí. Tuy nhiên những giây phút đó đã giúp tôi gặp lại sự tự do. Đó là những giây phút làm cho tôi được dịu bớt, được tiếp dưỡng khí và nhất là chứng minh cho tôi thấy rằng tôi được Thiên Chúa yêu mến.  

Vào lúc đặt lại vấn đề cho tuổi ba mươi – tam thập nhi lập – đời sống tâm linh của tôi còn giới hạn lắm. Tôi chưa hội nhập cuộc sống nội tâm đó vào trong đời sống của tôi một cách trọn vẹn. Dĩ nhiên cuộc sống nội tâm đó là một phần quan trọng, nhưng chưa trở thành chất xi-măng để hàn gắn tất cả những yếu tố kết thành đời sống lại với nhau. Nhưng tôi hy vọng Chúa sẽ làm cho tôi khám phá sự vươn lên có tính cách siêu đẳng mà Ngài đã mời gọi tôi. Đó là thời kỳ xây đắp trên sự cậy trông.

Cuộc gặp gỡ thứ ba  

Tôi đã điều khiển công ty RONA lúc 35 tuổi. Công ty lúc bấy giờ thật bấp bênh và bối cảnh kinh tế không thuận lợi lắm. Chúng tôi đã trải qua những thách đố thật lớn lao cần phải vượt lên:  

- Những khó khăn trầm trọng liên hệ đến tương quan lao động.

- Một tình hình kinh tế khá tế nhị.

- Những thành viên tổ hợp mà tinh thần gắn bó bị tan rã dần.  

Những quyết định khó khăn và phi thường phải được đưa ra một cách nhanh chóng. May mắn thay, để thi hành công tác đó một cách hữu hiệu, tôi đã dựa vào hai sức mạnh:  

- Một nhóm công nhân – nam cũng như nữ – cùng chia sẽ với tôi một thị kiến giống nhau, những giá trị như nhau và ôm ấp trong lòng cùng một thách đố giống nhau.

- Đức tin và sự tín thác nơi Chúa Quan Phòng.  

Mục tiêu trước tiên của chúng tôi là giải quyết những khó khăn do sự tương giao về lao động phát sinh mà phần lớn do sự giao tiếp có tính cách tồi tệ và vấn đề quản trị. Chúng tôi muốn làm mạnh và thực hiện những sự thay đổi bắt buộc, hòa nhịp cùng với toàn thể nhân viên. Để đạt được mục tiêu đó, chúng tôi phải học hỏi cho biết những nhân viên của chúng tôi muốn gì. Chúng tôi phải:  

- Tái lập sự giao tiếp giữa họ với nhau.

- Làm cho sự hợp tác và sự tín nhiệm của họ đáng được tôn trọng.

- Giải thích cho họ dự án của xí nghiệp, khuyến khích họ tham gia và trình bày cho họ thấy những lợi ích mà họ có thể rút ra từ đó.  

Với ban giám đốc, lúc bấy giờ tôi đã quyết định đơn giản hóa cấu trúc và kỹ thuật quản trị. Chúng tôi đưa ra một loạt những phương án đối thoại trên bình diện công ty. Mỗi ngày, chúng tôi phải để thời giờ nghe ngóng nhân viên và đối thoại với họ. Rất quan trọng đối với chúng tôi là đừng che giấu những mục tiêu đang theo đuổi, đừng chơi trên những từ ngữ, tránh những bài diễn văn dài giòng và những tuyên ngôn chứa đựng những nguyên tắc trống rỗng. Nói tắt một lời, điều quan trọng là không mập mờ che giấu điều gì.  

Những giá trị mà cha mẹ tôi truyền lại và sự cầu nguyện đã cho tôi nguồn cảm hứng trong việc thực hiện giai đoạn đầu tiên của kế hoạch phục hoạt công ty. Đối với tôi, điều quan trọng là phục vụ, có tinh thần trách nhiệm và dấy lên sự hiệp nhất nhờ vào niềm hy vọng và đức cậy trông. Lúc bấy giờ tôi cảm thấy bất lực trong việc thực hành công tác đó cho đến nơi đến chốn một mình được. Vì vậy tôi đã phó thác cho Chúa. Với Ngài và nhờ Ngài, tôi có thể thực hiện được sứ mệnh của tôi.  

Đường hướng đó đã cho phép tôi đưa ra nguyên tắc đầu tiên trong việc quản trị: mỗi người mà tôi làm việc với họ và cho họ là một người con yêu của Chúa, vượt ra ngoài trăm ngàn thứ dị biệt khác nữa. Tôi có thể nhận ra Thiên Chúa trong mỗi một người của họ.  

Sau vài tháng, tôi biết hết nhân viên của tôi. Và họ cũng bắt đầu biết tôi. Chúng tôi có thể gọi nhau bằng tên. Mỗi người trong xí nghiệp lúc bấy giờ được nhận diện bằng danh xưng. Chính nhờ Thánh ý Đức Chúa Cha mà mỗi người trong chúng tôi được nhận biết nhau qua nhân cách của nhau. 

Độ một năm sau ngày tôi lên chức tổng giám đốc RONA, một nửa nhân viên trong nghiệp đoàn phát động một cuộc đình công bất hợp pháp. Nửa kia tín nhiệm ban giám đốc và ở lại với công ty.  

Sau cuộc đình công khó khăn đó, mọi việc đều thay đổi. Những nhân viên ương ngạnh nhất đã ra đi. Chúng tôi đã bồi thường cho họ theo những điều kiện tự ý nghỉ việc một cách công bằng hợp lý. Một số nhân viên khác bị chế tài, nhất là bị giảm bớt thâm niên. Tất cả những nhân viên nào quyết định ở lại với công ty – bao gồm những nhân viên không tham gia vào cuộc đình công – chúng tôi cống hiến cho họ một sự cam kết hầu như vô điều kiện trong việc phục hoạt công ty.   

Trật tự được vãn hồi, nhưng công ty chưa sinh hoạt bình thường trở lại – business as usual – như người Anh thường nói. Vì vậy chúng tôi quyết định gia tăng nỗ lực để nghe ngóng và chúng tôi cũng khám phá ra rằng không phải chúng tôi không đáng khiển trách.  

Chính vào thời điểm đó mà chúng tôi đã tổ chức những buổi ăn sáng có tính cách gặp gỡ và tình trạng nầy kéo dài cho đến nay đã hơn mười năm. Trong những buổi gặp gỡ đó, chúng tôi đã mời nhân viên gợi ý và đưa ra những phát biểu khả dĩ đẩy mạnh những sinh hoạt công ty đến chỗ hoàn thiện hơn. Chúng tôi đã phân tích và tổng kết những điều gợi ý đó và đã đem ra thực hành những điều xem ra có hiệu quả nhất.  

Ngay từ khi gặt hái được những kết quả đầu tiên, chúng tôi đã san sẻ một phần lợi nhuận với nhân viên. Trong thời kỳ đó, chúng tôi còn đưa ra những chương trình hoạt động khác, thực thi những nghĩa cử tốt đẹp khác, ở mọi giai tầng của công ty.  

Chúng tôi cũng vấp phải một vài lỗi lầm…Nhưng một cách tổng quát, tôi rất hạnh diện về những phương án phục hồi đã mang lại cho công ty những kết quả tốt đẹp. Bốn năm sau, công ty đã có năng suất rất cao trên thị trường quốc tế trong lãnh vực hoạt động nầy. Tình hình tài chánh của chúng tôi rất khả quan và chúng tôi có thể tự tin để dấn thân vào những thách đố khác mà tương lai sẽ mang lại sự thịnh vượng cho 375 gia đình làm thành tổ hợp RONA.  

Trong những năm đó, sự làm việc đã chiếm hết chỗ trong cuộc sống của tôi và điều đó đã làm cho cuộc sống của tôi xem ra không được quân bình lắm. Trên bình diện cá nhân, không có gì quan trọng xảy ra. Nhưng trên bình diện tâm linh, thì hoàn toàn ngược lại. Tôi luôn luôn đặt để một tầm mức quan trọng có tính cách sinh tử vào việc cầu nguyện.  

Chính sự cầu nguyện đã đưa tôi vào sự tiếp cận với sự khôn ngoan duệ trí của Chúa. Tôi đã tìm kiếm sự gặp gỡ Đức Kitô. Tôi ao ước được nhận biết Ngài để hành động theo như Ngài gây niềm hứng khởi cho tôi ngõ hầu phục vụ Ngài càng ngày càng tốt đẹp hơn. Tôi mong muốn tất cả mọi quyết định mà chúng tôi đưa ra đều mang dấu ấn của sự công bình của Ngài và những quyết định đó tạo ra tinh thần hợp nhất ở chung quanh chúng tôi.  

Trong thời kỳ đó, đặc biệt tôi phải đối đầu với những giới hạn và lo âu của tôi là những thứ cản trở tôi lớn lên trong tình bác ái. Khi gần đến bốn mươi tuổi – tứ thập nhi bất hoặc – là thời điểm mà tôi phải đưa ra một bảng tổng kết mới.  

Tôi lại rơi vào một vị thế oái oăm: tôi đã thực hiện mọi ước mơ của tôi, trên bình diện cá nhân cũng như chức nghiệp. Khi điều đó xảy tới đối với những người khác, thông thường họ hướng về hoạt động chính trị…Nhưng đối với tôi, tôi không muốn chọn lựa con đường đó.  

Vì tôi muốn tiếp tục vươn lên, muốn tìm kiếm những thách đố mới. Tôi luôn luôn có ý muốn phục vụ người khác và đặc biệt là những người bị thương tổn nhiều nhất. Luôn luôn xuất hiện ở trong đầu óc tôi đoạn Phúc Am theo Thánh Mat-thêu: “Nước Thiên Chúa thuộc về những ai chia sẻ với người nghèo, người đau yếu, kẻ tù tội, người đói khát…” Nhưng trong giới kinh doanh, tôi không gặp những người nghèo, người đau ốm, kẻ tù tội.  

Tôi nóng lòng theo đuổi việc tìm kiếm một đời sống nội tâm thâm sâu hơn. Tôi tự vấn mình về những phương thức để đạt tới và tôi hy vọng một sự vượt thắng có ý nghĩa về mặt thiêng liêng cũng như một sự vươn lên trong đời sống chức nghiệp vậy. Tất cả những gì tôi biết về Chúa là do tôi học được khi ở bậc tiểu học, hoặc tìm kiếm một mình bằng cách đọc Lời Chúa hay qua trung gian việc làm ăn sinh sống trong cuộc đời thường, qua những người gặp gỡ hay qua những biến cố xảy tới.  

Cho tới ngày đó, đời sống tâm linh của tôi chỉ là một kinh nghiệm bản thân mà tôi không chia sẽ với ai hết. Lúc bấy giờ tôi cảm thấy nhu cầu phải tiếp cận với Giáo hội. Tôi từ bỏ mọi của cải vật chất đã tạo thành một cản trở cho sự tiếp cận đó. Tôi đã bán căn nhà sang trọng đang ở, đã thay đổi xe hơi rẻ tiền hơn và tôi đã đưa ra một kế hoạch san sẻ với người khác. Đó không phải là một đường hướng tự bần cùng hóa mà là một phương cách giải thoát tôi khỏi của cải vật chất ràng buộc và đảm bảo sự tự do của tôi.  

Lần đầu tiên trong đời, tôi quyết định chia sẻ cuộc sống nội tâm với những người khác. Tôi muốn gặp gỡ những người mà tôi có thể đồng hành với họ và ngược lại họ giúp đỡ tôi nhận ra điều mà tôi có thể dâng hiến cho Chúa và trao ban cho người thân cận nhiều hơn.  

Thiên Chúa Quan Phòng đã dẫn đưa tôi đến với các linh mục Xuân Bích là những người có thể giúp tôi nhận chân điều đó. Tôi đã gặp gỡ những linh mục tỏ ra biết nghe tôi một cách nhẫn nại và không chút thành kiến. Tôi đã trao phó cho họ giấc mơ của tôi là được phục vụ Thiên Chúa hoàn toàn như Ngài mong muốn.  

Những cuộc thảo luận đó đã giúp tôi ý thức rằng có một số trực giác của tôi cần kiểm chứng lại. Tôi không muốn khước từ điều gì với Chúa. Tôi muốn đi cho tới cùng đích. Nhờ sự hỗ trợ của chủ tịch hội đồng quản trị RONA, những thành viên của hội đồng đã cho tôi được nghỉ giả hạn không lương sáu tháng để cho phép tôi kiểm điểm lại cuộc sống và lấy những quyết định chín chắn hơn.  

Các linh mục Xuân Bích đã mở rộng vòng tay đón tiếp tôi. Ở trong tòa nhà của họ, tôi khám phá ra đó là một nơi mà tôi có thể lợi dụng một chút thinh lặng và sự cô tịch, đồng thời đào sâu những kiến thức về thần học. Nhưng nhất là tôi được tự do và có thời giờ để suy tư về Thánh ý Thiên Chúa, về những trách nhiệm của người Kitô hữu, về những biến cố ảnh hưởng đến đời sống cá nhân, về việc điều hành xí nghiệp, về những thách đố lớn lao của xã hội chúng ta như môi sinh, phẩm giá phụ nữ, việc toàn cầu hóa v.v…. 

Khi được xem xét trên bình diện thuần túy kinh tế, việc toàn cầu hóa được nhận thức – đúng hay sai –  như là một sự chi phối có tính cách thương mãi và tài chánh của thế giới trên sự phát triển về dân số, có tính cách nhân sinh và xã hội của quả địa cầu.  

Nhưng nếu người ta xem xét với con mắt đức tin, sự toàn cầu hóa có thể là cơ duyên làm cho mọi người trên thế giới gần gũi lại với nhau. Việc toàn cầu hóa có thể ưu đãi sự học hỏi, sự giao tiếp, sự chia sẻ và cho phép chúng ta tiếp tay với những người nghèo hèn cùng cực nhất.  

Qua những buổi suy tư có tích cách nội tâm đó, tôi nhận ra rằng Thiên Chúa đã trao phó cho tôi những trách nhiệm lớn lao đối với nhiều người. Tôi hiểu ra rằng khi đóng vai trò đứng đầu công ty RONA – với hết mọi khả năng của tôi nhờ vào những giáo huấn của Chúa Kitô – tôi đã đáp lại Thánh Ý của Ngài đối với tôi.  

Vì vậy tôi phải trở lại với công việc trần thế của tôi, cho dù điều đó đòi hỏi nơi tôi rất nhiều trên bình diện thể lý, tâm lý và tâm linh nữa. Tôi cũng phải tiếp tục dấn thân vào những hoạt động của những cơ quan từ thiện mà tôi đã hỗ trợ từ vài năm qua. Nói tóm lại, tôi phải tiếp nối vai trò giáo dân của tôi là được mời gọi làm chứng nhân giữa giòng đời trước sự hiện diện của Chúa. Lúc bấy giờ tôi đã ôm ấp một chương trình hành động như sau:  

1.- Tôi sẽ trở lại đời sống tư chức để vừa bảo vệ những nguyên tắc cá nhân và những giá trị Phúc Am. Tôi cũng muốn hiện thực hóa tinh thần hợp tác trong bối cảnh toàn cầu hóa.  

2.- Tôi phải đưa lên hàng đầu những giá trị mà công ty phải tôn trọng như: 

Sự tôn trọng nhân cách bằng cách:

- Tạo những công ăn việc làm mà điều kiện làm việc là tôn trọng nhân cách đó. Sự tạo ra những công ăn việc làm còn là phương cách tốt nhất để chống lại sự nghèo đói và giúp đỡ những người cùng đinh trong xã hội.

- Đầu tư trong việc phát triển tiềm năng của những nhân viên làm việc cho công ty.  

Luôn luôn tìm kiếm sự công ích bằng cách mở rộng những nguyên tắc căn bản về tinh thần hợp tác qua những tương giao giữa những tổ viên, những cổ đông, những nhân viên, những khách hàng và những người hùn hạp… 

Sự cần thiết làm cho công ty được thịnh vượng để san sẻ, nhưng không được phung phí, đối với những tổ viên, những cổ đông, những nhân viên và những người nghèo khổ trong xã hội.  

Nói vắn tắt, tôi sẽ giúp đỡ những thành phần trong đại gia đình RONA để họ tìm kiếm sự công ích với sự tôn trọng nhân cách của họ và với tinh thần chia sẻ.  

Tổ hợp của chúng tôi bao gồm 375 gia đình đã cùng nhau chung góp sự chuyên môn về mãi hóa và quản trị, về mãi lực và những khả năng của họ. Giúp một tổ viên RONA trở nên thịnh vượng là cho phép một gia đình được lớn lên trong nhiều thê hệ và củng cố những mối dây liên hệ nối kết những tổ viên lại với nhau. Điều đó cũng cho phép giới trẻ như tôi khám phá ra niềm vui được hoạt động trong một môi trường mang bầu khí gia đình.  

Sự liên kết là một giá trị hằng đầu của tổ hợp chúng tôi. Những tổ viên cũng được khích lệ lớn lên trong những cộng đoàn của họ tùy vào bối cảnh kinh tế và sự cam kết trên bình diện xã hội. Sự liên kết và hợp nhất là những đức tính cốt yếu để nhân bản hoá sự toàn cầu hóa vì nếu để sự toàn cầu hóa tự phát triển một mình sẽ đe dọa nhân cách của những cá nhân.  

Bốn năm sau khi tôi trở lại trong chức vụ tổng giám đốc RONA, bộ mặt của công ty đã có phần nào thay đổi. Trên bình diện tập thể, chúng tôi đã làm được những việc đáng kể sau đây:  

- Tạo hơn 2500 công ăn việc làm một cách trực tiếp hay gián tiếp.

- Đặt ưu tiên vào việc tập sự và huấn nghệ để nhân viên chúng tôi thích ứng với nền kinh tế mới.

- Chấp nhận một kế hoạch phát triển và mở mang để có thể phân phối một cách công bằng về tài nguyên ở ngay trong công ty và các tổ viên.

- Đưa ra một chương trình tham gia của các tổ viên vào sự phát triển của công ty.

- Lập quỹ RONA để giúp đỡ giới trẻ đang lâm vào hoàn cảnh khó khăn về mặt tài chánh.  

Nói tóm lại, chúng tôi đã biết nhân bản hóa một thực thể tổ hợp và –  cũng như bao nhiêu xí nghiệp khác – có thể đã hoạt động trong bầu không khí lạnh nhạt và vô hồn. Chúng tôi đã thắng cuộc bằng cách làm cho RONA trở thành một nơi cung ứng những dịch vụ tốt nhất và đồng thời xây đắp trên căn bản hằng ngày sự hãnh diện của các tổ viên và của toàn thể nhân viên.  

Tôi muốn chia sẻ với quí bạn hai kinh nghiệm về sự tha thứ của công ty vào những năm 1998 và 1999 và đã minh họa sự ưu tư của chúng tôi liên hệ đến nhân phẩm.  

Kinh nghiệm thứ nhất xảy tới khi hội đồng quản trị đã đáp lại lời thỉnh cầu của một tổ viên mong ước được trở về với tổ hợp. Tổ viên nầy đã rời bỏ tổ hợp năm năm về trước. Mặc dù những hoàn cảnh chua xót xảy ra khi sự đổ vỡ xuất hiện, các thành viên hội đồng đã kết luận rằng sự liên kết phải vượt lên trên mọi cảnh ngộ. Vì vậy họ đã chấp thuận sự trở về của tổ viên đó.  

Kinh nghiệm thứ hai về sự tha thứ liên hệ đến những nhân viên thuộc trung tâm phân phối hàng hóa đã tham gia vào cuộc đình công bất hợp pháp trước kia. Bảy năm sau, sáu chục nhân viên đó đã đệ đơn xin ban giám đốc RONA khoan hồng cho họ – có nghĩa là bổ nhiệm họ vào lại những nơi mà họ đã bị mất việc trước kia, tiếp theo sau cuộc đình công, kể cả việc duy trì thâm niên. Muốn được như vậy, phải có sự chấp thuận của những nhân viên không đình công cũng đông đảo như những nhân viên đình công. Đơn thỉnh cầu đó không được chấp thuận ngay.  

Cho dù sự chống đối của những chuyên viên về lao động, chúng tôi đã cùng nhau cố gắng suy nghĩ trên căn bản có tính cách tập thể đối với sự khoan hồng tha thứ. Sự suy tư đó không những được xem xét trên ý nghĩa của sự tha thứ tức thời mà còn theo ý nghĩa triết lý và thiêng liêng nữa.  

Tiến trình vận động đó đã kéo dài chín tháng. Tôi thiết tưởng điều đó đã cho phép một sự suy nghĩ chín chắn hơn bởi vì căn cứ trên sự tôn trọng nhân cách của mỗi một người – nam cũng như nữ. Kết thúc tiến trình vận động đó, vào tháng mười năm 1999, 86% nhân viên chấp thuận duy trì thâm niêm của những đồng nghiệp cũ.  

Kết luận  

Theo văn hào Saint-Exupéry, kết hợp những con người lại với nhau là một nghề nghiệp cao đẹp nhất trên đời nầy. Tôi cảm thấy được ưu đãi vì đó là nghề nghiệp mà tôi đã và đang đảm trách.  

Sự triển nở đời sống tâm linh của tôi giờ đây đặt căn bản trên nghệ thuật sống bao gồm việc sống một cuộc đời quân bình. Tôi nhận chân rằng tầm mức quan trọng không những phải hoạch định những kế hoạch cho cuộc sống cá nhân và nghề nghiệp, mà còn phải có một kế hoạch cho cuộc sống thiêng liêng, siêu việt lên trên đời sống của chính bản thân tôi.  

Xét trên bình diện đó, tất cả những gì tôi sống, tôi nói, tôi làm, trao tặng hay chia sẻ chỉ làm tung lên một lớp bụi mờ mà thôi. Mỗi ngày, tôi cố gắng để nhắc nhở mình rằng, bằng cách kết hợp với Chúa Kitô và Đức Thánh Linh, tôi sống trên đời nầy để phục vụ một cách khiêm tốn các anh chị em tôi. Tôi cũng cố gắng nhắc nhở tôi là khi tôi sẽ trình diện trước mặt Chúa, với đôi tay dang ra, tôi sẽ thấy rằng vinh quang lớn lao nhất của tôi là được làm con cái Ngài. 

Nhà Văn Hương Vĩnh

Tác giả:  Nhà Văn Hương Vĩnh

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!