Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng

BBT CGVN YouTube
Thánh Kinh Công Giáo
Cầu nguyện bằng email
Hội Đồng Giám Mục VN
Liên Lạc

Văn Kiện Vatican 2

Lectio divina

Suy Niệm & Cầu Nguyện

Học Hỏi Kinh Thánh

Lớp KT Sr Cảnh Tuyết

Nova Vulgata

Sách Bài Đọc UBPT

LỜI CHÚA LÀ ÁNH SÁNG

GH. Đồng Trách Nhiệm

TAN TRONG ĐẠI DƯƠNG

Video Giảng Lời Chúa

Giáo Huấn Xã Hội CG

Tuần Tin HĐGMVN

Vụn Vặt Suy Tư

Giáo Sĩ Việt Nam

ThăngTiến GiáoDân

Bản Tin Công Giáo VN.

Chứng Nhân Chúa Kitô

Thánh Vịnh Đáp Ca

Phúc Âm Nhật Ký

Tin Vui Thời Điểm

Tin Tức & Sự Kiện

Văn Hóa Xã Hội

Thi Ca Công Giáo

Tâm Lý Giáo Dục

Mục Vụ Gia Đình

Tư Liệu Giáo Hội

Câu Chuyện Thầy Lang

Slideshow-Audio-Video

Chuyện Phiếm Gã Siêu

Các Tác Giả
  Augustinô Đan Quang Tâm
  Ban Biên Tập CGVN
  Bác sĩ Ng Tiến Cảnh, MD.
  Bác Sĩ Nguyễn Ý-Đức, MD.
  Bùi Nghiệp, Saigon
  Bosco Thiện-Bản
  Br. Giuse Trần Ngọc Huấn
  Cursillista Inhaxiô Đặng Phúc Minh
  Dã Quỳ
  Dã Tràng Cát
  Elisabeth Nguyễn
  Emmanuel Đinh Quang Bàn
  Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB.
  EYMARD An Mai Đỗ O.Cist.
  Fr. Francis Quảng Trần C.Ss.R
  Fr. Huynhquảng
  Francis Assisi Lê Đình Bảng
  Gia Đình Lectio Divina
  Gioan Lê Quang Vinh
  Giuse Maria Định
  Gm Phêrô Huỳnh Văn Hai
  Gm. Giuse Đinh Đức Đạo
  Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
  Gm. JB. Bùi Tuần
  Gm. Nguyễn Thái Hợp, op
  Gm. Phêrô Nguyễn Khảm
  Gs. Đỗ Hữu Nghiêm
  Gs. Ben. Đỗ Quang Vinh
  Gs. Lê Xuân Hy, Ph.D.
  Gs. Nguyễn Đăng Trúc
  Gs. Nguyễn Văn Thành
  Gs. Phan Văn Phước
  Gs. Trần Duy Nhiên
  Gs. Trần Văn Cảnh
  Gs. Trần Văn Toàn
  Hạt Bụi Tro
  Hồng Hương
  Hiền Lâm
  Hoàng Thị Đáo Tiệp
  Huệ Minh
  HY. Nguyễn Văn Thuận
  HY. Phạm Minh Mẫn
  JB. Lê Đình Nam
  JB. Nguyễn Hữu Vinh
  JB. Nguyễn Quốc Tuấn
  Jerome Nguyễn Văn Nội
  Jorathe Nắng Tím
  Jos. Hoàng Mạnh Hùng
  Jos. Lê Công Thượng
  Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
  Joseph Vũ
  Khang Nguyễn
  Lê Thiên
  Lm Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, HKK
  Lm Đaminh Hương Quất
  Lm. Anmai, C.Ss.R.
  Lm. Anphong Ng Công Minh, OFM.
  Lm. Anrê Đỗ Xuân Quế op.
  Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
  Lm. Đan Vinh, HHTM
  Lm. Đỗ Vân Lực, op.
  Lm. G.Trần Đức Anh OP.
  Lm. GB. Trương Thành Công
  Lm. Giacôbê Tạ Chúc
  Lm. Gioan Hà Trần
  Lm. Giuse Hoàng Kim Đại
  Lm. Giuse Lê Công Đức
  Lm. Giuse Ngô Mạnh Điệp
  Lm. Giuse Trần Đình Thụy
  Lm. Giuse Vũ Thái Hòa
  Lm. Inhaxio Trần Ngà
  Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
  Lm. JB Trần Hữu Hạnh fsf.
  Lm. JB. Bùi Ngọc Điệp
  Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh
  Lm. Jos Đồng Đăng
  Lm. Jos Cao Phương Kỷ
  Lm. Jos Hoàng Kim Toan
  Lm. Jos Lê Minh Thông, OP
  Lm. Jos Nguyễn Văn Nghĩa
  Lm. Jos Phan Quang Trí, O.Carm.
  Lm. Jos Phạm Ngọc Ngôn
  Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
  Lm. Jos Trần Đình Long sss
  Lm. Jos.Tuấn Việt,O.Carm
  Lm. Lê Quang Uy, DCCT
  Lm. Lê Văn Quảng Psy.D.
  Lm. Linh Tiến Khải
  Lm. Martin Ng Thanh Tuyền, OP.
  Lm. Minh Anh, TGP. Huế
  Lm. Montfort Phạm Quốc Huyên O. Cist.
  Lm. Ng Công Đoan, SJ
  Lm. Ng Ngọc Thế, SJ.
  Lm. Ngô Tôn Huấn, Doctor of Ministry
  Lm. Nguyễn Hữu An
  Lm. Nguyễn Thành Long
  Lm. Nguyễn Văn Hinh (D.Min)
  Lm. Pascal Ng Ngọc Tỉnh
  Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn
  Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
  Lm. Phạm Văn Tuấn
  Lm. Phạm Vinh Sơn
  Lm. PX. Ng Hùng Oánh
  Lm. Raph. Amore Nguyễn
  Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ
  Lm. Tôma Nguyễn V Hiệp
  Lm. Trần Đức Phương
  Lm. Trần Mạnh Hùng, STD
  Lm. Trần Minh Huy, pss
  Lm. Trần Việt Hùng
  Lm. Trần Xuân Sang, SVD
  Lm. TTT. Võ Tá Khánh
  Lm. Vũ Khởi Phụng
  Lm. Vĩnh Sang, DCCT
  Lm. Vinh Sơn, scj
  Luật sư Đoàn Thanh Liêm
  Luật sư Ng Công Bình
  Mẩu Bút Chì
  Mặc Trầm Cung
  Micae Bùi Thành Châu
  Minh Tâm
  Nữ tu Maria Hồng Hà CMR
  Nguyễn Thụ Nhân
  Nguyễn Văn Nghệ
  Người Giồng Trôm
  Nhà Văn Hương Vĩnh
  Nhà văn Quyên Di
  Nhà Văn Trần Đình Ngọc
  Nhạc Sĩ Alpha Linh
  Nhạc Sĩ Phạm Trung
  Nhạc Sĩ Văn Duy Tùng
  Phaolô Phạm Xuân Khôi
  Phêrô Phạm Văn Trung
  Phó tế Giuse Ng Xuân Văn
  Phó tế JB. Nguyễn Định
  Phùng Văn Phụng
  Phạm Hương Sơn
  Phạm Minh-Tâm
  PM. Cao Huy Hoàng
  Sandy Vũ
  Sr. Agnès Cảnh Tuyết, OP
  Sr. M.G. Võ Thị Sương
  Sr. Minh Thùy, OP.
  Têrêsa Ngọc Nga
  Tín Thác
  TGM. Jos Ngô Quang Kiệt
  TGM. Phaolô Bùi Văn Đọc
  Thanh Tâm
  thanhlinh.net
  Thi sĩ Vincent Mai Văn Phấn
  Thiên Phong
  Thy Khánh
  Thơ Hoàng Quang
  Tiến Hùng
  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập
  Tiến Sĩ Tâm Lý Trần Mỹ Duyệt
  Tiến Sĩ Trần Xuân Thời
  Trầm Tĩnh Nguyện
  Trầm Thiên Thu
  Trần Hiếu, San Jose
  Vũ Hưu Dưỡng
  Vũ Sinh Hiên
  Xuân Ly Băng
  Xuân Thái
Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
  Chứng Nhân Chúa Kitô
CHỨNG NHÂN GIỮA GIÒNG ĐỜI IV.- LINH MỤC EMMETT JOHNS

 

ĐỜI THƯỜNG

 Cha Emmett Johns – được gọi “Pops” một cách thân mật – là một linh mục có văn bằng tiến sĩ luật khoa hạng danh dự, thành viên của Hội Đoàn những người được trao tặng Huân Chương Canada. Cha cũng được trao tặng mười hai giải thưởng quan trọng khác. Cha là sáng lập viên tổ chức “Chúa Nhân Lành xuống đường” (Le Bon Dieu dans la rue) và là người bạn của hằng ngàn trẻ em bụi đời, của những thanh thiếu niên và những người túng thiếu.

 Nếu giá trị một con người được đo lường bằng uy lực và chiều sâu của niềm xác tín, những giá trị cá nhân và sự trung tín trong tình bằng hữu, sự độ lượng trọn vẹn đối với kẻ khác, sự tận tâm không biết mỏi mệt đối với sự an sinh của những kẻ yếu kém và nghèo khổ nhất thì cha Emmett Johns là người mà không ai có thể vượt qua được.

 TỪ GIẤC MƠ TRUYỀN GIÁO Ở TRUNG QUỐC…ĐẾN VIỆC PHỤC VỤ NHỮNG THANH THIẾU NIÊN BỤI ĐỜI TRÊN NHỮNG ĐƯỜNG PHỐ MONTRÉAL

 Ước vọng đi truyền giáo ở Trung quốc

 Cũng như nhiều thanh thiếu niên thuộc thế hệ tôi được lớn lên trong niềm tin Công giáo, điều mong ước sống đời truyền giáo đã được khơi dậy khá sớm trong cuộc đời tôi.

 Cha mẹ tôi là những người lao động cần cù. Họ tin tưởng vào giá trị tuyệt đối của lời cầu nguyện và họ để dành nhiều thời giờ cho công việc đó. Họ đặt mua hai nguyệt san thông tin về những cộng đoàn truyền giáo ở Trung quốc: cộng đoàn các nữ tu Đức Mẹ Vô Nhiễm và cộng đoàn các nam thừa sai Scarboro. Cộng đoàn nầy mang danh xưng là “Sứ Vụ Truyền Giáo ở Trung Quốc” (China Mission).

 Chị tôi và tôi rất thích đọc những tạp chí nầy. Bắt đầu từ những hình ảnh xuất hiện trên những tạp chí đó, chúng tôi tạo ra những bối cảnh đặc thù cho trường hợp chúng tôi.

 Trung quốc luôn hấp dẫn tôi rất nhiều, vì mang một sắc thái hoàn toàn có tính cách ngoại lai. Trước tiên, đất nước đó ở đầu cùng bên kia quả địa cầu và mọi sự hoàn toàn khác biệt: ngôn ngữ, văn hóa, màu da đến cả hình dáng đôi mắt. Tất cả những điều đó đã mời gọi tôi lăn xả vào một cuộc mạo hiểm đầy quyến rủ nhưng cũng đòi hỏi rất nhiều xả thân.

 Nhất là người dân Trung Hoa không được may mắn như tôi nhận biết Thiên Chúa, được nhận lãnh bí tích Thánh Tẩy, được rước Thánh thể hằng ngày. Họ không biết cái chết không phải chấm dứt mọi chuyện và hạnh phúc chờ đợi chúng ta ở trên kia hoàn toàn vượt xa thứ hạnh phúc tạm bợ ở dưới trần thế nầy…

 Khi trở về với thực tại, tôi nhận ra rằng đất nước Trung Hoa thật quá xa xôi. Tôi cũng tự nhủ việc học ngôn ngữ Trung Hoa không phải dễ dàng. Sự đánh vần đối với ngôn ngữ đó không có chút liên hệ gì với Anh ngữ là tiếng nói mẹ đẻ của tôi hay Pháp ngữ mà lúc bấy giờ tôi đọc và viết sành sỏi vì được lớn lên trong môi trường sinh sống của những người nói tiếng Pháp. Trong thực tế, biết đâu Chúa đã không đòi hỏi tôi phải hy sinh lớn lao như vậy.

 Ở bậc tiểu học

 Những năm ở bậc tiểu học đã trôi qua một cách êm ả không có vấn đề gì. Sự hiện diện của Thiên Chúa đối với tôi là điều hiển nhiên. Cũng như đa số trẻ con cùng tuổi, tôi được bao quanh bởi những người có đức tin vững mạnh và sống đạo một cách sâu sắc. Mỗi ngày mẹ tôi đi xem lễ ở nhà thờ Thánh Denis, chỉ cách nhà chúng tôi chừng mấy bước. Cha tôi đi xưng tội hàng tháng và cấm phòng hằng năm.

 Chúng tôi có những người láng giềng dễ thương là các nữ tu Sainte-Croix (Thánh Giá). Chúng tôi thường thấy họ đi tản bộ vừa đi vừa lần hạt. Nhà chúng tôi cũng ở trước sân trường Champagnat. Tôi thường chơi “bi” với các sư huynh là những người đã sử dụng những hòn bi tịch thu được của đám học sinh trong những giờ học.

 Tôi không nhiệt thành đạo đức hơn ai, nhưng tôi luôn hăng say sống động. Vào đầu niên học, nhân ngày tĩnh tâm, tôi luôn là người đầu tiên trả lời hết mọi câu hỏi do các vị thuyết giảng đặt ra. Sự nhiệt thành đó đã làm bực mình chị tôi – lớn hơn tôi mười sáu tháng. Chị tôi bị trêu ghẹo bởi những bạn bè cùng lớp về đứa em nhí nhảnh đã trả lời tuốt luột mọi câu hỏi!

 Đối với tôi, câu hỏi nầy về Thiên Chúa: sự hiện diện và tác động của Ngài trong cuộc sống tôi cũng như trong vũ trụ luôn luôn xem ra quan trọng. Điều đó cũng ảnh hưởng trên những trò chơi trẻ con giữa tôi với các bạn bè nói tiếng Pháp. Chúng tôi đã chế tạo khí giới để chơi đánh giặc, nhưng không chấp nhận bất cứ sự bạo hành nào! Có lẽ đó không phải là điều nghịch lý duy nhât trong cuộc sống của tôi mà thôi đâu.

Ở bậc trung học

Khi lên trung học, cha mẹ tôi đã gởi tôi theo học trường D’Arcy McGee High School – một trường trung học công lập Công giáo do các sư huynh điều khiển. Cha mẹ tôi muốn tôi hấp thụ một nền giáo dục tốt nhất. Vì vậy họ đã quyết định ký thác tôi cho những sư huynh đó là những nhà giáo dục nổi tiếng đối với thanh thiếu niên và tôi biết ơn sâu sa các sư huynh đó.

Ở trường trung học đó, thỉnh thoảng chúng tôi đón tiếp những linh mục tìm cách gợi lên những ơn gọi trong tâm hồn trẻ nhỏ. Tôi nhớ lại một vị thừa sai Dòng Tận Hiến Đức Mẹ Vô Nhiễm đã nói cho chúng tôi về sứ vụ truyền giáo của ngài ở miền Cực Bắc. Lúc bấy giờ tôi tự nghĩ: “Ở vùng đó quá lạnh!”

 Về sau, một vị thừa sai khác từ Phi châu trở về đã đến nói chuyện với chúng tôi về những sự tàn phá do các loại côn trùng gây ra trong những vùng truyền giáo. Lập tức tôi tự nhủ: “Tôi không thích đàn kiến!”

 Chúng tôi cũng đón tiếp một linh mục triều đến thăm viếng, nhưng vị linh mục nầy không hấp dẫn tôi mấy. Cuộc sống của ngài ở giáo xứ đối với tôi xem ra hơi tẻ nhạt. Đời sống đó không lôi cuốn tôi bao nhiêu. Có lẽ đã đến lúc tôi cảm thấy hứng thú làm những công việc khác.

 Vào cuối niên học thứ tư ở bậc trung học, giáo sư môn văn chương của tôi đã bắt chúng tôi bình luận một bài thơ tự thuật của Francis Thompson với tựa đề: “The Hound of Heaven” (Săn Đuổi Nước Trời). Tác giả thuật lại cuộc đời và hành trình tâm linh của mình.

 Ông đề cập tới sự trốn chạy Thiên Chúa là Đấng đã mời gọi ông và đồng thời cũng gieo rắc kinh hoàng cho ông. Để thoát khỏi cảnh ngộ bi đát đó, ông đã tìm nơi ẩn náu – đó là trường hợp thông thường xảy ra – trong men rượu, hút xách nghiện ngập và chơi bời trác táng cho đến ngày mà cuối cùng ông bị nghiền nát trước Đấng đã theo đuổi ông như thợ săn đuổi theo con thú bị săn.

 Lúc bấy giờ ông nhận ra rằng những bàn tay đè nặng trên ông không phải để tấn công ông. Đúng hơn những bàn tay đó là của một người thương yêu ông và đã đến với ông để ôm ấp ông trong vòng tay từ ái của mình.

 Tôi hồi tưởng bài thơ đó như mới xảy ra hôm qua và nhất là sự dẫn giải tuyệt vời của vị giáo sư tôi là sư huynh Ignatius. Sự bình chú bài thơ nầy của thầy Ignatius đã gây xúc động mạnh mẽ nơi tôi và chắc chắn vị giáo sư đó đã ảnh hưởng đến quyết định của tôi đi gõ cửa các thừa sai ở Scarboro – tương đương với cộng đoàn những thừa sai ở Pont-Viau nói tiếng Anh – sau khi tôi mãn trung học. Lúc bấy giờ tôi được mười bảy tuổi.

 Cộng đoàn thừa sai Scarboro

 Quả thật chính lúc đó tôi đã khởi đầu một cuộc sống nghiêm túc về học vấn cũng như làm việc để có thể đưa dẫn tôi đến Trung quốc hầu thực hiện giấc mơ mà tôi tin tưởng đó cũng là lời mời gọi của Chúa. Trước hết, tôi đã hoàn tất năm đầu tiên nhà tập cũng khá vất vả.

 Lần đầu tiên trong đời, tôi sống xa gia đình và đó là điều mà tôi mất mát nhiều nhất. Hơn nữa, tôi cảm thấy luôn bị theo dõi, dò xét từng cử chỉ nhỏ nhặt nhất của tôi. Những công việc lau chùi nhà cửa bếp núc dành cho tập sinh không làm tôi hứng thú mấy và tôi cảm thấy mình không có năng khiếu về những công việc đó.

Sau khi kết thúc thời gian nhà tập, mặc dù có những thái độ ngập ngừng của các vị bề trên cộng đoàn, tôi cũng được nhận vào lớp triết học trong vòng hai năm. Tiếp theo đó, tôi phải bắt đầu học thần học để trở thành linh mục thừa sai ở Trung quốc.

Cuối năm thần học thứ nhất – sau khi sống bốn năm với cộng đoàn truyền giáo Scarboro – tôi đã trải qua kinh nghiệm chua chát lần đầu vì cảm thấy bị thất bại và ruồng bỏ trong cuộc đời tôi. Lúc bấy giờ các vị bề trên đã nói rõ ràng là họ không chấp nhận tôi theo đuổi việc đào tạo ở cộng đoàn họ nữa.

Họ chỉ nhận xét rằng tôi không trưởng thành đủ để trở nên thừa sai. Không ai hỏi ý kiến tôi. Tôi chỉ biết tuân phục điều được gọi là sự quyết định của quyền bính! Tôi phải xa rời cộng đoàn đó và tạm thời gác bỏ – ít nhất là trong lúc đó – giấc mơ làm thừa sai của tôi.

 Cộng đoàn truyền giáo Maryknolls

 Lúc bấy giờ tôi bắt đầu trở lại thành phố Montréal – vừa đớn đau vừa nhục nhã ê chề. Ngoài tình cảm cá nhân đối với nổi thất bại đớn đau kia, tôi còn có cảm tưởng đã làm thất vọng tất cả những ai đặt niềm hy vọng tràn trề nơi tôi và đã tin tưởng là tôi phải cố gắng hết sức để trở thành một vị thừa sai tốt.

 Tính bướng bỉnh của tôi lại dẫn đưa tôi tới gõ cửa một cộng đoàn thừa sai khác – đó là cộng đoàn Maryknolls ở tiểu bang Nửu Ước. Lại một lần nữa, cha bề trên mà tôi tin tưởng là người có ấn tượng tốt đẹp về tôi, đã gợi ý cho tôi là nên từ bỏ ý muốn trở thành thừa sai và định hướng cuộc đời một cách khác đi. Ngài căn cứ trên việc thẩm định của các vị thừa sai ở Scarboro là những người đã theo dõi và dò xét tôi trong bốn năm trường.

 Thêm một lần nữa, tôi lại rơi vào một giấc mơ gãy đổ và một tình cảm thất bại tồi tệ. Tôi bị lúng túng khá lâu trong việc truy tầm một định hướng cho cuộc đời mình. Tôi tự hỏi tại sao Thiên Chúa không muốn tôi đi rao giảng Tin Mừng cho dân tộc Trung Hoa?

Đại Chủng Viện Montréal

Một người cậu rất thương mến tôi, lúc bấy giờ đã khuyến khích tôi nên hướng đến Đại Chủng Viện Montréal để theo đuổi thần học. Nếu trở thành linh mục mà tôi không thể phục vụ Giáo hội ở Trung quốc, ít nhất tôi cũng có thể phục vụ Giáo hội ở đây hay ở nơi nào khác trên thế giới. Chúa đã tỏ bày cho tôi dấu chỉ của Ngài qua người cậu đó!

Ở Montréal cuộc sống chủng sinh không dễ dàng gì. Tôi còn mang trong người vết thương bầm dập của sự thất bại và điều đó đã gây cho tôi những nổi ưu tư không tả. Chị tôi là người thông cảm ít nhiều nổi đớn đau của tôi, lúc bấy giờ đã gởi cho tôi một tấm thiệp để khích lệ tôi. Chị chỉ viết cho tôi mấy chữ duy nhất: “Hãy mỉm cười đi!” (Smile!). Tôi đã gắn tấm thiệp đó vào khung kiếng soi mặt mà mỗi sáng sớm tôi đứng trước đó để cạo râu.

Bắt đầu từ đó, tôi tập mỉm cười bằng cách cố làm cho những bắp thịt ở khuôn mặt được thư giản. Phải nói được rằng những điều thực tập đó đã giúp tôi thành công khá nhiều, bởi vì một ngày kia, khi rời khỏi phòng ngủ của tôi để đi vào nhà thờ nguyện ngắm…tôi đã mỉn cười, cho đến đỗi những đại chủng sinh cùng lớp đã hỏi tôi làm sao mà vui vẻ đến thế, tươi cười như thế vào lúc sáu giờ sáng mai!

Tôi phải công nhận rằng tôi rất mộ mến môi trường sinh sống ở Đại Chủng Viện Montréal. Lúc bấy giờ chúng tôi có khoảng ba trăm đại chủng sinh. Đối với tôi đó là một môi trường thư giản hơn nơi Scarboro mà chúng tôi chỉ có bốn chục tu sinh mà thôi, luôn luôn sống dưới ống kính nhòm ngó của những vị có trách nhiệm đào luyện tôi.

Ở Đại Chủng Viện Montréal tôi cảm thấy thoải mái hơn nhiều, lại gần gia đình hơn và tôi còn làm bạn với nhiều người còn sống đến ngày hôm nay, sau năm thập niên. Vả lại, tiếp theo sau cơn bạo bệnh đã đánh gục tôi vào tháng mười hai năm 2000, và trong thời gian nghỉ dưỡng bệnh khá lâu, tôi cảm thấy như ở nhà mình vậy. Tôi sống với bốn mươi linh mục khác và tôi luôn cảm thấy an lạc trong thời gian dưỡng bệnh.

 Đời sống mục vụ

 Năm 1952 tôi được phong chức linh mục và bắt đầu cuộc đời mục vụ trong nhiều môi trường khác nhau ở vùng nói tiếng Anh thuộc tổng giáo phận Montréal. Đầu tiên tôi làm phó xứ ở thành phố Saint-Laurent, dưới quyền một linh mục mà tôi rất thương mến, đó là cha chánh xứ David McDonald. Đối với tôi ngài là một hướng dẫn viên với những đức tính hiếm có. Khi đặt để ngài trên đường đời của tôi, Thiên Chúa đã trao ban cho tôi một quà tặng nhờ đó mà trong thời gian kế tiếp, tôi có thể phục vụ Giáo hội của Chúa ở Montréal một cách tốt đẹp hơn.

 Tôi cũng còn thi hành nhiều mục vụ khác nữa mà phần nhiều chỉ ngắn hạn mà thôi. Nhất là tôi đã thành lập một nhà chuyển tiếp cho những phụ nữ trẻ tuổi đang gặp khó khăn. Tôi làm tuyên úy cho bệnh viện tâm thần Douglas ở Verdun. Tôi cũng làm tuyên úy cho các nữ tu Thánh Anna và các nữ tu Đấng Chăn Chiên Lành.

 Sau cùng tôi làm chánh xứ họ đạo Saint John Fisher ở Point-Claire trong mười hai năm. Tôi đã thi hành mục vụ một cách tràn trề hạnh phúc. Ngoài ra còn có công tác từ thiện “Chúa Nhân Lành xuống đường” mà tôi đã tận hiến cho đến ngày nay đã được mười bốn năm rồi. Đó là công việc mục vụ lâu nhất của tôi.

 Kế đó tôi đã trải qua hai năm khó khăn hơn tại giáo xứ Chúa Phục Sinh (Resurrection of Our Lord), không phải ở Trung quốc (la Chine) …mà ở vùng ngoại ô Lachine thuộc thành phố Montréal. Tại đây việc trùng tu thánh đường và những công việc hành chánh đã tác hại sức khỏe tôi quá nhiều và đưa tôi đến một tình trạng suy thoái tâm thần trầm trọng.

 Công tác “Chúa Nhân Lành xuống đường”

 Tiếp theo sau thời kỳ đau đớn đó trong cuộc đời tôi, dần dần tôi mở rộng tầm tay đối với những kế hoạch mà Chúa dành sẵn cho tôi ngay từ lúc đầu. Bởi vì không phải ở Trung quốc mà Chúa muốn tôi làm thừa sai, nhưng đúng hơn là trên những nẻo đường thành phố Montréal, bên cạnh những thanh thiếu niên bụi đời đang gặp khó khăn.

 Những người nầy cũng như dân Trung Hoa – và có thể còn hơn thế nữa – cần được rao giảng Tin Mừng về Tình Yêu của Chúa. Đối với tôi, đó là một công cuộc Phúc Am hóa trong một bối cảnh văn hóa và ngôn ngữ đặc thù. Văn hóa và ngôn ngữ đó khác với Hoa ngữ nhưng tôi không bao giờ chấm dứt việc tìm tòi học hỏi.

 Qua gương cha mẹ, tôi được dạy dỗ về điều cần phải biết trong lãnh vực Phúc Am hóa. Ngày kia, mẹ tôi đã nói với tôi đầy sự khôn ngoan như sau: “Emmett, việc làm có âm hưởng mạnh mẽ hơn chính lời nói. Đừng nói quá nhiều về Chúa, con nên chứng tỏ Chúa thì hơn!”

 Những lời nói đó đã có âm vang mạnh mẽ trong cuộc đời tôi. Tôi tin tưởng chính Chúa đã phán bảo cho tôi qua mẹ tôi là Ngài muốn tôi rao giảng về Ngài cho những thanh thiếu niên bụi đời ở ngoài đường phố.

 Không phải tôi đã “tạo ra” thứ hiện diện đặc biệt đó. Ngày kia qua đài truyền thanh, tôi nghe một người đàn ông ở Toronto nói về công tác của ông ta bên cạnh các thanh thiếu niên bụi đời. Thật là một sự khải ngộ! Tôi tìm thấy ở đó câu trả lời cụ thể cho điều ước muốn đi truyền giáo của tôi.

 Tôi rất thân cận với những thanh thiếu niên nam nữ bị ruồng bỏ và đang mang trong mình những vết thương thầm kín. Tôi đã trông thấy họ cố gắng tự bảo vệ, cho dẫu có khi phải dùng tới bạo lực. Tôi ý thức rất rõ sự ruồng rẫy mà họ phải gánh chịu đối với một số đông người tuy có từ tâm và lòng hiểu biết. Lúc bấy giờ một tiếng vang dội lên trong con người tôi.

 Do đó, sau khi suy nghĩ chín chắn về dự án giúp đỡ những thanh thiếu niên bụi đời, tôi đã đi gặp người đàn ông đó ở Toronto. Tôi muốn xem những gì anh ta đã làm và đã ứng phó như thế nào.

 Khi trở về Montréal, tôi đã trình bày với các vị bề trên của tôi ở trong giáo phận, cách riêng với Đức Cha Leonard Crowley, lúc bấy giờ là giám mục phụ tá cho Đức Hồng Y Grégoire và là vị đại diện của ngài bên cạnh những giáo dân Công giáo nói tiếng Anh. Dự án của tôi đã được chấp thuận và như thế tổ chức “Chúa Nhân Lành xuống đường” được thành hình vào năm 1988.

 Tôi muốn tổ chức đó là hiện thân của sự hiện diện niềm nở và thân tình của Thiên Chúa và Giáo hội Ngài trên những nẻo đường thành phố Montréal. Phần nhiều người ta quên những người sống vất vưởng trên lề đường và nhất là những thanh thiếu niên nam nữ đã vật lộn như thế nào ở ngoài đường khi màn đêm buông xuống. Đặc biệt tôi rất nhạy cảm với những thanh thiếu niên ngông cuồng, đã bị chính môi trường của họ loại bỏ và đã tá túc ngoài đường với bao điều bất trắc nguy hiểm.

 Với những thiện nguyện viên đã mau mắn nhập cuộc, chúng tôi muốn tiếp cận với các thanh thiếu niên bụi đời bằng cách đón tiếp họ với sự nhiệt tâm mà không chút xét đoán về họ. Chỉ bằng sự hiện diện mà thôi, chúng tôi muốn chứng tỏ cho họ thấy rằng họ là những con người thật sự một trăm phần trăm và đáng được sự quí mến tôn trọng.

 Đối với những thanh thiếu niên nam nữ có Đức Tin, chúng tôi chỉ cần nhắc nhở họ là những con cái dấu yêu của Cha trên trời – Đấng đã không ngần ngại sai Con Độc Nhất là Chúa Giêsu Kitô để công bố về Thiên Chúa và chứng minh về Ngài.

 Đôi khi các thiện nguyện viên và tôi nhận được nhiều chứng tá tuyệt vời về phía các thanh thiếu niên tìm tới chiếc xe lưu động chúng tôi. Có một bạn trẻ đã cảm động chúng tôi nhiều nhất khi anh nói: “Những hot-dogs, cà-phê, chocolats nóng, nước ngọt…thật tuyệt vời, nhưng cái đã sưởi ấm con tim chúng tôi nơi chiếc xe lưu động nầy, đó là gặp gỡ những người như quí bạn đây đã tiếp đón nồng hậu chúng tôi bởi vì quí bạn thương mến chúng tôi!” Còn gì an ủi hơn!

 Lúc bấy giờ tôi tự nhủ còn có những người thật sự hiểu biết tại sao chúng tôi xuống đường, năm buổi tối mỗi tuần và đã từ mười bốn năm qua. Không phải để gây ấn tượng giật gân! Cũng không phải đóng vai trò những người hào hiệp hoặc tìm cách cải giáo bất cứ ai…nhưng chỉ để nói với những người đau khổ và thường khi bị khinh rẻ, về sứ điệp mà hết thảy mọi người cần được nghe tới: đó là niềm mong ước họ được thương mến!

 Kinh nghiệm đớn đau ê chề

 Nhu cầu và điều mong ước của tôi được tiếp cận những người khổ đau chắc chắn cũng có tương quan với chính kinh nghiệm của tôi về sự đau khổ. Ở trên kia tôi đã nói về cảm giác thất bại và bị ruồng bỏ khi người ta đã khép kín cửa lại đối với giấc mơ của tôi muốn trở thành thừa sai ở Trung quốc.

 Suốt cuộc đời tôi, tôi cũng đã trải qua những kinh nghiệm đau thương khác khiến tôi hơn một lần phải nghĩ tưởng và nói rõ ràng là tôi đã thua cuộc, mặc dù những bước đi của tôi có vẻ thắng cuộc. Nhưng mỗi một lần như thế, Thiên Chúa đã tìm phương cách để nói với tôi và chứng tỏ cho tôi rằng tôi vẫn có giá trị trước mặt Ngài và Ngài đã thương yêu tôi như chính con Ngài vậy.

 Vào tháng mười hai năm 1968, tôi đã trải qua một kinh nghiệm đớn đau tồi tệ nhất trong cuộc đời tôi. Lúc bấy giờ tôi giảng tỉnh tâm cho những nữ sinh viên vừa tốt nghiệp trường y tá thuộc bệnh viện Saint Mary. Độ hai mươi nữ sinh viên từ hai mươi tuổi trở lên đã tham dự. Tôi sung sướng được đồng hành với họ trong hai ngày vừa cầu nguyện vừa nghỉ ngơi, trong khung cảnh tuyệt vời của vùng rừng núi Laurentides trong mùa tuyết đổ.

 Có hai nữ sinh vắng mặt khi điểm danh. Họ đi dạo dưới cơn tuyết dày đặc nhưng không bao giờ trở lại. Người ta đã tìm thấy thi thể của họ một tuần lễ sau đó. Cha mẹ của một trong hai nạn nhân đã buộc tôi chịu trách nhiệm về cái chết của con gái họ và đòi truy tố tôi trước tòa án. Cuộc điều tra của nhân viên cảnh sát tư pháp đã kết luận đó là những cái chết do tai nạn mà ra và tôi được bạch hóa, không bị truy tố.

 Tuy nhiên tôi đã mang trong người một thời gian khá lâu những điều di hại do thảm trạng đó gây ra. Điều đó tỏ lộ trên gương mặt tôi, với chòm râu bạc lơ thơ chạy quanh cằm tôi! Nhiều người tưởng tôi lập dị. Nhưng đối với tôi đó là vết tích của Núi Sọ mà tôi phải leo lên năm 1968.

 Điều thử thách đó suýt nữa cản trở tôi tiếp tục cuộc sống thường lệ, bao lâu sự đớn đau còn đè nặng trên con người tôi. Như những người đàn ông Do-Thái, tôi quyết định để chòm râu đó mọc lên hầu ghi nhớ biến cố thê thảm đã ghi khắc vào con tim tôi mãi mãi.

 Những chiếc xe lưu động và hầm trú ẩn

 Khởi đầu vào năm 1988, tổ chức “Chúa Nhân Lành xuống đường” rất khiêm tốn nhưng đã phát triển và trở thành một nghiệp vụ lớn lao! Sự quảng đại của nhiều ân nhân và sự cam kết của những thiện nguyện viên liên hệ cũng như sự tận tâm của nhân viên ban giám đốc đã tạo nên hiện tượng đó. Sự đóng góp liên tục của một số lớn các thiện nguyện viên và sự quản trị lành mạnh của một hội đồng quản trị tuyệt vời đã phục vụ hữu hiệu cho rất nhiều người.

 Đôi khi tôi cảm thấy một nổi lo sợ khi nhận chân sự bành trướng của tổ chức và sự phát triển nhanh chóng từ mười bốn năm qua. Tuy nhiên, không còn nghi ngờ gì nữa là chúng tôi phải tiến tới và tiếp tục cống hiến cho những thanh thiếu niên bụi đời những dịch vụ với phẩm chất cao hầu có thể đáp ứng nhu cầu của họ.

 Rồi thì chúng tôi nhận thấy không thể nào đón tiếp hết những thanh thiếu niên bụi đời với một chiếc xe lưu động, cho dù một chiếc xe lưu động như thế thực tiễn hơn và khoảng khoác hơn. Dần dần chúng tôi tiến tới chiếc xe lưu động thứ bốn do cơ quan hỏa xa Canadien Pacifique trao tặng.

 Đứng trước nhu cầu của những thanh thiếu niên bụi đời – đặc biệt những trẻ vị thành niên phải chuốc lấy mọi nguy hiểm – cùng với các cộng sự viên ban đầu, tôi sớm nhận ra rằng một thứ mục vụ như chúng tôi đang thi hành không thể bằng lòng với việc đắp lên những miếng băng keo trên những vết thương lở lói. Phải cố gắng đi xa hơn nữa.

 Do đó vào năm 1993 đã thành hình một ngôi nhà mà các thanh thiếu niên bụi đời tự đặt tên là “hầm trú ẩn” (bunker) ở đường Saint Hubet. Đó là một ngôi nhà với ba tầng lầu có thể đón tiếp độ hai mươi trẻ vị thành niên vào mỗi buổi tối. Những nam nữ thiện nguyên viên liên hệ đã đón tiếp họ khi đến ngủ qua đêm.

 Trong khi họ ngủ, các thiện nguyện viên giặt giũ quần áo cho họ và dọn sẵn một bữa ăn sáng. Chẳng khác gì chúng tôi đã đóng vai trò người mẹ xa vắng của họ để chăm sóc và lo lắng cho những nhu cầu tối thiểu nhất: một vòi nước tắm, một chiếc giường ngủ, một bữa ăn sáng, những áo quần sạch sẽ và thơm tho…

 Trung Tâm Pops

 Vào năm 1997, chúng tôi tiến xa một bước nữa, tiếp theo sau những xe lưu động và “hầm trú ẩn”. Chúng tôi đã khai trương “Trung Tâm Pops mở cửa ban ngày”, ở đường Ontario, gần công viên Champlain. Trung tâm đó đã trở thành một nơi tiếp đón và cung cấp phương tiện cho những thanh thiếu niên từ 14 đến 25 tuổi không nơi trú ẩn hay rơi vào hoàn cảnh bấp bênh. Năm ngày mỗi tuần, chúng tôi tiếp đãi khoảng hai trăm thanh thiếu niên bụi đời ăn trưa, không phải trả tiền.

 Những thanh thiếu niên nam nữ đó nếu muốn, có thể theo đuổi việc học tại chỗ, nhờ ba giáo sư cam kết dạy dỗ toàn thời gian, hai nữ tu thiện nguyện thuộc Dòng Thánh Anna và những thiện nguyện viên khác. Các thanh thiếu niên bụi đời cũng có thể dấn thân vào sự phát triển và hội nhập vào đời sống xã hội, nhờ sự giúp đỡ của những thiện nguyện viên lành nghề.

 Những dịch vụ y tế cũng được cung cấp và hai bác sĩ tâm thần cũng sẵn sàng giúp đỡ họ. Một phòng máy vi tính và những phòng nghệ thuật tạo hình cũng như âm nhạc được dàn dựng trong những phòng ốc của Trung Tâm.

 Mỗi tháng một lần, vào ban chiều, một bệnh xá thú y được điều khiển bởi những giáo sư và sinh viên Trường Y Khoa Thú Y ở Saint-Hyacinthe, cung cấp những dịch vụ y tế miễn phí cho những gia súc của các thanh thiếu niên bụi đời. Ngoài ra, một nhóm nha sĩ thuộc Đại Học McGill cũng cung cấp những dịch vụ làm răng miễn phí tại một bệnh xá được dựng lên trong phòng ăn của Trung Tâm.

 Sự hỗ trợ của Chúa Quan Phòng

 Tất cả tiến trình đó không bao giờ được thực hiện nếu không có sự hỗ trợ hằng ngày của Chúa. Từ khi bắt đầu dự án đó xem ra hơi ngông cuồng, Chúa đã hiển hiện qua ngàn lẻ một cách, nhất là qua sự ủng hộ không ngừng của dân chúng thuộc trung tâm thành phố Montréal và ngay cả những vùng ngoại ô xa xôi.

 Những cộng đoàn nữ tu và những nhóm xã hội cũng hỗ trợ chúng tôi nữa. Các công ty lớn cũng vậy đã tin tưởng và còn tiếp tục tin tưởng ở nơi công tác từ thiện chúng tôi bên cạnh những thanh thiếu niên bụi đời. Thật đúng là Thiên Chúa đã điều hướng tổ chức đó!

 Hơn một lần, những thanh thiếu niên đó, không bao giờ sốt sắng đạo hạnh cả, đã nói với tôi một cách rất nghiêm túc: “Cha Pops, cầu nguyện cho con, con rất cần đến. Còn cha, con rõ biết Chúa Nhân Lành nhận lời cha luôn, bởi vì không được như thế, cha sẽ không bao giờ thi thố những điều mà cha hiện đang thực thi!”

 Sự khôn ngoan của đám bình dân đó đã an ủi tôi rất nhiều vào những giờ phút nghi nan và đặt thành nghi vấn. Vả lại họ đã phụ họa theo lời Phúc Am khi nói về Chúa Giêsu: “Ông nầy không thể làm được những điều mà ông đã thực hiện, nếu Thiên Chúa không ở cùng ông!”

 Cơn động tim

 Ngày 9 tháng mười hai năm 2000, tôi đã trải qua một thử thách mới: tôi bị quật ngả bởi một cơn động tim. Vài ngày sau đó, các bác sĩ đã nối ba động mạch tim, Khi xuất viện, tôi phải chấp nhận một thời gian nghỉ bệnh lâu dài.

 Các nữ tu Cộng Đoàn Đức Bà (Congrégation Notre-Dame) lúc bấy giờ đã niềm nở đón tiếp tôi ở biệt thự Marguerite. Họ đã giúp tôi phục hồi sức lực đủ để giao tiếp trở lại với cơ cấu mà tôi đã thành lập và bạn bè tôi đã gọi một cách thân thương là “đứa con” của tôi.

 Tôi bị chao đảo mạnh bởi chứng bệnh đó cho đến đỗi trong một thời gian lâu dài, tôi tưởng phải rời khỏi những phần vụ của tôi. May mắn thay, từ tháng tư năm 2002, tôi đã từ từ bắt đầu phục vụ trở lại, nhưng tôi biết rõ sức lực của tôi không còn như trước nữa.

 Bắt đầu từ đó tôi phải thận trọng hơn, đó không phải là đức tính căn bản của tôi! Nhưng rồi lần nữa, Chúa đã tỏ bày cho chúng tôi bằng cách gởi tới những thiện nguyện viên mới mà chúng tôi rất cần để cơ cấu được tiếp tục điều hành ngõ hầu phục vụ giới trẻ mà chúng tôi thương mến.

 Theo một số người thân cận, tôi không có quyền bỏ rơi “đứa con của tôi”. Tôi phải truy tầm những phương cách mới mẻ để hiện diện bên cạnh đứa con tôi và bảo đảm sự tiếp nối tinh thần lúc khởi thủy: tinh thần phục vụ và chia sẻ, nhưng nhất là tinh thần của Đấng sẽ nói với chúng ta vào lúc hoàng hôn cuộc đời: “Ta đói và các con đã cho ăn. Ta khát và các con đã cho uống”…

 Ta là một thanh thiếu niên bụi đời, không nơi nương tựa, bị ném ra ngoài đường, Ta bị khinh khi, ruồng bỏ và các con đã đón tiếp Ta trong những chiếc xe lưu động, trong “hầm trú ẩn”, ở tại trung tâm dịch vụ ban ngày…”Hãy đến, hỡi những người được Cha Ta chúc phúc…Mỗi khi các con làm điều đó cho một trong những kẻ bé mọn nhất nầy là những con cái của ta, chính vì Ta mà các con đã làm điều đó!” (Matthêu 25,40).

 Sứ vụ Chúa dành cho tôi

 Trên triền đồi cuối của cuộc đời, tôi không ngừng suy tư về sứ vụ Chúa đã sắp sẵn cho tôi. Người ta thường nói Thiên Chúa vẽ ra những con đường thẳng bằng những đường cong ngoằn nghèo…Quả thật có rất nhiều đoạn đường ngoằn nghèo trong cuộc đời tôi. Nhưng điều không bao giờ bẻ gãy tôi được, đó là ý muốn phục vụ và thân cận với những kẻ bị bỏ rơi, những người  bị khinh chê, những kẻ bé mọn, những người bị ruồng bỏ…

 Vì vậy hiển nhiên tại sao Thiên Chúa đã chuyển ý định của tôi từ muốn đi truyền giáo ở Trung quốc đến việc dong ruổi trên những nẻo đường thành phố Montrél và tôi muôn vàn cảm tạ ơn Ngài! Ở trên thuở đất đó, không chút nghi ngờ, tôi đã gặp được những niềm vui lớn lao và mỗi ngày tôi thực hiện một chút, bằng cách đồng hành với Ngài qua những con cái của Ngài.

Nhà Văn Hương Vĩnh

Tác giả:  Nhà Văn Hương Vĩnh

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!