Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng

BBT CGVN YouTube
Thánh Kinh Công Giáo
Cầu nguyện bằng email
Hội Đồng Giám Mục VN
Liên Lạc

Văn Kiện Vatican 2

Lectio divina

Suy Niệm & Cầu Nguyện

Học Hỏi Kinh Thánh

Lớp KT Sr Cảnh Tuyết

Nova Vulgata

Sách Bài Đọc UBPT

LỜI CHÚA LÀ ÁNH SÁNG

GH. Đồng Trách Nhiệm

TAN TRONG ĐẠI DƯƠNG

Video Giảng Lời Chúa

Giáo Huấn Xã Hội CG

Tuần Tin HĐGMVN

Vụn Vặt Suy Tư

Giáo Sĩ Việt Nam

ThăngTiến GiáoDân

Bản Tin Công Giáo VN.

Chứng Nhân Chúa Kitô

Thánh Vịnh Đáp Ca

Phúc Âm Nhật Ký

Tin Vui Thời Điểm

Tin Tức & Sự Kiện

Văn Hóa Xã Hội

Thi Ca Công Giáo

Tâm Lý Giáo Dục

Mục Vụ Gia Đình

Tư Liệu Giáo Hội

Câu Chuyện Thầy Lang

Slideshow-Audio-Video

Chuyện Phiếm Gã Siêu

Các Tác Giả
  Augustinô Đan Quang Tâm
  Đinh Văn Tiến Hùng
  Ban Biên Tập CGVN
  Bác sĩ Ng Tiến Cảnh, MD.
  Bác Sĩ Nguyễn Ý-Đức, MD.
  Bùi Nghiệp, Saigon
  Bosco Thiện-Bản
  Br. Giuse Trần Ngọc Huấn
  Cursillista Inhaxiô Đặng Phúc Minh
  Dã Quỳ
  Dã Tràng Cát
  Elisabeth Nguyễn
  Emmanuel Đinh Quang Bàn
  Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB.
  EYMARD An Mai Đỗ O.Cist.
  Fr. Francis Quảng Trần C.Ss.R
  Fr. Huynhquảng
  Francis Assisi Lê Đình Bảng
  Gia Đình Lectio Divina
  Gioan Lê Quang Vinh
  Giuse Maria Định
  Gm Phêrô Huỳnh Văn Hai
  Gm. Giuse Đinh Đức Đạo
  Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
  Gm. JB. Bùi Tuần
  Gm. Nguyễn Thái Hợp, op
  Gm. Phêrô Nguyễn Khảm
  Gs. Đỗ Hữu Nghiêm
  Gs. Ben. Đỗ Quang Vinh
  Gs. Lê Xuân Hy, Ph.D.
  Gs. Nguyễn Đăng Trúc
  Gs. Nguyễn Văn Thành
  Gs. Phan Văn Phước
  Gs. Trần Duy Nhiên
  Gs. Trần Văn Cảnh
  Gs. Trần Văn Toàn
  Hạt Bụi Tro
  Hồng Hương
  Hiền Lâm
  Hoàng Thị Đáo Tiệp
  Huệ Minh
  HY. Nguyễn Văn Thuận
  HY. Phạm Minh Mẫn
  JB. Lê Đình Nam
  JB. Nguyễn Hữu Vinh
  JB. Nguyễn Quốc Tuấn
  Jerome Nguyễn Văn Nội
  Jorathe Nắng Tím
  Jos. Hoàng Mạnh Hùng
  Jos. Lê Công Thượng
  Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
  Joseph Vũ
  Khang Nguyễn
  Lê Thiên
  Lm Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, HKK
  Lm Đaminh Hương Quất
  Lm. Anmai, C.Ss.R.
  Lm. Anphong Ng Công Minh, OFM.
  Lm. Anrê Đỗ Xuân Quế op.
  Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
  Lm. Đan Vinh, HHTM
  Lm. Đỗ Vân Lực, op.
  Lm. G.Trần Đức Anh OP.
  Lm. GB. Trương Thành Công
  Lm. Giacôbê Tạ Chúc
  Lm. Gioan Hà Trần
  Lm. Giuse Hoàng Kim Đại
  Lm. Giuse Lê Công Đức
  Lm. Giuse Ngô Mạnh Điệp
  Lm. Giuse Trần Đình Thụy
  Lm. Giuse Vũ Thái Hòa
  Lm. Inhaxio Trần Ngà
  Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
  Lm. JB Trần Hữu Hạnh fsf.
  Lm. JB. Bùi Ngọc Điệp
  Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh
  Lm. Jos Đồng Đăng
  Lm. Jos Cao Phương Kỷ
  Lm. Jos Hoàng Kim Toan
  Lm. Jos Lê Minh Thông, OP
  Lm. Jos Nguyễn Văn Nghĩa
  Lm. Jos Phan Quang Trí, O.Carm.
  Lm. Jos Phạm Ngọc Ngôn
  Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
  Lm. Jos Trần Đình Long sss
  Lm. Jos.Tuấn Việt,O.Carm
  Lm. Lê Quang Uy, DCCT
  Lm. Lê Văn Quảng Psy.D.
  Lm. Linh Tiến Khải
  Lm. Martin Ng Thanh Tuyền, OP.
  Lm. Minh Anh, TGP. Huế
  Lm. Montfort Phạm Quốc Huyên O. Cist.
  Lm. Ng Công Đoan, SJ
  Lm. Ng Ngọc Thế, SJ.
  Lm. Ngô Tôn Huấn, Doctor of Ministry
  Lm. Nguyễn Hữu An
  Lm. Nguyễn Thành Long
  Lm. Nguyễn Văn Hinh (D.Min)
  Lm. Pascal Ng Ngọc Tỉnh
  Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn
  Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
  Lm. Phạm Văn Tuấn
  Lm. Phạm Vinh Sơn
  Lm. PX. Ng Hùng Oánh
  Lm. Raph. Amore Nguyễn
  Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ
  Lm. Tôma Nguyễn V Hiệp
  Lm. Trần Đức Phương
  Lm. Trần Mạnh Hùng, STD
  Lm. Trần Minh Huy, pss
  Lm. Trần Việt Hùng
  Lm. Trần Xuân Sang, SVD
  Lm. TTT. Võ Tá Khánh
  Lm. Vũ Khởi Phụng
  Lm. Vĩnh Sang, DCCT
  Lm. Vinh Sơn, scj
  Luật sư Đoàn Thanh Liêm
  Luật sư Ng Công Bình
  Mẩu Bút Chì
  Mặc Trầm Cung
  Micae Bùi Thành Châu
  Minh Tâm
  Nữ tu Maria Hồng Hà CMR
  Nguyễn Thụ Nhân
  Nguyễn Văn Nghệ
  Người Giồng Trôm
  Nhà Văn Hương Vĩnh
  Nhà văn Quyên Di
  Nhà Văn Trần Đình Ngọc
  Nhạc Sĩ Alpha Linh
  Nhạc Sĩ Phạm Trung
  Nhạc Sĩ Văn Duy Tùng
  Phaolô Phạm Xuân Khôi
  Phêrô Phạm Văn Trung
  Phó tế Giuse Ng Xuân Văn
  Phó tế JB. Nguyễn Định
  Phùng Văn Phụng
  Phạm Hương Sơn
  Phạm Minh-Tâm
  PM. Cao Huy Hoàng
  Sandy Vũ
  Sr. Agnès Cảnh Tuyết, OP
  Sr. M.G. Võ Thị Sương
  Sr. Minh Thùy, OP.
  Têrêsa Ngọc Nga
  Tín Thác
  TGM. Jos Ngô Quang Kiệt
  TGM. Phaolô Bùi Văn Đọc
  Thanh Tâm
  thanhlinh.net
  Thi sĩ Vincent Mai Văn Phấn
  Thiên Phong
  Thy Khánh
  Thơ Hoàng Quang
  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập
  Tiến Sĩ Tâm Lý Trần Mỹ Duyệt
  Tiến Sĩ Trần Xuân Thời
  Trầm Tĩnh Nguyện
  Trầm Thiên Thu
  Trần Hiếu, San Jose
  Vũ Hưu Dưỡng
  Vũ Sinh Hiên
  Xuân Ly Băng
  Xuân Thái
Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
  Giáo Sĩ Việt Nam
NHÀ ĐÀO TẠO TÂM HUYẾT HÔM NAY

(Trao đổi với Nhóm Huấn Luyện Liên Dòng Nữ
thuộc Tổng Giáo Phận Hà Nội tại Bùi Chu 23-27/9/2009)
  

Slideshow mở đầu: BÀN TAY

Sáng tác: Thanh Thiên Giang -   Tiếng hát: Lệ Hằng

 

Bàn tay, bàn tay chia sẻ áo cơm.

Bàn tay, bàn tay phân phát niềm tin.

Bàn tay, bàn tay xây đắp hòa bình.    

Bàn tay, bàn tay xoa dịu vết thương.

Bàn tay em năm ngón kiêu sa.

Bàn tay anh năm ngón đậm đà.                           

Bàn tay em mềm mại thiết tha. 

Đem bác ái rộng tình bao la.

 

Bàn tay anh chân chất tinh hoa.   

Hãy công bằng rộng lượng thứ tha.                      

Ôi bàn tay bao nét đẹp của chúng ta.         

Hãy kết thành trăm triệu bông hoa. 

Để dâng lên Thiên Chúa tiếng ca.   

Cùng bàn tay đơn hèn tôi tá.                                            

Xin Chúa dùng tay con như là,  

Một bản truyện tình yêu bao la.

 

Bàn tay, bàn tay giúp người bơ vơ.  

Bàn tay, bàn tay ôm ấp trẻ thơ.

Bàn tay, bàn tay cho khách trọ nhờ. 

Bàn tay, bàn tay rửa sạch vết nhơ.

Bàn tay em năm ngón kiêu sa.   

Bàn tay anh năm ngón đậm đà.                                          

Bàn tay em mềm mại thiết tha.   

Đem bác ái rộng tình bao la.

  

Bàn tay anh chân chất tinh hoa.

Hãy công bằng rộng lượng thứ tha.                      

Ôi bàn tay bao nét đẹp của chúng ta.        

Hãy kết thành trăm triệu bông hoa. 

Để dâng lên Thiên Chúa tiếng ca.

Cùng bàn tay đơn hèn tôi tá.                                             

Xin Chúa dùng tay con như là,

Một bản truyện tình yêu bao la.

 

Bàn tay, bàn tay chắp nguyện thiết tha.

Bàn tay, bàn tay xin Chúa dủ thương.

Bàn tay, bàn tay tha thiết van nài. 

Lạy Cha, lạy Cha xin Ngài thứ tha. 

Bàn tay em năm ngón kiêu sa.  

Bàn tay anh năm ngón đậm đà.                                          

Bàn tay em mềm mại thiết tha.  

Đem bác ái rộng tình bao la.

 

Bàn tay anh chân chất tinh hoa.  

Hãy công bằng rộng lượng thứ tha.                       

Ôi bàn tay bao nét đẹp của chúng ta.            

Hãy kết thành trăm triệu bông hoa. 

Để dâng lên Thiên Chúa tiếng ca. 

Cùng bàn tay đơn hèn tôi tá.                                            

Xin Chúa dùng tay con như là,

Một bản truyện tình yêu bao la.

   

BỐI CẢNH CỦA CUỘC TRAO ĐỔI

VATICAN SẼ KINH LÝ CÁC DÒNG TU NỮ

CNA ngày 7/8/2009 đưa tin rằng Vatican sẽ kinh lý các Dòng nữ khắp nước Mỹ. Ngày 28/7/2009, Mẹ M. Clare Millea, người chỉ đạo cuộc kinh lý, đã gửi Nghị trình làm việc (Instrumentum Laboris). Cuộc kinh lý nhằm khuyến khích các Dòng suy tư về lòng trung thành với các đặc sủng nguyên thủy và việc tuân giữ Công Đồng Vatican II. Các chủ đề, các câu hỏi, các điều tra và các suy tư nhằm:

·        Căn tính đời sống tu trì

·        Việc cai quản và quản trị tài chánh

·        Đời sống thiêng liêng: Thánh Lễ hằng ngày và việc xưng tội thường xuyên có phải là một ưu tiên?

·        Dòng diễn tả Bí Tích Thánh Thể là nguồn mạch đời sống thiêng liêng và cộng đoàn ra sao?

·        Phụng Vụ Các Giờ Kinh? 

·        Đời sống cộng đoàn: cách thức ăn mặc của Dòng và những chăm sóc dành cho các Nữ Tu cao tuổi và đau ốm.

·        Việc xúc tiến ơn gọi: tiếp nhận và đường lối đào tạo / Tương lai của Dòng

·        Hiểu và biểu hiện ra sao Ba lời khấn khó nghèo, khiết tịnh và vâng lời?

·        Dòng có định chuyển sang một hình thức đời sống tu trì mới không? Nếu có, thì hình thức mới này có liên hệ đặc thù ra sao với sự hiểu biết của Giáo Hội về đời sống tu trì?  

 

Ba điỂm nhẤn cỦa cuỘc trao đỔi:

A.     Hướng tới mục tiêu của con người và sứ vụ đào tạo

B.     Những bất cập và thái quá trong con người và sứ vụ đào tạo

C.     Tái định hướng đời sống và sứ vụ đào tạo  

A. HưỚng tỚi mỤc tiêu cỦa con ngưỜi và sỨ vỤ đào tẠo

1. Nhận định tổng quát 

Một sự thật thực tế ai cũng phải nhìn nhận: Tất cả chúng ta đang có mặt đây đều là những người được Bề Trên tín nhiệm giao cho trọng trách đào tạo các thế hệ tu sĩ tương lai. Chúng ta phải đào tạo họ theo ý muốn của Thiên Chúa, theo giáo huấn của Giáo Hội, theo đặc sủng và linh đạo riêng, cũng như sứ mệnh tông đồ của Dòng mình. 

Nhưng trước khi là nhà đào tạo, chúng ta đã trải qua những thời gian dài được đào tạo, với đủ mọi tình huống đa dạng, có những lúc rất bình an hạnh phúc, nhưng cũng có những lúc rất khó khăn, tùy ở tính khí và cách thức của các nhà đào tạo. Chúng ta đã cảm thấy có cái gì đó “trắc trở” về cả hai phía, có những kỷ niệm ngọt ngào an ủi, nhưng cũng có những kỷ niệm đắng cay nặng lòng. Nhưng một điều chắc chắn là các nhà đào tạo đi trước muốn đào tạo chúng ta nên những con người tốt, những tín hữu tốt, những tu sĩ tốt. Và đó cũng chính là điều chúng ta hôm nay muốn mang lại cho những người được trao phó cho chúng ta, mà chúng ta không muốn để những nỗi đau đã qua làm lòng mình xơ cứng và trở nên vô cảm trước những nỗi đau của những người thụ huấn của chúng ta.[1]  

Một khi có trách nhiệm và đã bắt tay vào việc, chúng ta cảm thấy việc đào tạo người trẻ hôm nay khó hơn việc chúng ta được đào tạo ngày trước. Và có những người dự đoán rằng việc đào tạo càng ngày càng khó hơn vì ảnh hưởng của tâm thức thời đại, của các điều kiện và hoàn cảnh xã hội bên ngoài, về phía các nhà đào tạo cũng như về phía các ứng sinh.  

Có thể nói thời bấy giờ khả năng và phẩm chất của các nhà đào tạo có trọng lượng và uy tín trên ứng sinh hơn bằng một khoảng cách rất lớn (magis-ter: hơn ba lần). Thêm vào đó, phương pháp đào tạo được áp dụng dựa trên luật lệ rất nghiêm minh, tạo nên một khoảng cách rõ rệt biểu lộ một niềm tôn kính cao, kèm theo sợ hãi. Trái lại, ngoài các yếu tố tâm thức và xã hội tự do bình đẳng thế tục, người trẻ hôm nay được học hành và khả năng chuyên môn cao hơn, có người còn cao hơn cả chúng ta, nhưng lòng đạo đức và tinh thần siêu nhiên kính trên nhường dưới có thể lại kém đi (mặt bằng tri thức rộng nhưng thiếu chiều sâu đạo đức). Phương pháp đào tạo hôm nay lại hướng về đồng hành, gần gũi, đối thoại, trao đổi, “thương lượng”... đang khi chúng ta còn thiếu cái “tâm đào tạo”, thiếu trọng lượng của uy tín được tâm phục và nhiều lúc chúng ta vẫn bị cám dỗ hành xử quyền bính.

Công cuộc đào tạo vốn đã khó khăn thì ngày nay càng khó khăn phức tạp hơn nữa. Nhưng những khó khăn đó có thể vượt qua được, khi mỗi người và mỗi thế hệ quyết định biến những giá trị lớn lao trong quá khứ thành của mình và đổi mới bản thân bắt nhịp với bước đi của Ơn Thánh và khoa sư phạm tân tiến. Chúng ta hãy khích lệ nhau rằng việc càng khó càng có giá trị. Hơn nữa, chúng ta sẽ không đơn độc, vì công cuộc đào tạo là việc của muôn người và của muôn đời, trong nỗ lực cộng tác với ơn trợ giúp không thể thiếu của Chúa. Chính Ngài mới là nhà đào tạo đích thực và gương mẫu cho chúng ta noi theo, để tự đào tạo chính mình thành nhà đào tạo có khả năng và tâm huyết, có cái tâm đào tạo như Chúa Giêsu, và có cả những kỹ năng cần thiết, để cho sứ vụ của chúng ta được hiệu quả hơn.

Chúng ta phải chấp nhận giới trẻ ngày nay không giống như chúng ta hồi còn trẻ và nhìn nhận ứng sinh có quyền có được người đồng hành tốt nhất giúp họ tự biết mình là ai, hầu trở thành người tu sĩ quân bình và bền vững qua mọi tình huống đời sống và sứ vụ.

Nhà Dòng được lập ra để đón nhận và đào tạo những con người muốn trở thành tu sĩ của Thiên Chúa, nên việc đào tạo phải diễn ra trong đức tin và lòng nhân hậu. Việc đào tạo ngày nay tuy làm chung với nhiều người và cho nhiều người, nhưng phải chú trọng đến từng cá nhân, với từng hoàn cảnh cụ thể, để hướng họ tới đời sống cộng đoàn tốt hơn (x. Tiến trình mài giũa của những viên đá trơn tru bóng láng dưới các dòng suối).  

Những ai tin vào Chúa Kitô càng có thêm động lực mạnh mẽ để không sợ hãi, vì Thiên Chúa không bỏ rơi chúng ta, và tình yêu của Ngài luôn đến với chúng ta trong trách nhiệm và trong thân phận yếu đuối con người của chúng ta, để giúp chúng ta đào tạo nhân sự tương lai của Hội Dòng và của Giáo Hội.   

Quả thế, Chúa Giêsu là người đầu tiên được Chúa Cha sai đi chia sẻ tình thương cứu độ và qui tụ toàn thể thế giới tạo thành về lại cho Chúa và Ngài đã chu toàn sứ vụ của mình. Nay Giáo Hội và mỗi người chúng ta được mời gọi tiếp tục sứ vụ của Chúa Giêsu, liên tục từ thế hệ này qua thế hệ khác, làm cho Ngài được nhận biết và yêu mến. 

Làm nhà đào tạo phải là một ơn gọi đặc biệt Chúa ban xuyên qua tiến trình:

·        Chúa mời gọi và chúng ta được xác nhận qua sự trạch cử của Thẩm quyền hữu trách;

·        Chúng ta sẵn sàng đáp lại ơn gọi và sự trạch cử khó khăn và tế nhị này, không hề có miễn cưỡng, về phía chúng ta cũng như về phía thẩm quyền;

·        Chúng ta cam kết đi theo mẫu gương và đường lối đào tạo của Chúa Giêsu Mục tử nhân hậu;

·        Chúng ta dần dần biến đổi và điều chỉnh chính mình cho phù hợp với giáo huấn của Chúa, Giáo Hội và linh đạo Dòng trong việc đào tạo các ứng sinh;

·        Chúng ta quyết tâm kiên trì chu toàn sứ vụ đã nhận lãnh trong bất cứ hoàn cảnh nào. 

Song song với việc thực thi nhiệm vụ đào tạo ứng sinh các cấp, chúng ta còn có một nhiệm vụ kép:

            - Lưu ý tuyển chọn và tài bồi những nhà đào tạo tương lai sẽ thay thế chúng ta, qua tiến trình: dạy cho họ làm, giúp họ làm, để họ làm, mình rút lui vì đã hoàn thành sứ mệnh;

            - Vừa cập nhật việc đào tạo chính mình, nâng cao phẩm chất con người và sư phạm bằng khiêm tốn học hỏi với người trên, với đồng nghiệp và với cả những người đang được chúng ta đào tạo, khi khơi gợi và lắng nghe những thao thức và trông đợi của họ, dù còn nhiều chủ quan, phiến diện và sai lầm.

Chúng ta cố gắng chia sẻ với nhau về những khí cụ cần thiết của con người và sứ vụ của chúng ta để đạt tới mục tiêu đào tạo mọi người mong muốn.

2. Cần những nhà đào tạo phẩm chất  

Ngoài đời, người ta đầu tư rất lớn cho việc đào tạo nhân sự của họ. Nhà tu chúng ta cũng cần đào tạo các nhà đào tạo chất lượng để đào tạo nhân sự của mình. Và nhà đào tạo phải có lòng khiêm nhường ý thức giới hạn và yếu đuối của mình để tin tưởng vào Chúa, trong tinh thần hài hước rộng lượng để sẵn lòng đào tạo những con người bất toàn. 

Tìm người dạy học tốt đã khó, tìm nhà đào tạo phẩm chất còn khó hơn nhiều, nhất là trong lãnh vực đời sống thánh hiến, nhà đào tạo phải sống gương mẫu vì “lời nói lung lay, gương bày lôi kéo”: dạy điều mình tin và sống điều mình dạy[2], trong tinh thần hiệp thông và vâng phục đối với đặc sủng và linh đạo của Hội Dòng, đối với Giáo Hội và kế hoạch của thánh ý Chúa, như ĐTC Phaolô VI đã nói: “Người thời nay tin vào các chứng nhân hơn là thầy dạy, và nếu họ có tin vào thầy dạy là vì các thầy dạy đó là những chứng nhân.” 

Nhiều nhà đào tạo tự cảm thấy mình chưa được trang bị đầy đủ và thích hợp cho việc đào tạo người trẻ hôm nay, cả về phương diện kỹ năng lẫn phương diện phẩm chất,[3] vì người trẻ hôm nay rất lý tưởng và đòi hỏi, nhưng  rất thiếu kinh nghiệm trưởng thành, lại dòn mỏng, dễ bị hoàn cảnh xã hội bên ngoài tác động lôi cuốn. Tu sĩ trẻ bây giờ chịu sức ép lớn hơn, nhưng sức đề kháng cũng mong manh hơn. Tuy nhiên, họ không thích chúng ta so sánh thời xưa của chúng ta với thời nay của họ, dù để chê bai hay để làm mẫu. Họ không thích lấy tiêu chuẩn của thời trước để đánh giá thời này, dù không biết có còn hợp hay không. 

Nơi nhà đào tạo có hai nhiệm vụ khác biệt nhưng liên đới với nhau: giảng dạy và đào tạo. Giảng dạy nhằm soi sáng trí tuệ, chuyển giao kiến thức chuyên môn, trong khi đào tạo nhằm biến đổi tận thâm sâu ứng sinh, giúp họ có khả năng đáp ứng lại những đòi hỏi của ơn gọi đời sống thánh hiến. Vì thế, nhà đào tạo được mời gọi chu toàn các nhiệm vụ này:

·        Làm chứng nhân của Chúa

·        Hiệp thông và cộng tác với nhóm đào tạo

·        Quí ơn gọi và thương ứng sinh với con tim mục tử

·        Làm cho ứng sinh thấy sức hấp dẫn của ơn gọi

·        Khích lệ ứng sinh chấp nhận những đòi hỏi của ơn gọi

·        Giúp ứng sinh nhận ra con người thật của mình với những điểm mạnh điểm yếu, thuận lợi và cản trở; đồng thời chỉ đường dẫn lối giúp họ vượt thắng và trung thành. 

Một người dạy học tốt (có trình độ và bằng cấp chuyên môn cao) không hẳn là một nhà đào tạo tốt. Nhưng một nhà đào tạo dày kinh nghiệm đào tạo có thể đồng thời cũng là một người dạy học tốt. Công việc đào tạo là một nghệ thuật, và là một ơn ban của Chúa, đòi hỏi những khả năng tự nhiên và những khả năng sư phạm thủ đắc nhờ kinh nghiệm và học hỏi liên tục. Nói tóm lại là cần có “cái tâm đào tạo.”  

Làm sao kiến tạo sự hiệp nhất nơi một cộng đoàn có nhiều cá tính, có khi đối lập và xung đột? Làm sao góp ý mà người nghe vui vẻ sửa mình? Làm sao biết dùng người đúng chỗ hầu phát huy được toàn bộ tiềm năng của họ? Làm sao cộng đoàn giữ nghiêm kỷ luật mà không bị căng thẳng? Làm sao cộng đoàn đang nguội lạnh được lửa nhiệt tình hâm nóng? Những câu hỏi đó thúc đẩy các nhà đào tạo cần được huấn luyện và tự huấn luyện nghiêm túc, hiểu biết về tâm lý, sinh lý, thiêng liêng, linh đạo, triết học, thần học, Thánh Kinh và cả khoa học nữa. Tầm hiểu biết càng rộng càng dễ đưa ra những nhận xét quân bình hơn về một con người, về một biến cố, về một tình huống. 

3. Tâm hồn đào tạo 

Người có tâm hồn đào tạo yêu người và yêu nghề đào tạo, giống như Chúa Giêsu: cứu giúp người chứ không loại bỏ người, có cắt tỉa là để sinh nhiều hoa trái hơn: tha thứ lỗi lầm, nâng đỡ đứng dậy, giúp bền vững tiến lên, tin tưởng vào sự biến đổi tốt đẹp trong tương lai... “Hãy học với Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng thật trong lòng... Người sẽ không cãi vã, không la lối, chẳng ai nghe thấy  tiếng Người giữa phố phường. Cây lau bị giập, Người không đành bẻ gãy; tim đèn leo lét, Người chẳng nỡ tắt đi, cho đến khi đưa công lý đến toàn thắng, và muôn dân đặt niềm hy vọng nơi danh Người” (x. Mt 12, 19-21).  

Người có tâm hồn đào tạo luôn tạo điều kiện và cơ hội cho cái tích cực lớn dần lên mãi cho đến khi thành nhân đức và cái tiêu cực nhỏ dần xuống mãi cho đến khi bị triệt tiêu. Người có tâm hồn đào tạo giúp giết chết dần dần con người trần tục trong ứng sinh để con người thiêng liêng lớn dần lên trong chính họ, một đàng phải lớn lên và đàng kia phải nhỏ lại: “Chúa Kitô phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại.” 

Nhà đào tạo có một thiên hướng bẩm sinh, một ơn gọi đặc biệt Chúa ban và một lòng yêu thương cũng đặc biệt đối với người thụ huấn. Một khi có được những thứ đó và được Bề trên trao trọng trách đào tạo, nhà đào tạo sẵn sàng đáp lại với lòng yêu nghề, chứ không miễn cưỡng nhận nhiệm vụ, và Bề trên cũng không nên ép buộc nhận, kẻo họ sẽ không hết lòng mà để gặp chăng hay chớ, trực tiếp thiệt hại cho ứng sinh, để tự đào tạo chính mình theo gương mẫu Chúa Giêsu, là nhà đào tạo tuyệt hảo và vị mục tử nhân lành, với một sự nhạy bén khiêm tốn để học hỏi với Bề trên, với đồng nghiệp, và học hỏi với cả các người thụ huấn của mình nữa, dưới sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần. Càng làm việc đào tạo, người ta càng trở nên nhà đào tạo hơn, khi biết vận dụng cả những thành công lẫn những thất bại của chính mình, cũng như của người thụ huấn. 

Người có tâm hồn đào tạo quan tâm nỗ lực làm lớn lên mãi phần thiên hướng đào tạo bẩm sinh của mình, tuy nhỏ bé. Người có tâm hồn đào tạo luôn nỗ lực khởi động cái “nhân chi sơ tính bản thiện” của ứng sinh. Socrate dùng kích biện pháp, hay nói nôm na là phương pháp hộ sinh: không phải vị y/bác sĩ mang thai và sinh con, mà chính là người thiếu phụ; vị y/bác sĩ giúp người thiếu phụ cho ra đời đứa con của chính mình; nhà đào tạo đóng vai vị y/bác sĩ đối với tư duy, chọn lựa, và quyết định của ứng sinh. Còn cha Gioan Bosco dạy phải lôi ra những điều ứng sinh có trong lòng mà chính họ không biết, lôi ra những đức tính cao cả, đánh thức những tiềm năng đang ngủ, những bí mật thâm sâu của tâm hồn con người để đào tạo ứng sinh thành con người trưởng thành toàn vẹn vừa nhân bản (trần thế) vừa thiêng liêng (thần linh). 

4. Hai mô hình đào tạo[4] 

a. Mô hình đào tạo dựa trên luật lệ:

Nói đến luật lệ là làm người ta thường nghĩ ngay đến quyền lực, đến khả năng đạt được những gì mình muốn và ngăn chận những gì mình không muốn. Và mặt trái của quyền lực là có thể trở nên cưỡng bức, áp đặt, độc tài để đạt được nhiều kết quả hơn dựa vào đe dọa và thao túng người khác bởi mánh khoé và thủ đoạn hầu bảo đảm thắng lợi, hoặc ít nhất để khỏi bị thất bại. Do đó, con người thường tìm kiếm quyền lực cá nhân cho mình trong khi điều khiển và kiểm soát những người khác, cũng như tiền bạc và các nguồn thông tin.

Theo mô hình này, nhà đào tạo đưa ra những luật lệ rất rõ ràng chi tiết, kèm theo những hình phạt tương xứng cho những ai vi phạm. Ứng sinh cứ thế mà thi hành dưới sự kiểm soát nghiêm ngặt của nhà đào tạo. Sự hiện diện của nhà đào tạo và các cộng sự viên có tính cách nhắc nhở giữ luật và đe dọa hình phạt. Họ luôn mang bộ mặt nghiêm nghị, cư xử cứng rắn, lời nói đanh thép. Quả thế, có những hiện diện mang lại bình an và an toàn, nhưng cũng có những hiện diện gây thương tích và mất mát, mất cả không gian và thời gian sống, có khi mất mát cả cuộc đời của ai đó. Có những hiện diện như kẻ xa lạ, vì sống bên nhau mà không quan tâm, không để ý đến nhau, không hiểu nhau, không thương nhau, không cần đến nhau, như nước mây hửng hờ... Có những hiện diện dò xét, soi mói, gây xáo trộn, lo âu, sợ hãi, khiến người khác không còn hưởng được một cuộc đời bình an.  

Nhưng mô hình đào tạo dựa trên luật lệ này dễ hấp dẫn nhà đào tạo vì thấy kết quả tức thời trước mắt, mọi việc đều xuôi chảy ngăn nắp, trật tự đâu vào đấy, tất cả đều răm rắp nghe theo và thi hành luật lệ, nhà đào tạo đỡ vất vả và tốn công sức. Có một khoảng cách rõ rệt ngăn cách giữa đôi bên. Ứng sinh nhìn nhà đào tạo với ánh mắt sợ sệt, tránh né, không mấy tự nhiên và thiện cảm khi phải đến gần. Mọi việc làm vì luật buộc hay vì sợ phạt, nên tìm cách luồn lách, tránh khỏi bị bắt quả tang lỗi phạm. Do đó từ sợ hãi có thể đi đến xa cách, kính nhi viễn chi, oán ghét khi bị bắt lỗi và bị phạt với nhục hình, xấu hổ; nhất là khi bị loại, bị đuổi thì không bao giờ trở lại nữa, vì “xấu quá hóa giận, giận quá hóa thù.”  

b. Mô hình đào tạo đồng hành yêu thương:  

Chớ gì đừng ai hiểu rằng mô hình đào tạo đồng hành không có luật lệ, qui tắc. Không thể có điều đó, vì dù chỉ có hai người thôi thì đã phải có qui ước ràng buộc để có thể sống hòa điệu tốt đẹp với nhau được. Điều khác biệt ở đây là luật lệ và qui tắc không có tính cách áp đặt mà là tự nguyện, được thiết lập, giải thích và thuyết phục, cùng đồng thuận chấp nhận và thi hành. Có thể nói sức mạnh của quyền lực chuyển về tình yêu tự nguyện.  

Kitô giáo biến đổi quan niệm về quyền lực: “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ, ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người” (Mc 10, 43-44). Chúa Giêsu làm nổi bật cái nghịch lý đó: Lúc Ngài thực sự đầy quyền lực là khi quỳ xuống rửa chân cho môn đệ và khi bị treo trên thập giá.  

Chúng ta học được cách này từ Thiên Chúa, Ngài luôn lấy tình yêu để dạy dỗ, chữa lành và cứu vớt; Ngài sai chính Con Ngài đến trần gian không phải để luận phạt, nhưng để cứu chữa và nuôi sống (x. Ga 3,16-17; 10,10). Thiên Chúa đi bước đầu trong giao ước với con người, không áp đặt, không bó buộc, mà là một lời mời gọi chờ lời đáp trả với tự do và tình yêu, một đối thoại và đồng thuận của đôi bên. Chúng ta có thể lấy ví dụ cách cư xử của Thiên Chúa đối với tiên tri Giona và dân thành Ninivê; nhất là với cuộc nhập thể của Chúa Giêsu, Đấng Emmanuel, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta, để hiểu thấu tính cách đồng hành gần gũi, thân tình. 

Mô hình đào tạo đồng hành này khó và rất vất vả, phải có tâm huyết và nhiều kỹ năng sư phạm, nhiều kinh nghiệm và nhẫn nại, chịu khó và hy sinh, nhất là ơn Chúa và tình thương của Chúa mới có thể theo đuổi được. Bởi vì để biến đổi và thăng tiến ứng sinh, trước hết nhà đào tạo phải biến đổi chính mình, phải đi vào tiến trình phản tỉnh, suy tư về chính mình nhằm làm cho chính mình được lớn lên trong sự đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô, Đấng luôn đồng hành với mỗi người.

Đồng hành là cùng đi, là luôn có mặt, là luôn hiện diện, và sự hiện diện của nhà đào tạo phải như một quà tặng cho ứng sinh. Thật thế, giữa đêm tối trên biển cả, các tông đồ hoảng sợ, Chúa Giêsu lên tiếng “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ !” (Mc 6,50). Sự hiện diện của Chúa đem lại an lòng, ấm áp, hạnh phúc và bình an. Sự hiện diện của nhà đào tạo như một quà tặng khi biết để ý tới niềm vui, nỗi buồn, nỗi lo, niềm thao thức, hy vọng hay cả những thất vọng của ứng sinh, khi sống có tấm lòng, có tình nghĩa với họ, luôn biểu lộ sự hiền lành, tươi cười, niềm nở qua lời nói, nét mặt. Chúa Giêsu mời gọi “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11, 29).

Phương pháp đào tạo đồng hành cần có sự thân tình, tin tưởng và yêu thương. Như Chúa Giêsu đi bước trước tới nhà ông Gia-kêu, nhà đào tạo sẵn sàng đi bước trước đến với ứng sinh để tạo bầu khí thân tình, gần gũi, đối thoại, lắng nghe, nhờ đó mà đưa tới sự biến đổi, vốn là mục tiêu của đào tạo: biến đổi người xấu thành người tốt, biến đổi người tốt thành người tốt hơn, và thành thánh nhân. Cuộc đồng hành “tiếp lửa” của Chúa Giêsu với hai môn đệ trên đường Êmau cũng là một kiểu mẫu cho phương pháp đào tạo đồng hành giữa nhà đào tạo và ứng sinh. Phương pháp này đòi hỏi nhà đào tạo cùng tham dự vào tất cả các sinh hoạt hằng ngày của ứng sinh, khiến ứng sinh không còn sợ hãi, xa cách. 

Nhà đào tạo đồng hành đem lại tin tưởng và an toàn cho ứng sinh, hay nói cách khác, nhà đào tạo phải tin tưởng ứng sinh sẽ được biến đổi tốt đẹp trong tương lai. Chính Chúa Giêsu đã tỏ rõ điều đó khi Ngài đồng bàn với những người thu thuế và tội lỗi, hay khi không kết án người nữ ngoại tình. Quả thế, dù một người có hư hỏng đến đâu đi nữa thì cũng còn có vài điểm tốt. Nhà đào tạo biết rút ra vài điểm tốt đó để phát huy. Baden Powell, ông tổ của phong trào giáo dục Hướng đạo, bảo rằng dù gặp một con người chỉ có 5% tốt còn 95% xấu thì phải nhìn 5% tốt nơi con người để giúp họ phát huy, rồi 95% xấu kia sẽ được thay thế. Còn thánh Gioan Bosco bảo một trái táo thối vẫn còn có một cái hạt có thể nẩy mầm trở thành một cây và đơm bông kết trái. Ứng sinh sẽ tin tưởng vào nhà đào tạo nào tin tưởng mình. Sự tin tưởng này luôn có tính hỗ tương. 

Sự hiện diện đầy yêu thương của nhà đào tạo mang lại nhiều kết quả tốt trong công cuộc đào tạo hơn luật lệ, nguyên tắc, chương trình, kiến thức; nhất là khi yêu thương như Chúa Giêsu yêu thương (x. Ga 13, 34): Ngài cất bước đi tìm và đón nhận tất cả những ai đến với Ngài. Nhà đào tạo phải chấp nhận những khác biệt với mình của ứng sinh, phải quyết tâm vượt qua những bức tường ngăn cách thiện cảm hay ác cảm tự nhiên, để có thể trao ban và lãnh nhận lẫn nhau. ĐTC Biển Đức XVI viết về vấn đề giáo dục ngày 23/2/2008 như sau: “Nền giáo dục này trước tiên cần có sự gần gũi và tín nhiệm nảy sinh từ tình thương: tôi nghĩ đến kinh nghiệm đầu tiên và cơ bản về tình thương mà các trẻ em cảm nhận nơi cha mẹ. Mỗi nhà giáo dục đích thực đều biết rằng để giáo dục thì phải trao hiến một cái gì đó từ chính bản thân mình và chỉ như thế mới có thể giúp các học sinh của mình khắc phục những ích kỷ và trở thành người có khả năng yêu thương đích thực.” 

Quả thế, bí quyết thành công trong việc đào tạo chính là dùng tình thương xoa dịu các tâm hồn, khám phá cái tốt nơi mỗi ứng sinh, làm cho họ tỏa sáng và dẫn đưa họ đến cùng Chúa: “Hôm sau, ông Gioan đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông, thấy Chúa Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: ‘Đây là Chiên Thiên Chúa.’ Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Chúa Giêsu.” Nhà đào tạo phải dọn đường để Chúa đến với ứng sinh và đưa ứng sinh đến với Chúa.

c. Hai mặt bổ sung quyền lực của nhà đào tạo[5]

Quyền lực hay uy tín của nhà đào tạo là một tiến trình phát triển liên tục bao gồm quyền lực bên ngoài do chức vụ, địa vị, tài năng, chuyên môn và quyền lực bên trong do tấm lòng yêu thương, linh đạo, suy tư khôn ngoan, mục đích và động lực chính trực. Quyền lực bên trong phát triển do sự hướng nội, đấu tranh bản thân, sự tiến hóa từng trải của kinh nghiệm cuộc đời, việc chấp nhận và đánh giá đúng đắn về chính mình, cũng như về ứng sinh (x. Trường hợp Nathanael). Nhà đào tạo và lãnh đạo giỏi là người có khả năng nối kết hòa điệu khả năng tư duy bên trong với khả năng hành động bên ngoài.

Quyền lực bên ngoài của nhà đào tạo được biểu lộ nơi sự tự tin, năng lực, chuyên môn, địa vị, bằng cấp, chức vụ, tiền bạc, thành công và được mọi người biết đến. Trong khi quyền lực bên trong phát xuất từ con người nội tâm, từ tâm hồn, từ các giá trị sâu xa liên hệ đến bản thân và cuộc sống, có thể truyền lửa và sức mạnh cho người khác.

Phẩm chất của nhà đào tạo là yếu tố nội tại bền vững thực sự quyết định của việc đào tạo, hơn là do chức vụ quyền bính. Đào tạo liên hệ chặt chẽ với ý niệm người môn đệ đi theo thầy (discipleship) và người có thể thúc đẩy, hướng dẫn người khác [bạn hãy theo sát Chúa Giêsu và Chúa Giêsu sẽ theo sát người thụ huấn của bạn]. 

5. Một số điều kiện khác của nhà đào tạo[6]  

a. Tự do nội tâm và nội lực mạnh

Nhà đào tạo không để mình dễ bị chi phối bởi những đam mê hay tình cảm, yêu hay ghét, thích hay không thích, ác cảm hay thiện cảm, thù oán hay ghen tỵ... Nói chung là người trưởng thành về tình cảm, không có khuynh hướng lệch lạc, lạm dụng người dưới quyền, nhưng luôn giữ được sự chính trực và công bằng.

Nhà đào tạo còn phải trưởng thành về đời sống thiêng liêng, thanh thản và siêu thoát, không tìm bám víu vào ý riêng và kế hoạch của mình, nhưng chỉ mong tìm và thực hiện ý Chúa, chỉ tìm ích chung cho cộng đoàn, cho sự lớn lên thực sự của từng thành viên trong căn tính người tu sĩ của Dòng (đào sâu và sống đặc sủng và linh đạo của Dòng). 

b. Sống thánh thiện

Ứng sinh rất mong gặp được nơi nhà đào tạo một mẫu mực bằng xương bằng thịt đang sống trọn vẹn đặc sủng và linh đạo Dòng mình, được thể hiện nơi Hiến Chương, Nội Qui và Luật Sống của Dòng để thấy rằng sự thánh thiện là một lý tưởng có thể đạt được với ơn Chúa: kết hiệp với Chúa liên tục trong mọi tình huống, gặp thấy Ngài và đọc được ý nghĩa đức tin trong mọi biến cố cuộc đời,[7] cùng tìm kiếm ý Chúa và can đảm thực hiện, chứ không phải áp đặt ý mình trên người khác, lại biết nhận định cách khôn ngoan để phân biệt tác động của tà thần và của Thánh Thần.

Nhà đào tạo dạy dỗ và hướng dẫn không chỉ bằng lời nói, nhưng bằng gương sáng thống nhất đời sống giữa các mặt khác nhau và đối nhau như chiêm niệm và hoạt động, vâng phục và tự do, sống điều mình dạy, chứ không phải nói mà không làm, để ứng sinh có thể noi theo. Nói cách khác, nhà đào tạo là người có lửa và sẵn sàng chia lửa cho ứng sinh và cộng đoàn, được bộc lộ ra qua mọi đức tính nhân bản đã tập được (Ph 4, 8-9). Sự giả hình, che đậy và dối trá quanh co là những điều người ứng sinh tu sĩ trẻ hôm nay khó chấp nhận, dù họ cũng không tránh khỏi tệ nạn này của xã hội. 

c. Yêu thương từng ứng sinh

Tình yêu ấy phải được diễn tả làm sao để ứng sinh nhận ra qua việc quan tâm đến sức khỏe, gia đình, đời sống tình cảm, học tập, cầu nguyện, đặc biệt trong thời gian ứng sinh gặp thử thách khủng hoảng. Tình yêu ấy cũng phải được bộc lộ qua cả những lúc phải dùng đến hình phạt nữa (vì thương mà phải phạt). Hỏi thăm trực tiếp ứng sinh là hình thức đơn sơ nhất, miễn là biết cách để không có vẻ soi mói, điều tra. Con người ứng sinh phải được đặt lên trên công việc hay của cải vật chất. 

Mỗi ứng sinh có một lịch sử riêng, hoàn cảnh riêng, vấn đề riêng, và ở từng giai đoạn đào luyện khác nhau nên cách gặp gỡ từng người cũng có phần khác nhau, để từ đó việc đồng hành được thích hợp và không đòi hỏi quá đáng những điều mà ứng sinh còn non trẻ chưa thể có được. Đồng hành là cùng đi với ứng sinh, đi cùng một nhịp nhanh chậm với ứng sinh, hơn là đi trước mở đường/dẫn đường, nhưng trở nên bạn đi chung với người ấy.  

Nhà đào tạo dành thời giờ để gặp riêng từng ứng sinh sẽ tạo được sự thông cảm, hiểu biết nhau, nhờ đó việc huấn luyện sẽ tốt hơn và dễ dàng hơn. Sự hiện diện thường xuyên của nhà đào tạo là điều cần thiết, (đặc biệt với Nhà Tập, như “Những chỉ dẫn việc huấn luyện trong các Dòng tu” yêu cầu), vì nó cho thấy mình coi trọng ứng sinh và việc huấn luyện họ hơn các việc tông đồ hay những mối bận tâm khác (trong thời gian Nhà Tập, đời sống thiêng liêng trỗi vượt hơn đời sống tông đồ). Đào tạo là việc tông đồ ưu tiên của dòng tu vì qua việc này mà sinh ra những nhà tông đồ mới để đáp ứng nhu cầu tông đồ của Giáo Hội.  

Tích cực tham dự các sinh hoạt cộng đoàn (cùng lao động, giải trí, cầu nguyện, học tập, tĩnh tâm, dã ngoại, nghỉ hè, thăm nhà nhau) cũng giúp tạo ra sự gần gũi và thấy được con người thật của ứng sinh, vì chính cuộc sống thực tế mỗi ngày mạc khải đúng nhất về mỗi con người.   

d. Lắng nghe và Đối thoại

Lắng nghe là một hành vi của trái tim và chỉ trái tim yêu thương mới nghe được những điều nằm ẩn sau lớp vỏ của ngôn từ. Luôn lắng nghe để thấu hiểu một người từ bên trong mới có thể đào tạo người ấy. Ngày nay cần nỗ lực lắng nghe nhiều mới hy vọng hiểu được lối suy nghĩ, lối nói và lối phản ứng của ứng sinh hầu tránh nguy cơ hiểu lầm, gây đau khổ và quyết định sai lầm. Nhà đào tạo tránh xét đoán và kết luận vội vã; một lời nói của người có quyền rất quan trọng, có thể cứu sống hoặc có thể giết chết (miệng người sang có gang có thép). Trái lại phải đối thoại để kiểm chứng từ nhiều nguồn trước khi kết luận, nhất là cần nghe ý kiến giải thích biện hộ của ứng sinh. Ngay cả những điều nhìn thấy tận mắt cũng chưa thể khẳng định, vì chúng ta không lường hết được mọi tình huống. Nhớ câu chuyện của Khổng Tử và Nhan Hồi: “Có những việc chính mắt mình thấy vậy mà không phải vậy.”

Lắng nghe tích cực là dám hỏi và nghe góp ý của người khác, dù rất khó nghe và đòi mình phải thay đổi. Càng ít tự ái khi nghe những lời phê bình, càng ít tự mãn về hiểu biết của mình, thì càng dễ lắng nghe và tôn trọng chuyên môn của ứng sinh: “Tam nhân đồng hành tất hữu ngã sư.” Lắng nghe là tin Thiên Chúa nói với mình qua ứng sinh và cùng với ứng sinh tìm ra con đường riêng tư mà Chúa muốn ứng sinh đi. Chúa Giêsu cũng đã hỏi các tông đồ: “Các con nghĩ Thầy là ai?” và Phêrô đã tuyên xưng Ngài là con Thiên Chúa. Biết ứng sinh nghĩ về mình thế nào cũng giúp nhà đào tạo thăng tiến chính mình. 

e. Tôn trọng ứng sinh

Nhà đào tạo không dùng quyền một cách vội vã, dù chính đáng. Cần cân nhắc, đắn đo trước khi hành động. Phải xem nên làm gì, khi nào, nơi nào và làm cách nào thuận tiện để đạt kết quả tốt nhất. Càng ít ra lệnh thì lệnh càng nghiêm. Nhà đào tạo góp ý, tránh mắng nhiếc, mạt sát, làm nhục một người được Chúa chọn gọi (x. Câu chuyện trò Trang). Sửa lỗi ứng sinh cách bình tĩnh, không la lối, không nổi giận, nhưng kín đáo, tế nhị, thận trọng; phê phán hành vi sai lỗi hơn là phê phán người phạm sai lỗi.  

Nhà đào tạo nên cho ứng sinh được tự do trong những gì không mấy quan trọng, để họ được đưa ra sáng kiến, được thể hiện chính mình. Chấp nhận để họ mạo hiểm áp dụng những cách xử lý mới, dù họ có thể vấp váp, sai sót trong bước đầu; từ đó giúp họ biết điều chỉnh và rút kinh nghiệm hơn là đưa ra những chỉ dẫn quá chặt chẽ, chi li, bóp chết mọi suy nghĩ và sáng tạo. Tin tưởng ứng sinh và cho họ có một không gian riêng tư để thở, để là mình, để lớn lên. Họ cũng cần được tôn trọng và có không gian riêng với nhau ở một mức độ nào đó. Là khí cụ của Thiên Chúa, nhà đào tạo tôn trọng Ngài, vì Ngài đào tạo xuyên qua những biến cố Ngài cho phép xảy ra trong cuộc đời ứng sinh. Nhà đào tạo phải thấy được và tôn trọng lối đào tạo của Chúa cho từng con người.  

f. Lạc quan và hy vọng

Thời gian đào tạo là thời gian không dễ dàng, vì thế niềm vui và nụ cười trên khuôn mặt nhà đào tạo làm vơi nhẹ đi rất nhiều lo âu cho ứng sinh. Bầu khí cộng đoàn chịu ảnh hưởng bởi tính khí của nhà đào tạo. Lạc quan là có cái nhìn tích cực, lời nói tích cực và việc làm tích cực đối với ứng sinh. Lạc quan là nhìn ra những điểm sáng giữa bóng tối, là tin tưởng và hy vọng không ngơi vào lòng tốt, sự phục thiện và quyết tâm sửa đổi của ứng sinh. Lạc quan là giũ bỏ mọi thành kiến để nhìn ứng sinh bằng cái nhìn mới, là không kể tội quá khứ, là cho họ một cơ hội nữa để làm lại từ đầu sau những vấp ngã. Thái độ bi quan có thể bóp chết những cố gắng lật sang trang và bước một bước mới của ứng sinh, đồng thời làm cho họ ở trong tình trạng căng thẳng và chán nản thường xuyên.  

g. Nhẫn nại, bao dung, cảm thông và uyển chuyển

Nhà đào tạo không để mình dễ nóng giận, có giận cũng biết làm chủ cơn giận của mình, và giận có lý do chính đáng tương xứng: Nhà đào tạo nhẫn với ứng sinh như Chúa đã nhẫn với mình. Nhẫn đòi phải chờ đợi, có khi trong thời gian dài, tưởng như vô ích: Việc nhỏ không nhẫn nhục sẽ làm hư việc lớn. Mà có việc gì lớn hơn việc đào tạo con người?: “Kế một năm không gì bằng trồng lúa, kế mười năm không gì bằng trồng cây, kế trăm năm không gì bằng trồng người.” Nhà đào tạo muốn nhẫn nại cần phải khiêm tốn, vì nhẫn là chấp nhận thua, chấp nhận chịu đau khổ do người dưới quyền, chấp nhận không dùng quyền dù có thể dùng. Đừng sợ nhẫn quá sẽ làm hư ứng sinh. Thực tế họ sẽ bị đánh động nhiều và sâu xa trước sự nhẫn nại vô bờ của nhà đào tạo, và họ sẽ quyết tâm sống thật tốt để đền đáp lại.  

Bao dung là không chấp nhất những điều nhỏ mọn, chi li, không bắt bẻ những thiếu sót vô ý, không nhớ dai và hay nhắc lại chuyện cũ. Cái gì đã qua thì nên cho qua đi luôn, vì chẳng ai có thể thay đổi được những gì đã xảy ra trong quá khứ. 

Quảng đại là cư xử rộng rãi hơn mức ứng sinh dám mong, là cho đi điều mà họ không dám đòi. Họ mong được nhà đào tạo cảm thông, thấu hiểu những thách đố, cám dỗ mà họ phải gánh chịu. Họ cũng mong được tha thứ những vấp ngã của họ.  

Uyển chuyển, mềm mại, nhu thuận: Biết lúc cương lúc nhu, biết thích nghi với tình huống cụ thể, không cứng nhắc, chấp nhận nguyên tắc chung phải theo, nhưng cũng chấp nhận ngoại lệ cho cá nhân. Không đào tạo theo lối đúc gạch (x. 1 Cr 13, 4-7)[8] 

h. Khả năng lãnh đạo

Mục tiêu nhà đào tạo nhắm tới là sự triển nở nhân cách của người sống đời thánh hiến nên cần coi trọng sự đóng góp độc đáo của từng người, tùy theo khả năng Chúa ban. Nguyên tắc bổ trợ hay phân quyền[9] có thể được áp dụng ở một mức nào đó trong đời tu. Các công việc trong cộng đoàn cần được chia ra để mỗi người đều có trách nhiệm. Nhà đào tạo tôn trọng người đảm trách công việc, cho họ chút tự do để suy nghĩ xem làm sao có kết quả tốt nhất, đó cũng là cách làm họ trưởng thành và gắn bó với cộng đoàn. 

Trong tinh thần ấy, ĐTC Gioan-Phaolô II trong Tông Huấn Đời Sống Thánh Hiến (ban hành ngày 25/3/1996) khẳng định: “Các tu hội được mời gọi hãy can đảm tìm lại tinh thần xông xáo dám nghĩ dám làm, óc sáng tạo và sự thánh thiện của các đấng sáng lập, để đáp trả những ‘thời điểm’ đang xuất hiện trong thế giới ngày nay. Lời mời gọi này tiên vàn nhắm đến việc kiên trì trên đường nên thánh, giữa những khó khăn vật chất và tinh thần gặp phải trong cuộc sống hằng ngày. Nhưng đó cũng là lời mời gọi hãy thủ đắc cho được một khả năng chuyên môn trong việc làm, và trung thành năng động trong sứ mệnh của mình, bằng cách biết thích nghi các hình thái, khi cần, với những hoàn cảnh mới và những nhu cầu khác nhau, trong thái độ hoàn toàn tuân phục sự soi sáng của Thiên Chúa và sự biện phân của Giáo Hội.  

Phải xác tín vững chắc rằng việc cố gắng ngày càng nên đồng hình đồng dạng với Chúa hơn, là điều kiện đích thực của mọi cuộc canh tân trung thành với linh ứng nguyên thủy của mỗi tu hội. Trong tinh thần này, mọi tu hội phải canh tân lối nhìn về luật dòng, vì một lộ trình đã được phác họa trong luật dòng và hiến chương để thực hiện việc đi theo Chúa Kitô, tương ứng với đặc sủng riêng đã được Giáo Hội chuẩn nhận. Càng trân trọng luật dòng, người tận hiến càng có những tiêu chuẩn chắc chắn, để tìm ra những phương thức thích đáng cho sứ vụ đáp ứng những đòi hỏi của thời đại mà không xa rời linh ứng nguyên thủy” (Vita Consecrata, số 37).  

“Các con không những phải nhớ và kể lại một lịch sử huy hoàng, mà còn phải kiến tạo một lịch sử vĩ đại nữa. Hãy hướng về tương lai, tới chỗ mà Thánh Thần đang sai các con đi để làm những việc trọng đại. Các con hãy biến cuộc đời các con thành cuộc trông đợi sốt sắng Chúa Kitô… Hãy sẵn sàng luôn luôn, hãy trung thành với Chúa Kitô, với Giáo Hội, với tu hội của mình và với con người thời đại này. Nhờ thế, ngày qua ngày, các con sẽ được Chúa Kitô đổi mới, và nhờ Thánh Thần trợ giúp, các con sẽ kiến tạo những cộng đoàn huynh đệ,…và góp phần độc đáo của các con vào sự biến hình của thế giới… Mong sao cho thế giới đã được trao vào tay con người sẽ được nhân đạo hơn, công bằng hơn, trở nên dấu chỉ và hình ảnh báo trước thế giới sắp đến…” (Vita Consecrata, số 110). 

i. Tận tâm phục vụ

Nhà đào tạo vừa lãnh đạo vừa phục vụ cộng đoàn như Chúa Giêsu: “Thầy ở giữa anh em như người phục vụ” (Lc 22, 27), mới có thể huấn luyện ứng sinh trở thành người phục vụ. Phục vụ đòi phải đứng mũi chịu sào, chấp nhận con dại cái mang “trên đe dưới búa”, và đón lấy thánh giá không thể tránh khỏi mỗi ngày. Xin lỗi, cám ơn, khen ngợi, an ủi, giúp đỡ, cộng tác, chia sẻ, sẵn sàng dành thời giờ để gặp gỡ, hiện diện thường xuyên trong cộng đoàn… là những cách diễn tả việc tận tâm phục vụ của nhà đào tạo hôm nay. Có thể nói, nhờ phục vụ mà nhà đào tạo theo sát được các ứng sinh của mình để đào tạo (x. Kiểm soát bằng cách phục vụ). 

6. Các giai đoạn đào tạo tu sĩ[10] 

Tiến trình đào tạo tu sĩ qua các giai đoạn liên tục nhằm sự đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô, cho cả nhà đào tạo lẫn ứng sinh.  

Trước hết nhà đào tạo phải theo mẫu gương của Chúa Giêsu. Ngài đã sống với các môn đệ liên tục không gián đoạn trong ba năm cuộc đời công khai cho đến khi chết trên thập giá. Ngài đã đồng hành cùng họ với tình yêu bao dung, nhẫn nại và săn sóc ân cần để họ được lớn lên trong đức tin và trưởng thành, thiêng liêng lẫn nhân bản. Ngài biết rõ mỗi người, những cá tính, những điểm mạnh và những điểm yếu của họ. Ngài nhẫn nhục chịu đựng những khuyết điểm, những bất toàn, những tham vọng trần tục, những bướng bỉnh, thiếu lòng tin và chậm hiểu của họ về các mầu nhiệm Nước Trời; và Ngài kiên trì chờ đợi Thánh Thần đến kiện toàn công cuộc đào tạo họ: “Thầy còn nhiều điều để nói với anh em, nhưng bây giờ anh em không thể hiểu. Khi Thần Chân Lý đến, Người sẽ hướng dẫn anh em biết tất cả sự thật” (Ga 16,12-13). Chúa Giêsu cũng hằng cầu xin Chúa Cha giữ gìn bảo vệ các môn đệ: “Con không xin Cha cất họ ra khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi tay ác thần” (Ga 17,15).

Các giai đoạn đào tạo tuy khác nhau nhưng phải có sự liên tục tiệm tiến và tổng thể, ăn khớp mắt xích với nhau trong chiều hướng canh tân tìm kiếm một phương thức thể hiện mới để Hội Dòng hiện diện hữu hiệu trong hoạt động dưỡng giáo lẫn truyền giáo của Giáo Hội. Phương thức này đòi hỏi canh tân các giá trị, các tâm thức, các quan điểm, các mối quan hệ, cách suy nghĩ và hành động, lối sống và cách thi hành sứ vụ, nghĩa là một cuộc canh tân sâu sắc và toàn diện. 

Công cuộc đào tạo này là trách nhiệm của mọi thành phần trong Dòng, và được Hội Dòng ủy thác cách riêng cho các nhà đào tạo, từ giai đoạn đào tạo khởi đầu Đệ tử viện, Nhà Thử, Nhà Tập mà cao điểm là việc tuyên khấn lần đầu, qua giai đoạn Học viện được kết thúc với việc tuyên khấn trọn đời, đến giai đoạn đào tạo thường xuyên diễn ra trong suốt cả cuộc đời mỗi tu sĩ, với những hình thức rất đa dạng và thích hợp cho từng hoàn cảnh và độ tuổi, phản ánh nổi bật đặc sủng và linh đạo Dòng thể hiện trong Hiến Chương, Nội Quy và Luật Sống.  

Việc đào tạo ngày nay được thực hiện với nhiều người và cho nhiều người, nhưng phải chú trọng đến sự hợp tác của từng cá nhân, với từng hoàn cảnh cá biệt, nghĩa là phải được cá nhân hóa và nội tâm hóa, tức vừa được đào tạo vừa tự đào tạo, trong một tổng thể liên tục qua các giai đoạn đào tạo và tự đào tạo.

a. Giai đoạn đệ tử viện

Đệ tử viện là nơi Dòng tiếp nhận và đào tạo các em muốn thử tìm hiểu và sống ơn gọi tu trì. Các em được hướng dẫn sống chung với nhau, cùng tham gia mọi sinh hoạt do Dòng tổ chức hướng về việc tìm hiểu hỗ tương (các em tìm hiểu Dòng và Dòng tìm hiểu các em) xem có thích hợp với Dòng không, nếu không hợp thì ra về hoặc đi Dòng khác.

Vì hoàn cảnh, ngày nay không có trường Dòng riêng hoặc trường công giáo, nên các em đệ tử vẫn đi học trường ngoài đời. Điều này có những thuận lợi và bất thuận lợi, những tích cực và tiêu cực của nó trong việc đào tạo tu sĩ, nhất là trong lãnh vực tương quan tình cảm và giới tính, cần có những nhà đào tạo kỹ năng và tâm huyết đồng hành với các em, vừa phòng bệnh vừa chữa bệnh, để khảo sát và chữa lành hầu đạt được sự ổn định cần thiết; những gánh nặng nội tâm cần được tháo gỡ và giải quyết nhờ sự trợ giúp của vị linh hướng.

Việc đào tạo trong giai đoạn này nhằm giúp các em tìm hiểu các loại hình ơn gọi, kể cả ơn gọi hôn nhân, để các em tự do quyết định chọn đời tu, chứ không đưa các em vào thế “bó buộc” phải đi tới. Tiếp đến tiệm tiến nhập môn cho các em về đặc sủng, linh đạo, mục đích, sứ mệnh của Dòng, đối chiếu với đặc sủng ân ban cá nhân của các em. Phải có sự thích và hợp với Dòng thì ơn gọi đó mới triển nở bền vững được. Việc đào sâu và sống đặc sủng và linh đạo của Dòng phải được tiến hành dần dần theo từng giai đoạn đào tạo, càng lâu càng thấm, càng lên cao càng nhấn mạnh.

Để vun trồng và nuôi dưỡng ơn gọi, nhà đào tạo phải nhắm tới một tiến trình đào tạo toàn diện cho các em, vừa nhân bản, thiêng liêng, tri thức và tông đồ. Cần để ý khả năng sống cộng đoàn của các em, vì đời sống huynh đệ cộng đoàn là một trong bốn cột trụ căn bản chống đỡ đời tu, đặc biệt trong việc sống ba lời khuyên Phúc Âm (Chúa Giêsu, Phúc Âm, Đời sống huynh đệ cộng đoàn, Sứ vụ chứng tá). Tập cho các em ham thích đời sống cầu nguyện, cử hành phụng tự và bí tích. Giúp các em học văn hóa và chuyên môn thích hợp để trở nên người tốt và hữu dụng. Có thể hướng nghiệp cho các em phù hợp với sứ mệnh của Dòng. Giúp các em có ý thức trách nhiệm trong việc tổ chức đời sống mình, dễ nhận thấy nhất là trong công việc được giao phó.

Trách nhiệm của Chị Giáo và những trợ tá là tìm hiểu, xem xét và đánh giá tất cả các bối cảnh gia đình, môi trường và động lực của các em hầu đi đến kết luận một cách tương đối là các em khả dĩ có ơn gọi hay không để đưa lên giai đoạn đào tạo tiếp theo. Đừng vội có kết luận dứt khoát, vì tiến trình ơn gọi còn lớn lên, triển nở và được khẳng định với thời gian và ơn Chúa. Cũng hãy để cho Chúa làm công việc của Ngài nữa. 

Như thế, để thẩm định ơn gọi cần có một sự hợp tác giữa đôi bên, Nhà Dòng và các em, các em và Nhà Dòng, theo tiến trình ơn gọi 5 bước:

·        Chúa gọi (trực tiếp hay gián tiếp)

·        Các em quảng đại đáp lại.

·        Các em cam kết theo chính Chúa Kitô toàn thể với vinh quang và thập giá, nghĩa là khi vui cũng như khi buồn, lúc thành công cũng như lúc thất bại, khi sướng cũng như khi khổ, đều luôn trung thành theo chính Chúa Kitô, chứ không phải ai khác.

·        Các em dần dần biến đổi và điều chỉnh đời sống mình cho phù hợp với đời tu trong linh đạo Dòng.

·        Kiên trì chu toàn bổn phận hằng ngày hôm nay và sứ vụ Dòng sẽ giao phó mai sau.  

b. Giai đoạn Tiền Tập viện 

Thời kỳ đi trước và chuẩn bị giai đoạn Tập viện là giai đoạn thử thách (Nhà Thử) nhằm tìm bảo đảm rằng ứng sinh đã đạt tới sự trưởng thành khả dĩ về nhân bản và kitô chứng tỏ có khả năng đảm đương dần dần tất cả những đòi buộc của đời sống thánh hiến. Việc đào tạo ở Nhà Tập tùy thuộc vào phẩm chất của các ứng sinh đã được nhận vào.  

Thời kỳ này để ứng sinh nghiêm chỉnh bắt đầu khám phá ơn gọi đời sống thánh hiến của mình và thực hiện cuộc điều chỉnh tiệm tiến về mặt thiêng liêng cũng như tâm lý để chuẩn bị một sự cắt đứt cần thiết nào đó với môi trường xã hội, cũng như các mối tương quan không thích hợp của mình ngõ hầu tham gia trọn vẹn tiến trình đào tạo và tự đào tạo. 

Hầu hết những khó khăn gặp phải ngày nay trong việc đào tạo các tập sinh thường do sự kiện khi họ được nhận vào nhà tập thì họ chưa có được sự trưởng thành đòi buộc” (Những chỉ dẫn về đào tạo trong các Dòng tu số 42). Tuy vậy, không được đòi hỏi một ứng sinh vào đời sống thánh hiến phải có ngay lập tức khả năng đảm trách tất cả mọi bó buộc của đời sống thánh hiến, mà là có khả năng làm việc ấy cách tăng tiến dần dần.   

Xác định và đánh giá ứng sinh để thâu nhận vào Nhà Tập là mục đích của giai đoạn này. Việc này có thể tóm tắt trong bốn động từ sau đây: xác minh, làm sáng tỏ, không rút ngắn vô lý, không kéo dài quá mức: “Phải làm thế nào để thời gian này chứng minh và làm sáng tỏ một số điểm giúp các Bề trên định đoạt về sự thích hợp và thời điểm để thâu nhận vào Nhà Tập. Không nên rút ngắn hoặc kéo dài vô lý giai đoạn này, miễn làm sao có được một phán đoán chắc chắn về tư cách xứng đáng của ứng sinh” (sd số 43). 

Những điểm lợi ích đặc biệt của việc biện phân cần được thẩm tra nơi các ứng sinh vào đời sống thánh hiến là:

·        Trình độ trưởng thành về nhân bản và kitô;

·        trình độ văn hóa phổ thông cơ bản;

·        sự quân bình tình cảm và giới tính, bao hàm việc chấp nhận sự khác biệt của tha nhân và tôn trọng quyền bảo vệ bí mật của họ;

·        và khả năng sống cộng đoàn. 

Ba hình thức thực hiện giai đoạn tiền tập viện:

·        Đón tiếp ứng sinh vào một cộng đoàn Dòng;

·        Các thời kỳ giao tiếp với một cá nhân hay cộng đoàn;

·        Cuộc sống chung trong một nhà nơi các ứng sinh được đón nhận.            

Điều đó nói rõ rằng các thỉnh sinh chưa phải là những thành viên đầy đủ của Dòng. Một sự kết nạp tiệm tiến được bảo đảm. Phải nhớ rằng con người đang được đồng hành thì quan trọng hơn các động lực hay cơ cấu tiếp nhận (sd số 44) 

c. Giai đoạn Tập viện 

Giai đoạn Tập viện là thời kỳ của việc kết nạp toàn diện; là một thời gian đặc ân để cầu nguyện và chiêm niệm để biện phân ơn gọi đích thực vào đời sống thánh hiến (x. GL 652,5). Việc trau dồi các giá trị và hòa nhập thực tại kêu gọi/đáp trả qua cầu nguyện, suy nghĩ, học hỏi, đặc biệt về đặc sủng và linh đạo Dòng, mở ra và phục vụ lẫn nhau.  

Mục đích của tập sinh được mô tả bởi GL 646 trong 4 động từ nhận biết, kinh nghiệm, được đào tạo và được thử thách (sd số 45):

·        Tập sinh phải nhận biết tốt hơn ơn gọi của Chúa, phù hợp với Dòng mình;

·        Tập sinh phải được đào tạo trí óc và con tim theo tinh thần Dòng qua việc đào sâu và sống đặc sủng và linh đạo của Dòng;

·        Tập sinh phải kinh nghiệm lối sống của Dòng bằng việc thực hành Hiến Chương, Nội Quy và Luật Sống của Dòng;

·        Các động lực của Tập sinh (phương diện chủ quan) và tính thích hợp (phương diện khách quan) phải được thử thách, kiểm chứng.  

Việc khai tâm để kết nạp quan trọng hơn nhiều việc dạy dỗ đơn thuần. Nó dần dần dẫn dắt tập sinh đi vào những thành phần khác nhau cấu tạo nên đặc sủng đời sống thánh hiến (sd số 46-47):

·        Khai tâm vào một sự hiểu biết sâu xa và sống động về Chúa Kitô và Cha Ngài (qua Thánh Kinh, Phụng vụ, Cầu nguyện cá nhân và Lectio Divina);

·        Khai tâm vào Mầu nhiệm Phục sinh (các lời khuyên Phúc Âm, sự khổ chế vui tươi, chấp nhận can đảm mầu nhiệm thập giá);

·        Khai tâm vào đời sống huynh đệ Phúc Âm;

·        Khai tâm vào lịch sử, sứ mệnh đặc biệt, đặc sủng và linh đạo của Dòng (các thời kỳ hoạt động tông đồ ở bên ngoài cộng đoàn) 

Mấy điều kiện tập sinh phải thực hiện (sd số 49-50):

·        Tính mềm dẻo và thận trọng;

·        Một khung cảnh riêng và bầu khí thanh bình để có thể cắm rễ sâu vào cuộc sống với Chúa Kitô;

·        Sự cắt đứt và tước bỏ chính mình (một điều kiện cần thiết cho những chọn lựa mới có ý nghĩa);

·        Lồng ghép tập sinh vào các cộng đoàn là tuyệt đối không nên (x. GL 647-649).

·        Trong thời gian tập viện, đời sống thiêng liêng trổi vượt hơn đời sống tông đồ.  

Chị giáo tập (sd số 51) là người trách nhiệm chính chăm sóc các tập sinh, nhưng ở dưới quyền của Bề trên thượng cấp (x. GL 650). Để chu toàn cách thích hợp sứ vụ đào tạo của mình: Chị giáo tập phải được tự do khỏi mọi bó buộc khác có thể cản trở việc chu toàn trách nhiệm của mình; các cộng tác viên phải lệ thuộc chị giáo tập, nhưng họ có một vai trò quan trọng trong việc biện phân và quyết định liên quan đến tập sinh; chị giáo tập là người đồng hành của mỗi người và tất cả các tập sinh: tập sinh là nơi chốn thừa tác vụ của chị. Giáo tập trong các Dòng giáo sĩ thường không cho các tập sinh xưng tội, trừ khi gặp hoàn cảnh phải thu xếp như vậy.  

d. Giai đoạn Học viện 

Là thời kỳ đào tạo giữa thời gian tiên khấn và vĩnh khấn. Đào sâu sự cam kết với Chúa Kitô và sứ vụ của Ngài, đồng thời sống cao độ bốn sự trung thành:

·        Trung thành với Chúa Kitô và Phúc Âm;

·        Trung thành với Giáo Hội và sứ mệnh của Giáo Hội;

·        Trung thành với đời sống thánh hiến và đặc sủng của Hội Dòng, cụ thể trong việc sống Hiến Chương, Nội Quy và Luật Sống của Dòng;

·        Trung thành với các thời triệu qua đó thánh ý Chúa được biểu lộ.

để biện phân cho sự cam kết suốt đời với Chúa Kitô và sứ vụ của Ngài trong tinh thần và đặc sủng của Dòng. 

Những gì Giáo Hội truyền dạy (sd số 58):

GL 659 nói rõ ràng: trong mỗi Dòng, việc đào tạo tất cả các thành viên phải được tiếp tục, nhờ đó họ có thể sống đầy đủ hơn cuộc sống thích hợp với Dòng mình và chăm lo sứ vụ của mình cách phù hợp hơn.  

GL 660 thêm rằng công cuộc đào tạo này phải:

·        Có hệ thống, chứ không theo lối phân mảnh;

·        được thích nghi với khả năng của các thành viên;

·        có tính cách thiêng liêng và tông đồ; vừa giáo thuyết vừa thực hành, với nhiều trình độ khác nhau.

·        Đàng sau những chỉ thị đó là nguyên lý hội nhập và quân bình.  

Nội dung và phương tiện đào tạo (sd số 60 – 61). Mỗi Dòng được yêu cầu cung ứng cho ứng sinh:

·        Một cộng đoàn đào tạo: Đời sống cộng đoàn mang lại thực tiễn cho ứng sinh; giúp ứng sinh trưởng thành cá nhân, tự trọng và kích thích tinh thần đồng trách nhiệm.

·        Các nhà giáo dục/đào tạo, đồng hành thành thạo.

·        Chương trình học nghiêm túc

·        Cam kết dấn thân làm việc tông đồ và xã hội (sd số. 62) phải theo đặc sủng và linh đạo của Dòng, lưu tâm đến năng khiếu và ước vọng cá nhân, nỗ lực thực thi sự thống nhất đời sống trong tương quan với bốn diều phải trung thành (với Chúa Kitô và Phúc Âm, với Giáo Hội và sứ mệnh của Giáo Hội, với đời sống thánh hiến và đặc sủng Dòng, với nhân loại và thời đại chúng ta)         

·        Vị linh hướng (sd số 63): Ngoài những người có trách nhiệm đồng hành thiêng liêng (Bề trên, chị giáo), mỗi Dòng đều nên có những người có khả năng và thành thạo nên được chỉ định giúp linh hướng/cố vấn về lương tâm cho tu sĩ, dù không giải tội. Các phương pháp sư phạm tâm lý không thể thay thế việc linh hướng, và Vat. II đòi phải để một “tự do thích đáng” (x. GL 220). Liên quan đến việc chọn vị linh hướng, điều quan trọng là phải giúp ứng sinh cảm thấy được tự do trong lương tâm để chọn một người mà ứng sinh cho là thích hợp hơn. Đàng khác, người làm tác vụ này phải có ơn đặc biệt và làm cho mình có khả năng để làm việc đó.          

e. Giai đoạn đào tạo tiếp tục (thường huấn) 

Vì các giới hạn nhân loại, con người không bao giờ hoàn toàn đạt tới cuộc sống của “một tạo vật mới” phản ánh được thần trí Chúa Kitô trong mọi hoàn cảnh sống (VC 69). Do đó, tu sĩ cần được đào tạo và tự đào tạo thường xuyện, với nhiều trình độ và tuổi tác khác nhau (tuổi tu và tuổi đời). Đào tạo thường xuyên là một chương trình tổng quát nhằm canh tân mọi chiều kích của cá nhân cũng như của cả nhà Dòng.  

Đào tạo thường xuyên giúp tu sĩ lớn lên trưởng thành tự mình đứng vững: Những năm đầu tiên dấn thân trọn vẹn trong việc tông đồ, đi từ một cuộc sống được trông nom đến một tình trạng chịu trách nhiệm hoàn toàn về việc mình làm, từ lúc cần có người đồng hành trong cuộc sống đến lúc triển nở đầy đủ về tình yêu và lòng nhiệt huyết cho Chúa Kitô. 

Tuổi trung niên là thời gian tìm kiếm những gì là căn bản: Sự nổi bật của con người thật và thách đố để hòa nhập mọi cực của cuộc sống. Thời kỳ cho sự cô đơn sáng tạo và sinh hoa kết trái thiêng liêng. Hành trình hướng nội để sống mầu nhiệm Phục sinh. Tuy nhiên, tu sĩ trong độ tuổi này cũng có thể liều mình vấp phải thói quen. Cần có sự thúc đẩy và các động lực tươi mới, sự hiểu biết và chấp nhận mùa vọng của tiến trình tuổi già. 

Vị tu sĩ tiến dần đến giai đoạn cuối đời, tuổi của trưởng thành và trọn vẹn. Người thánh hiến nhận diện được hơn bao giờ cả những gì là thật, căn bản và không thể bị phá hủy trong đời sống. Đây là giai đoạn vị tha, biết ơn, khôn ngoan và bình an, hướng tới sự hòa nhập tích cực của sự sống và sự chết nhằm đến đời sống sung mãn và hiệp thông với Chúa.  

Tuy nhiên cũng không thiếu người cảm thấy những hụt hẫng, nặng lòng vì bất lực, trở nên vô dụng hay bị bỏ quên... cần được nâng đỡ, chăm sóc giúp nhớ lại và sống tình yêu hăng say của buỗi ban đầu “một lần đã quảng đại thì cố quảng đại cho đến cùng.” Cần quan tâm đặc biệt về chế độ chăm lo cho những người hưu dưỡng. Đó cũng là một cách “làm yên lòng” cho lớp đàn em hăng say phục vụ hết mình. 

Các lý do của thường huấn: Người có sáng kiến là Thiên Chúa, Đấng vẫn tiếp tục kêu gọi trong thời gian và những hoàn cảnh mới. Cần phải đi theo Chúa Kitô, luôn đặt mình lên đường. Đặc sủng là một quà tặng phải được đón nhận trong những điều kiện mới mẻ. 

Việc thường huấn đòi hỏi:

·        Trí thông minh để đọc được các hoàn cảnh, những dấu chỉ thời đại và những dấu chỉ của Chúa Thánh Thần;

·        Ý chí dấn thân trong Giáo Hội;

·        Tính táo bạo trong sáng kiến;

·        Tính kiên trì trong cam kết;

·        Lòng khiêm tốn để chấp nhận và vượt qua mâu thuẫn;

·        Chức năng biểu tượng cánh chung phù hợp với đời sống thánh hiến;

·        Thách đố do tương lai đặt ra cho đức tin công giáo, kể cả tương lai của các Dòng Tu. 

Ngoài ra cũng có dữ liệu tâm lý về nhu cầu đào tạo trong các hoạt động chuyên nghiệp. Đào tạo khởi đầu có mục tiêu chính là giúp ứng sinh đạt được đủ tự lập để sống những cam kết trong sự tín trung. Đào tạo thường xuyên có mục tiêu giúp các ứng sinh hội nhập với lòng trung thành. Sự thống nhất giữa đòi hỏi đào tạo thiêng liêng và đời sống nội tâm luôn phải được đặt lên địa vị ưu tiên. Đào tạo thường xuyên phải đề cập tới các vấn đề thiêng liêng, tham dự vào đời sống Giáo Hội như những tác nhân canh tân giáo thuyết và nghiệp vụ, cũng như hiện tại hóa đặc sủng của Hội Dòng.  

 

B.  NhỮng bẤt cẬp và thái quá trong con ngưỜi và sỨ vỤ đào tẠo. 

Chúng ta chân thành cám ơn Chúa, biết ơn các Bề Trên  Giáo Hội và Hội Dòng, cùng các nhà đào tạo đi trước đã dày công đào tạo và vun đắp cho đời sống tu trì của chúng ta có được ngày hôm nay. Các ngài đã chưa lấy thế làm đủ mà còn tín nhiệm giao phó cho chúng ta trách nhiệm đào tạo thế hệ tu sĩ tương lai. Những nỗ lực và kinh nghiệm của quá khứ là bàn đạp, là đà bẩy và là bệ phóng giúp chúng ta hướng tới tương lai.

Cho đến nay, người trước kẻ sau, chúng ta đã cố gắng rất nhiều. Nhưng bên cạnh những ưu điểm và ý hướng tốt, chúng ta cũng cần thẳng thắn nhìn lại đôi nét cách thức đào tạo mà chúng ta đã và đang làm có thể không thích hợp với huấn quyền Giáo Hội và khoa sư phạm đồng hành của thời đại hôm nay, một thời đại đang đổi mới từng ngày. Hy vọng một khi nhận ra được những bất cập hay thái quá của mình, chúng ta sẽ tự cải thiện bản thân và cải tiến cách đào tạo của mình, sao cho phù hợp với đường lối đào tạo của Giáo Hội trong giai đoạn mới (x. Huấn thị Xuất phát lại từ Chúa Kitô ngày 19.5.2002).        

1. Óc nệ cổ

Vì nệ theo truyền thống “xưa bày nay làm”, nhiều khi chúng ta áp dụng lại cách thức mình đã được đào tạo trước đây mà không cập nhật, thay đổi và cải tiến theo những chỉ dẫn của Huấn quyền Giáo Hội, cũng như của khoa sư phạm thời nay. Ngày xưa làm như vậy là tốt, nhưng ngày nay không còn thích hợp nữa (vd. Làm vỡ cái bát bị phạt đội cái bát vỡ quỳ giữa lối đi, hay phạt nằm sấp giữa lối đi cho mọi người bước qua, phạt ngồi ăn cơm muối một mình dưới sàn trong nhà cơm chung, v.v… làm tổn thương tự ái, tự trọng và nhân phẩm). 

2. Điều tra ứng sinh về ứng sinh khác

Để nắm bắt sâu sát tình hình các ứng sinh hầu công cuộc đào tạo được hiệu quả, một số nhà đào tạo trong chúng ta hay hỏi các ứng sinh về những ứng sinh khác, lấy lý do “họ ở với nhau, biết nhau hơn mình” và đơn sơ tin vào các “báo cáo” đó mà không chắt lọc và lắng nghe cả hai phía, khiến có những trường hợp bị oan uổng, gây nghi ngờ, cảnh giác, sợ hãi, và có khi thù oán nhau nữa. 

3. Bắt ứng sinh nhận xét nhau

Vì muốn giúp đỡ các ứng sinh sửa chữa và hoàn thiện bản thân, một số nhà đào tạo trong chúng ta yêu cầu mỗi ứng sinh  nhận xét về các ứng sinh khác, nhưng lại làm lộ tên người viết, nhất là khi nhận xét gây thiệt hại lớn cho người bị nhận xét, khiến có sự buồn lòng và mâu thuẩn giữa các ứng sinh (có khi giận thù nhau, tẩy chay nhau, không thèm nhìn mặt nhau). Việc này cũng khiến họ giảm bớt lòng tín nhiệm và trở nên dè dặt đối với nhà đào tạo, tổn thương bầu khí bình an, huynh đệ và thăng tiến của cả cộng đoàn. Thật ra, về những điều tiêu cực, chỉ nên nói đến một tình trạng chung, không nêu đích danh người nào, để người có trách nhiệm đào tạo nhắc nhở chung, ai có liên hệ bản thân thì tự mình lo sửa chữa cho nên tốt.  

4. Lẫn lộn tòa trong và tòa ngoài

Một số nhà đào tạo trong chúng ta chưa phân biệt đủ tương tác tòa trong và tòa ngoài, không giữ kín mà lại đem nói ra điều ứng sinh tín nhiệm tâm sự hay lỗi lầm thầm kín của họ mà mình biết được khi đồng hành thiêng liêng hay linh hướng, khiến họ bị thiệt hại, đau khổ rồi từ đó đóng lòng lại vì mất tin tưởng ở nhà đào tạo. Thật ra linh hướng thuộc bí mật tòa trong, và tương quan linh hướng là tương quan bí mật khép kín tay ba giữa Chúa Thánh Thần, người thụ hướng và vị linh hướng (x.GL 220). Bí mật linh hướng có cùng qui chế với ấn tòa giải tội. 

5. Tin thư nặc danh

Một số nhà đào tạo trong chúng ta đơn sơ dễ tin thư nặc danh và áp dụng biện pháp không thích đáng cho người bị tố cáo, trong khi đáng ra phải vứt bỏ thư nặc danh và tìm trừng trị kẻ hèn nhát không dám ký tên chứng thực điều mình viết, coi như một thứ gian lận cần phải loại trừ; đồng thời quan tâm tìm hiểu thực hư thế nào để giúp đỡ các đương sự sống tốt hơn. 

6. Dùng “ăng-ten” theo dõi báo cáo

Nhằm tính hiệu quả trong việc hiểu biết mọi thành viên, một số nhà đào tạo trong chúng ta dùng một số ứng sinh tin tưởng (có khi khéo xu nịnh và a dua) làm tay chân theo dõi và báo cáo về các ứng sinh khác. Việc này gây rối loạn trong cộng đoàn, bao phủ bởi bầu khí nghi ngờ, sợ sệt, lo âu, thù hằn, mất bình an,… rất tác hại cho công cuộc đào tạo, và vô tình bị chính những tay sai của mình lèo lái và điều khiển theo ý họ, theo lối “lừa thầy phản bạn.” Nhà đào tạo không nên dùng lối đó, mà chính mình sẽ đích thân kiểm soát bằng sự phục vụ đầy chăm sóc và gần gủi yêu thương, vì cuộc sống mỗi ngày sẽ mạc khải đúng con người thật: “Đi lâu mới biết đường dài, ở lâu mới biết con ngài phải chăng.” Nhờ đó sẽ phát hiện kịp thời và có cách thích hợp nhất để uốn nắn, đào tạo với lòng cảm thông.  

7. Lạm dụng Thần quyền

Cũng nhằm tính chắc chắn tuyệt đối, một ít nhà đào tạo trong chúng ta lạm dụng biện pháp thánh thiêng để điều tra sự việc như bắt ứng sinh đặt tay trên Phúc Âm mà thề, đứng trước thánh giá hoặc qùy trước Thánh Thể để nói lên sự thật nào đó. Làm như thế, lắm khi thay vì đạt được sự thật mong đợi thì lại tạo cớ cho họ phạm tội thề gian. Chắc Chúa chẳng chứng giám cho lời thề ấy và chẳng bằng lòng việc làm đó đâu, vì chính Chúa Giêsu dạy đừng thề chi cả, mà con cái Chúa hễ có thì phải nói có, không thì phải nói không, thêm bớt là do ma qủi.   

8. Thương riêng cách lộ liễu

Dù có thể có thiện cảm với người này hơn người kia là chuyện bình thường, không ai có thể cân đo đong đếm được tình cảm, nhưng một số nhà đào tạo trong chúng ta biệt đãi, thương riêng cách lộ liễu một vài ứng sinh, trong khi lại thiếu công bằng với những người khác như xếp loại, in trí và định kiến, phân biệt đối xử giàu nghèo, tốt xấu... khiến cộng đoàn bị phân hóa, mất bình an và do đó một số người vượt không được đành mất ơn gọi. 

9. Óc cầu toàn

Cũng vì mong muốn cái gì cũng phải hoàn hảo, một số nhà đào tạo trong chúng ta quá cầu toàn, đòi hỏi ứng sinh phải thế này thế nọ vượt quá trình độ nhận thức và tu luyện còn non nớt của họ. Làm như vậy là đốt giai đoạn và đốt giai đoạn là đốt cháy luôn cả đời người, vì nhân đức hay tội ác cũng cần có thời gian để hình thành, không ai một sớm một chiều mà nên thánh hay thành ác quỉ được đâu.  

10. Vội kết án và sử dụng biện pháp

Cũng vì bị thúc đẩy bởi ý muốn có những ứng sinh tốt, một số nhà đào tạo trong chúng ta vội kết luận về lỗi lầm và nghiêm khắc sử dụng biện pháp ngay, nhưng lại không cho ứng sinh biết lỗi lầm, giải thích và biện minh, cũng như cơ hội và thời gian để thực hiện sự hoán cải và đổi mới cần thiết (x. Cvtđ 25, 13-16).[11] Nếu chỉ tìm giữ lại người hoàn hảo thôi thì chỉ có rất ít, hoặc không thể có, như thánh Phaolô nói “Không có chi hoàn hảo trên trần gian này cả.” Loại đi người có lỗi, người đó thất bại đã đành, mà nhà đào tạo và chính bản chất của công cuộc đào tạo (biến đổi người xấu thành người tốt) cũng thất bại. 

11. Hay nhắc lại lầm lỗi cũ

Vì muốn cho ứng sinh nhớ bài học quá khứ để sửa mình, một số nhà đào tạo trong chúng ta hay nhắc lại lỗi lầm cũ, trong khi người có lầm lỗi đã sửa chữa, không còn tái phạm nữa, khiến họ rất khổ tâm và nhụt chí. Đáng ra quá khứ qua rồi thì thôi, không ai thay đổi được cái đã xảy ra, cố gắng giúp lật qua trang đời mới, cho người ta vui vẻ tiến về tương lai: Mỗi vị thánh đều có một quá khứ và mỗi tội nhân đều có một tương lai. Cha ông chúng ta cũng từng nói rằng đã là người thì không ai mà không có lỗi gì, nhưng có lỗi thì sửa, và sau khi sửa rồi thì không còn lỗi nữa (x. Câu chuyện Mẫu tự ST). 

12. Làm việc cách độc đoán

Một số nhà đào tạo trong chúng ta quên nguyên lý bổ trợ, thi hành nhiệm vụ thiếu hài hòa, thiếu phân cấp trách nhiệm rõ ràng, “dẫm chân lên nhau” dẫn tới tình trạng xung đột quyền bính, tranh chấp uy tín, ảnh hưởng và quyền hạn với nhau, gây ảnh hưởng xấu tác hại trên việc đào tạo ứng sinh: “hai con trâu đánh nhau, con ruồi chết oan”![12]  

13. Lạm dụng việc đánh giá

Vì ý hướng tốt muốn phát triển trách nhiệm tập thể cao, một số nhà đào tạo trong chúng ta áp dụng phương thức cả cộng đoàn bỏ phiếu đánh giá quyết định ơn gọi của nhau. Việc này vừa giảm nhẹ trách nhiệm của Bề Trên và Hội đồng đào tạo là những người có trách nhiệm, ơn đoàn sủng và nghiệp vụ để làm việc đó, vừa trao quyền quyết định quá lớn cho phán đoán của các thành viên không có trách nhiệm, ơn đoàn sủng và nghiệp vụ đào tạo, chưa đủ trưởng thành để cân nhắc trách nhiệm lương tâm khi sử dụng phiếu bầu theo cảm tính hay đầu óc phe nhóm, để cất nhắc người cùng phe và trù dập người của phe đối lập, đang khi ý kiến hay phiếu bầu đó chỉ nên có giá trị tham khảo để biết tình hình chung hầu xây dựng phương hướng đào tạo thích hợp mà thôi.

Kết luận

Tóm lại, lắm khi tính khí, quan điểm và cách làm việc bất cập hay thái quá của một số nhà đào tạo trong chúng ta đã gây nên những thách đố, thử thách, và đau khổ không vượt qua được đối với một số ứng sinh làm cho Giáo Hội mất đi một số ơn gọi, mà càng ngày sẽ càng ít đi, nhất là ở các thành phố lớn và những khu vực mới phát triển.

Ước gì không ai trong chúng ta sẽ phải ân hận vì mình mà một hay nhiều ơn gọi đích thực đã phải ra đi, hay đã bất cẩn cất nhắc những người mà Chúa không chọn gọi. Chúng ta cần biết mình để tự điều chỉnh cho đúng với chức năng và tâm hồn đào tạo. Nếu chúng ta không tự mình làm được việc đó, thì hãy xin Bề trên cho rút lui khỏi trách nhiệm đào tạo vì lợi ích lớn hơn của các ứng sinh, của Nhà Dòng và của Giáo Hội Chúa. Cần phải biết tự mình thay đổi trước khi bó buộc phải thay đổi do thời thế, do người ta không thể chịu nổi và do những thiệt hại mình gây nên.

 

C. Tái đỊnh hưỚng đỜi sỐng và sỨ vỤ đào tẠo: Chúa Giêsu, kiỂu mẪu đích thỰc cỦa nhà đào TẠO.[13]

1. Theo gương mẫu của Chúa Giêsu 

Cả chúng ta là nhà đào tạo, cả các người thụ huấn của chúng ta đều phải luôn tâm niệm và sống tiến trình ơn gọi năm bước này:

·        Chúa gọi (trực tiếp hay gián tiếp).

·        Con người mau mắn và quảng đại đáp lại, vì ơn gọi “không phải là một chọn lựa luân lý hay một lý tưởng cao quý, nhưng là sự gặp gỡ với một biến cố, một con người; một cuộc gặp gỡ trao ban cho cuộc sống một chân trời mới, và qua đó là một hướng đi có tính cách quyết định” (Deus Caritas Est, số 1).

·        Cam kết theo chính Chúa Kitô, chứ không phải vì ai khác, một Chúa Kitô toàn thể với vinh quang và thập giá, nghĩa là khi vui cũng như khi buồn, lúc thành công cũng như lúc thất bại, khi sướng cũng như khi khổ, đều luôn trung thành theo chính Chúa Kitô.

·        Dần dần biến đổi và điều chỉnh đời sống mình cho phù hợp với đời tu trong đặc sủng và linh đạo Dòng.

·        Kiên trì chu toàn bổn phận hằng ngày hôm nay và sứ vụ Dòng sẽ giao phó mai sau, trong bất cứ trạng huống nào của cuộc sống.

Nếu công cuộc đào tạo nhằm làm cho ứng sinh càng ngày càng nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô, thì trước hết nhà đào tạo sẽ nỗ lực nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô, kiểu mẫu đích thực của nhà đào tạo: suy nghĩ như Chúa Kitô suy nghĩ, nhìn thấy như Chúa Kitô nhìn thấy, hành động như Chúa Kitô hành động, cầu nguyện như Chúa Kitô cầu nguyện, hướng dẫn như Chúa Kitô hướng dẫn và yêu thương như Chúa Kitô yêu thương, nhất là nhà đào tạo ra sức giúp ứng sinh trực tiếp cam kết mật thiết theo chính Chúa Giêsu, để một khi “thần tượng nhà đào tạo” có sụp đổ hay hoàn cảnh cuộc sống và sứ vụ có thế nào đi nữa thì họ vẫn bền vững với lý tưởng ơn gọi đã lựa chọn. 

1. Nhân hậu như Chúa Giêsu

Nhà đào tạo quyết tâm theo gương mẫu hoàn hảo là Chúa Giêsu, Đấng đã rửa chân cho các môn đệ, yêu thương và đối xử với họ như bạn hữu; sống và đồng hành với họ trên hành trình trưởng thành đức tin và thiêng liêng. Bằng yêu thương nhẫn nại, tận tâm săn sóc, Ngài biết rõ họ từng người một, tính tình, phẩm chất, những điểm mạnh điểm yếu của họ. Ngài nhân hậu và bao dung trước yếu đuối, khuyết điểm, tham vọng trần thế, cứng đầu cứng cổ, yếu lòng tin và chậm hiểu mầu nhiệm Nước Trời của họ, và Ngài kiên nhẫn chờ đợi sự giáo dục bổ túc của Chúa Thánh Thần cho họ.     

2. Cầu nguyện cho ứng sinh

Trước khi chọn và huấn luyện 12 tông đồ để thiết lập Giáo Hội và sai đi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã cầu nguyện suốt đêm với Chúa Cha cho họ, và trao họ cho Cha trên trời gìn giữ bảo vệ: “Bây giờ con bỏ thế gian mà về cùng Cha, nhưng họ còn phải ở trong thế gian, con không xin Cha cất họ ra khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ cho khỏi sự dữ.” Nhà đào tạo luôn cầu nguyện cho các ứng sinh được giao phó cho mình đào tạo, vì chỉ có Chúa biết rõ từng con người, và chỉ có Chúa mới thay đổi được một con người, đồng thời làm cho người đó được mãi bền vững trung kiên: “Nếu không có Thầy, các con chẳng làm gì được.”  

3. Nêu gương sáng

Chúa Giêsu đã nêu gương phục vụ rửa chân cho các tông đồ: “Thầy đã làm gương cho các con...” Gương sáng của nhà đào tạo rất hiệu quả, như Ca dao nói “Lời nói lung lay gương bày lôi kéo.” Chính vì thế, ĐGH Phaolô VI nói “Thế giới ngày nay tin vào chứng nhân hơn là thầy dạy, và nếu họ có tin vào thầy dạy là bởi vì thầy dạy đó là chứng nhân.”  

Nhà đào tạo không nhất thiết phải hoàn hảo hay là thánh, nhưng cố gắng là chứng tá một đời sống tu trì đích thực, từ những giới hạn rất người của mình. Các người trẻ sẽ nhạy cảm đối với gương sáng của một nhà đào tạo khiêm tốn và chân thực, theo đúng đặc sủng và linh đạo riêng của Dòng mình, nhờ đó họ thấy nỗ lực trở thành tu sĩ thánh thiện của họ trong Dòng là điều hoàn toàn có thể. Đó cũng là lý do ngày nay người ta trình bày Chúa Kitô “từ bên dưới”, từ một người Nazareth, con bà Maria và bác thợ mộc Giuse, gần gũi với mọi người, như mọi người, để mọi người có thể cùng Ngài vươn lên với Thiên Chúa. 

4. Cùng ứng sinh tìm ý Chúa

Chúa Giêsu suốt đời tìm thực hiện ý Chúa Cha, nhưng cũng không thoát khỏi những lúc trăn trở, giằng co với ý riêng mình (“Lạy Cha, nếu có thể được, xin cất chén đắng này xa con...”). Nhà đào tạo khiêm tốn biết chấp nhận những nghịch cảnh và trái ý, lại không tự phụ cả dám đồng hóa ý mình với ý Chúa và áp đặt lên ứng sinh. Trái lại, nhà đào tạo dẫn dắt ứng sinh và cùng với ứng sinh cầu nguyện tìm thánh ý Chúa để thực thi, bằng cách nỗ lực khám phá điều Chúa Thánh Thần muốn nói với ứng sinh qua mình, và cũng  khiêm tốn tìm biết điều Chúa Thánh Thần muốn nhắc nhở mình qua ứng sinh.  

5. Không nản lòng vì thất bại

Chúa Giêsu cũng có những nỗi buồn thất bại (“Linh hồn Thầy buồn có thể chết được… Một người trong các con sẽ phản nộp Thầy… ”). Nhà đào tạo cũng biết khiêm tốn chấp nhận thất bại, nghịch cảnh và trái ý, không phải lúc nào ứng sinh cũng được như ý mình muốn cả đâu… Trái lại, nhà đào tạo luôn tin tưởng mãnh liệt rằng đào tạo là thay thế và biến đổi, thay thế cái xấu bằng cái tốt, biến đổi người chưa tốt thành người tốt và biến đổi người tốt thành người tốt hơn, trong tiến trình thành nhân rồi mới thành thánh nhân. 

Trong chiều hướng ấy, nhà đào tạo luôn quý chuộng và ra sức gìn giữ các ơn gọi Chúa gửi đến cho mình, như người chăn chiên lành để lại 99 con chiên trong đàn đi tìm con chiên lạc: Những kẻ Cha đã ban cho con, con không để một ai phải hư mất, trừ ra kẻ phải hư hỏng để Lời Kinh Thánh được nên trọn.

6. Mở rộng con đường trở về

Chúa Giêsu thừa nhận tội của Madalêna, nhưng Ngài không đóng chặt bà lại ở tội quá khứ, mà đã mở rộng con đường biến đổi tương lai cho bà trở thành vị thánh nữ loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Nhà đào tạo nhìn xa tin tưởng và hy vọng vào sự biến đổi tốt đẹp trong tương lai của ứng sinh, nhờ ơn Chúa: “mỗi vị thánh đều có một quá khứ và mỗi tội nhân đều có một tương lai.” Thấu cảm, độ lượng và tha thứ, gạn đục khơi trong theo gương lòng nhân hậu của Chúa: “Cây sậy đã rạp xuống Ngài không bẻ gãy, ngọn đèn còn leo lét khói Ngài không dập tắt.”

Nhà đào tạo nhân từ không quên dụ ngôn người chăn chiên lành đi tìm con chiên lạc vác trên vai đưa về mở tiệc ăn mừng. Người nào còn cứu được, hãy cố cứu: người được tha nhiều sẽ cảm nhận hạnh phúc và sẽ cố gắng bền vững (Hạnh phúc kẻ được tha nhiều, sẽ lo yêu mến trăm chiều trung kiên). Phêrô đã chối Thầy vì yếu đuối, dù Chúa đã báo trước. Ngài nhìn lại để thấy nước mắt ăn năn của ông và vẫn tiếp tục thương tín nhiệm trao cho nhiệm vụ chăn dắt toàn thể Giáo Hội.       

7. Không nhắc lại lầm lỗi quá khứ

Trong dụ ngôn đứa con hoang đàng, người cha khoan hậu không màng đến lời xin lỗi của đứa con trở về, một chỉ vui mừng “vì con ta đã mất nay tìm thấy, đã chết nay sống lại.” Nhà đào tạo bao dung không nhắc lại lầm lỗi quá khứ của ứng sinh và hành xử căn cứ vào lầm lỗi cũ; mọi sự đã đổi mới, cố gắng giúp họ lật qua trang đời mới: Chiếc đồng hồ bị hư, sau khi sửa rồi không ai còn gọi nó là đồng hồ hư nữa; và nếu ai còn coi đó là đồng hồ hư là không đúng. Vì thế, cha ông chúng ta đã nói: “Nhân thùy vô quá, hữu quá tắc cải, thị vị vô quá.”  

8.Kín đáo cẩn mật về lầm lỗi cá nhân của ứng sinh

Dù Giuđa toan tính phản nộp Ngài với giá chỉ bằng một phần mười bình dầu thơm người phụ nữ xức chân Chúa, Chúa Giêsu vẫn luôn kín đáo nhắc khéo Giuđa nhiều lần, cho ông cơ hội sửa mình (“một người trong các con sẽ nộp thầy; việc gì con tính làm thì hãy làm mau đi; Giuđa, con dùng cái hôn để nộp Con Người sao?…”). Nhà đào tạo khéo léo sẽ kín đáo, không đem lỗi lầm hay tâm sự của ứng sinh và của người khác nói ra công khai với mọi người, gây thiệt hại và làm mất lòng tín nhiệm của đương sự cũng như của những người nghe. Người ta sẽ đóng lòng lại và không ai dám nói gì với mình nữa.  

9. Gợi ý thúc đẩy sáng kiến và quyết tâm

Nhiều lần trong Phúc Âm, Chúa Giêsu dùng lối hỏi gợi ý để dạy dỗ (“Các con nghĩ sao?... Ông Simong, tôi có điều này muốn nói với ông…”). Nhà đào tạo dày kinh nghiệm dùng phương pháp này để giúp ứng sinh nhận ra thực trạng của mình để tự đào tạo, tự đưa ra sáng kiến và quyết tâm chọn lựa, như thế mới bền. Nhờ Chúa hỏi mà Phêrô tuyên xưng đức tin và Chúa có cơ hội để dạy điều quan trọng hơn được chính Chúa Cha mạc khải cho. Nhà đào tạo khéo léo triệt để vận dụng phương pháp này, trong tinh thần đối thoại, kể cả trong “vâng lời đối thoại” liên quan đến quyền bính mà Vatican II đề xướng. Cùng nhắm đến một mục tiêu, nhưng gợi ý thì hiệu quả hơn là truyền lệnh và bắt buộc: “Ông nói đúng, hãy đi và làm như vậy.” 

10. Thương người lầm lỗi

Chúa Giêsu dạy chúng ta giới răn mới đặc biệt của Ngài: “Các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con”. Chúng ta thế nào thì Chúa vẫn yêu thương chúng ta như thế ấy, và Ngài sẽ yêu thương chúng ta cho đến cùng. Nhà đào tạo tốt luôn biểu lộ lòng yêu thương; không có lòng yêu thương độ lượng không thể đào tạo được: Loại bỏ lỗi lầm nhưng thương yêu người lầm lỗi và tạo cơ hội cho họ hoán cải nên tốt. Chính tình yêu thương ấy làm cho cộng đoàn triển nở hạnh phúc, và nhờ đó mà phát triển thêm nhiều ơn gọi mới: “Xem kìa, họ yêu thương nhau là dường nào!”  

11. Không thử thách quá sức ứng sinh

Thánh Phaolô căn dặn Timôthê về việc tuyển chọn các trợ tá: “Họ phải được thử thách trước đã, rồi mới được thi hành chức vụ...” (1 Tm 3,10). Thử thách là cần thiết và có nhiều thứ, nhưng nhà đào tạo nhân từ không đưa ra những thử thách không cần thiết, hay vượt quá sức ứng sinh, nhất là không bao giờ “gài bẫy” cho họ mắc phải để có cớ trừng trị. Chúa không để thử thách nào vượt quá sức con người: Sau khi loan báo về cuộc khổ nạn, Phêrô đã ngăn cản và bị Chúa Giêsu quở là Satan vì ông chỉ biết việc của con người, mà không biết việc của Thiên Chúa. Nhưng tiếp đó, Ngài đã biến hình trên núi trước mắt các tông đồ thân tín hầu nâng đỡ đức tin yếu kém của các ông trước thử thách thập giá. Và khi Phêrô yếu đuối sa ngã chối Ngài, Chúa Giêsu đã nhìn lại với ánh mắt nhân từ thương yêu khiến ông đủ sức chỗi dậy.  

12. Cho biết lỗi, lắng nghe lời giải thích biện hộ

Cvtđ 25,16 dạy để cho bị cáo được đối chất với nguyên cáo, và được cơ hội biện hộ về lời tố cáo. Ở đời ai mà chẳng có lúc lầm lỗi. Tội thì tha, lỗi thì sửa. Nhà đào tạo nhân từ và nhẫn nại cho ứng sinh biết lỗi, nghe họ giải thích, cho họ cơ hội và thời gian để sửa chữa, nhất là khi lỗi lầm còn kín đáo; khi họ không sửa được và lỗi lầm trở nên bản chất nghiêm trọng rồi hẵng hay. Và cho họ ra về cũng với sự tôn trọng, (chẳng hạn như “vì không thích hợp với đời tu”), chứ không rêu rao là họ bị loại, bị đuổi vì lầm nọ lỗi kia làm tổn thương nhân phẩm và danh dự của họ, khiến họ ra đi mà hận trong lòng chẳng bao giờ quay trở lại nữa. Làm gì thì cũng nên để lại một chút tình, để sau còn nhìn sửa mặt nhau.

Nhà đào tạo tâm huyết nhìn về tương lai nỗ lực khắc phục sự mất mát đó. Các cựu ứng sinh nầy cũng là kho tàng của Nhà Dòng, họ sẽ cộng tác vào công cuộc của Hội Dòng cách này hay cách khác. Hãy tạo cơ hội cho họ đền đáp những ân huệ đã lãnh nhận bằng cách góp phần cách tích cực và hữu hiệu vào đời sống và sứ mệnh của Hội Dòng nói riêng, và của Giáo Hội nói chung, về nhân lực cũng như vật lực. Các Hội Dòng thiết lập được Hội cựu tu sinh hiểu rõ sức mạnh và lợi ích của lòng tôn trọng đó. 

13. Hiện diện mang lại bình an và an toàn

Trong những lúc các tông đồ bị dao động và sợ hãi trên biển cả trong đêm tối, bán tín bán nghi tưởng nhìn thấy ma, Chúa Giêsu lập tức có mặt: “Các con đừng sợ, chính Thầy đây! Bình an cho các con!” Nhà đào tạo lịch lãm tỏ ra có khả năng kiến tạo bầu khí bình an và an toàn, đồng thời đem lại sự bình an cho các ứng sinh, nhất là trong những lúc họ gặp thử thách, bất hòa, nghi nan, do dự, tiến thối lưỡng nan trước con đường lý tưởng cao cả nhưng nhiều yêu sách một bên, và bên kia là sức con người dòn mỏng yếu đuối đối diện với những dao động, chiến đấu cũng như những khó khăn trái ý, đau khổ, và nghịch cảnh đa dạng khác.  

14. Nhẫn nại chấp nhận những giới hạn

Chúa Giêsu nói với các tông đồ: “Thầy còn nhiều điều cần nói với các con, nhưng bây giờ các con thể hiểu được, chờ đến khi Thần Chân Lý đến...” (x. Ga 16,12-13). Thánh Phaolô cũng đã viết: “Tôi đã cho anh em uống sữa, chứ không phải đồ ăn cứng, bởi khi ấy anh em chưa sao chịu nổi, mà cả bây giờ anh em cũng chưa chịu nổi đâu!” (1 Cr 3,2). Nhà đào tạo có sư phạm và tâm lý sẽ nhẫn nại, không đòi hỏi những tiêu chuẩn đánh giá quá cao, so với trình độ tuổi tác, kiến thức, sự trưởng thành nhân bản và thiêng liêng của ứng sinh: Không đốt giai đoạn, vì đốt giai đoạn là đốt cháy một đời người.

Nhà đào tạo từng trải kinh nghiệm và nhân hậu luôn nhớ hai sức mạnh đối nghịch mà thánh Phaolô nói đến khiến con người không làm được điều tốt mình muốn làm, nhưng lại làm điều xấu mình không muốn làm.[14] 

Chấp nhận những giới hạn yếu đuối bất toàn và bất lực của mình khiến ta ngày càng khiêm tốn hơn. Chấp nhận những giới hạn yếu đuối bất toàn bất lực của người khác khiến ta ngày càng cảm thông, độ lượng, tha thứ và bỏ qua lầm lỗi thiếu sót của người hơn. Nhà đào tạo cảm thông áp dụng điều ấy vào tương quan của mình với ứng sinh sẽ tìm thấy một con đường rộng mở và mở rộng một con đường cho ứng sinh tiến bước.

15. Tiến trình chỉ bảo huynh đệ và lòng cảm thông

Nhà đào tạo khéo léo dung hòa được lòng cảm thông với lầm lỗi của ứng sinh luôn nhớ tiến trình chỉ bảo huynh đệ mà Chúa Giêsu dạy trong Phúc âm: “Nếu anh em ngươi trót phạm tội, thì hãy đi sửa lỗi nó, riêng ngươi với nó thôi. Nếu nó nghe ngươi, ngươi đã lợi được người anh em. Nếu nó không nghe ngươi, ngươi hãy kèm theo một/hai người nữa, để tất cả công việc được đoán định do miệng hai/ba nhân chứng. Nếu nó không màng nghe họ, hãy thưa với cộng đoàn…” (x. Mt.18, 15-17). 

Một người có thể phạm lỗi cố tình hay vô ý, biết rõ hay không biết gì. Nhà đào tạo có thể có hai thái độ hành xử: - hoặc là phòng bệnh, - hoặc là chữa bệnh. Nhà đào tạo cảm thông phòng bệnh đi bước trước, ngăn ngừa những ảnh hưởng tác hại từ bên ngoài, hay dập tắt ngay từ trứng nước cái mầm từ bên trong, để lỗi lầm không thể xảy ra. Như người làm nông năng thăm vườn cây, khi phát hiện cây bị sâu bệnh liền phun thuốc diệt sâu bệnh hại cây, nhà đào tạo cảm thông đón trước và khuyến cáo ngay lỗi lầm có thể, ngăn ngừa các ảnh hưởng và nguyên nhân từ bên ngoài, hay những yếu đuối từ bên trong thân phận con người để lỗi lầm không xảy ra.  

Nhà đào tạo cảm thông tin tưởng vào sự biến đổi tốt đẹp trong tương lai, cho người phạm lỗi biết lỗi, lắng nghe lời giải thích biện hộ, kết luận xác định đúng lỗi lầm, gợi ý đương sự tự ra hình phạt, cho đương sự cơ hội và thời gian sửa chữa, và nhẫn nại giúp đương sự tập nhân đức ngược lại, hy vọng vào kết quả sẽ có trong tương lai: “xin cứ để nó lại năm nay nữa, tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó, may ra sang năm nó có trái chăng; nếu không thì ông hẳng chặt” (x. Lc 13, 6-9) 

Nhà đào tạo thiếu cảm thông mới khám phá thấy lỗi lầm đã có biện pháp ngay, vì óc cầu toàn đòi hỏi và đốt giai đoạn, coi ứng sinh như đã đạt tới trình độ cao của người đã tu tập thành đạt. Hoặc khá hơn, nhà đào tạo thiếu cảm thông sẽ chờ đợi lỗi lầm trở nên rõ ràng để có biện pháp, nhất là khi người có lỗi che đậy, giấu giếm vì một lý do nào đó.  

Do thái độ ngoan cố, ngang bướng và thiếu tinh thần phục thiện của ứng sinh lầm lỗi, nhà đào tạo thiếu cảm thông thường âm thầm theo dõi hoặc tệ hại hơn là cho người theo dõi, có khi còn “gài bẩy” cho mắc phải để đương sự không thể cãi lại, chữa mình hay chối cãi được nữa. Thật ra nhà đào tạo nên tìm một lối khác, chứ loại chiến thắng này không đem lại lợi ích cho ai cả. Người chiến bại chẳng còn gì, mà kẻ chiến thắng cũng chỉ chiến thắng trên một đỗ vỡ tan nát. Người thiệt hại nhất là Hội Dòng, Giáo Hội và chính Chúa; trong khi kẻ hưởng lợi nhất là Satan và những kẻ nghịch thù cùng Hội Thánh. 

Nhà đào tạo khéo léo sử dụng kỹ thuật chỉ bảo huynh đệ “feed-back”, áp dụng vào đào tạo và tự đào tạo, cả về chiều dọc lẫn chiều ngang: Người và ta, trên và dưới cảm thông nhau, gặp được nhau, hiểu được nhau trong mọi quan điểm thì mọi việc đều được giải quyết dễ dàng và tốt đẹp. Tin tưởng vào sự biến đổi tốt đẹp trong tương lai, với ơn Chúa và sự cố gắng của mỗi người. 

16. Cảm thông với Giáo Hội

Cảm thông cùng với Giáo Hội (Sentire cum Ecclesia) là công thức định hướng rất đẹp của Vatican II. Nhà đào tạo cảm thông với các lãnh đạo Dòng và sứ mệnh của Dòng trong nỗ lực chuẩn bị nhân sự tương lai cho Dòng; đồng thời cũng cảm thông với các người thụ huấn của mình. Có thể nói nhà đào tạo là cầu nối hiện tại với tương lai, trên và dưới, làm vừa lòng trên nhưng cũng làm vui lòng dưới thì công cuộc đào tạo của mình mới đạt được kết quả. Trong chiều hướng này, chính nhà đào tạo cũng quan tâm chuẩn bị người tiếp tục và thay thế mình trong công trình đào tạo của Dòng theo tiến trình:

·        Dạy cho người ta làm.

·        Giúp người ta làm.

·        Để người ta làm.

·        Mình rút lui vì đã hoàn thành sứ vụ.

17. Khen và thúc đẩy

Đọc Lc 10,25-37, chúng ta gặp thấy cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và một thầy thông luật về giới răn trọng nhất mến Chúa yêu người và người Samaritanô tốt lành. Chúa Giêsu đã khen ông và thúc đẩy ông thực hành để được sống đời đời: "Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống"… "Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy" (Lc 10,28.37). Nhà đào tạo lão luyện hạn chế lời chê và rộng rãi lời khen để thúc đẩy ứng sinh cố gắng sửa tật xấu và luyện nhân đức. Lời chê làm suy yếu, nhưng lời khen thêm nghị lực và phấn chấn tinh thần.

Tóm lại, nhà đào tạo tốt phải theo sát mẫu gương Chúa Giêsu, thực hiện cho thụ huấn sinh của mình như Chúa Giêsu đã làm:

-         suy nghĩ với đầu óc của Chúa Giêsu,

-         nhìn sự việc với con mắt Chúa Giêsu,

-         hành động với sức mạnh của Chúa Giêsu,

-         phán đoán với sự khôn ngoan của Chúa Giêsu, 

-         sử dụng biện pháp với lòng nhân hậu của Chúa Giêsu, 

-         yêu thương với con tim của Chúa Giêsu,

-         đào tạo với sư phạm của Chúa Giêsu... 

Nếu nhà đào tạo làm được như vậy, công cuộc đào tạo sẽ thành công mỹ mãn, tương lai của Hội Dòng, của Giáo Hội và Nhân Loại sẽ tốt đẹp hơn.    

2. Định Hướng Phương Cách Đào Tạo

Con người cần một môi trường để hình thành và tồn tại trong cái “trở thành” của mình. Môi trường đào tạo tu sĩ là một cộng đồng liên nhân vị, mà mỗi người đều sống cùng, sống với và sống cho người khác. Sau đây, chúng ta sẽ nói đến bối cảnh trong đó các nhà đào tạo tự đào tạo và đào tạo ứng sinh, để trở thành nhà đào tạo mỗi ngày một tốt hơn.  

a. Cộng đoàn giáo dục 

Các nhà đào tạo và những người đang được đào tạo, trong mối tương quan liên nhân vị, làm nên một cộng đoàn có tính cách đào tạo và có khả năng đào tạo. Cộng đoàn giáo dục phải luôn cho thấy một hướng đi, một cái nhìn rõ ràng thế nào là đời tu, qua việc thực hành các lời khuyên Phúc Âm, diễn tả ra nơi Hiến pháp, Nội qui và Luật sống chiếu theo đặc sủng và linh đạo của vị sáng lập mà Dòng đã kế thừa, bổ sung và kiện toàn qua dòng thời gian do các nhu cầu tông đồ đề xướng; cũng như sẽ bổ sung và thích nghi sao cho phù hợp với nhu cầu tông đồ của thời đại mới, mà vẫn giữ căn tính của Dòng mình (x. Những Bước Chân Gieo Yêu Thương, đúc kết của Học viên Liên tu sĩ Bùi Chu niên khóa 2008-2009 về đặc sủng và linh đạo Dòng).  

Ứng sinh có quyền đòi hỏi các Bề trên và nhà đào tạo khai tâm cho họ đặc sủng và linh đạo Dòng ngay từ những bước tập tễnh đầu tiên vào Dòng, đồng thời cho họ chứng tá sống động trong thực tế về đặc sủng và linh đạo của Dòng, là những yếu tố làm cho người tu sĩ càng ngày càng gắn bó với Dòng mình hơn, để họ tự trắc nghiệm, cũng như nhà đào tạo phải xem họ có thích hợp với đặc sủng và linh đạo Dòng không, nếu không thì nên thay đổi sớm sẽ tốt hơn cho cả đôi bên. Và đến lượt họ, các tu sĩ trẻ sẽ phải là chứng tá về đặc sủng và linh đạo Dòng để củng cố ơn gọi Dòng cho các thế hệ tiếp theo sau họ: “Dập dìu kẻ trước người sau, sức riêng một ít góp vào lợi chung.”

Cộng đoàn giáo dục loại trừ sự sợ hãi, kiến tạo bầu khí bình an và an toàn, kiên định và bền vững, thích hợp cho việc phát triển toàn diện nhân bản và thiêng liêng, qua việc chỉ bảo lẫn nhau, chấp nhận nhau, ý thức về lợi ích và niềm vui chung trong việc tìm kiếm và phục vụ Chúa.

Cộng đoàn giáo dục thể hiện trách nhiệm tập thể trong việc đào tạo, trong đó ứng sinh được mời đảm nhận trách nhiệm hàng đầu tự đào tạo chính họ, đồng thời cộng tác vào việc đào tạo các bạn đồng môn.

Cộng đoàn giáo dục này cũng phải mở ra với các cơ cấu khác của Giáo Hội Địa phương, để đào tạo ý thức tông đồ, giúp ứng sinh khám phá ra tính cấp bách của việc loan báo Tin Mừng, ý nghĩa và những đòi hỏi của cuộc đời trọn vẹn hiến dâng phục vụ Nước Chúa. 

b. Đội ngũ đào tạo hiệp nhất   

Trách nhiệm tập thể của các nhà đào tạo đóng vai trò tiên quyết trong việc đào tạo, nên phải có một đội ngũ hiệp nhất các nhà đào tạo, sẵn sàng cộng tác huynh đệ, đồng trách nhiệm, chia sẻ đời sống và đối thoại chân thành. Chính sự hiệp nhất của các nhà đào tạo với Chúa Kitô là nền tảng, khuôn mẫu và keo sơn cho sự hiệp nhất tinh thần và hành động của họ với nhau.

Mỗi nhà đào tạo chỉ đóng một phần vai trò trong việc đào tạo. Chính công việc của cộng đoàn giáo dục và đội ngũ hợp nhất các nhà đào tạo mới có tính cách đào tạo toàn diện. Các nhà đào tạo tìm được sự nâng đỡ không thể thiếu từ anh chị em đồng nghiệp. Không có tình liên đới này, sứ vụ sẽ trở nên nặng nề và mất đi hiệu năng. Tính tập đoàn (collégialité) vừa nâng đỡ trách nhiệm tập thể của các nhà đào tạo vừa tránh cho các ứng sinh khỏi những thiệt hại do quyết định khắt khe và độc đoán của một số cá nhân, vì bên cạnh ông ác vẫn còn có ông thiện (x. Câu chuyện bỏ phiếu 2/10), nhờ có sự bàn bạc, cân nhắc và lấy biểu quyết bằng phiếu kín của mọi thành viên Hội đồng, chứ không để cho ý kiến cá nhân mạnh thế nào áp đặt.

Tính tập đoàn và đồng trách nhiệm của các nhà đào tạo còn là gương mẫu và động lực đào tạo cho các ứng sinh có ý thức cộng đồng, biết quan tâm đến người khác, biết hợp tác với người khác làm việc chung, biết nhượng bộ ý kiến chủ quan của mình cho ý kiến khách quan của tập thể vì lợi ích chung.

c. Nhà đào tạo  

Các ứng sinh sẽ bắt chước hạnh kiểm và noi theo lời dạy của các nhà đào tạo: họ chịu ảnh hưởng những gì họ đã thấy và đã nghe từ các nhà đào tạo.    

Nhà đào tạo tốt cần hai điều kiện rất quan trọng này: một là lòng khiêm nhường ý thức giới hạn và yếu đuối của mình để tin tưởng vào Chúa; hai là tinh thần hài hước rộng lượng ý thức rằng ứng sinh không hoàn hảo như mình mong muốn, nhưng là những con người bất toàn để mình đào tạo.

Nhà đào tạo trung thực nhận biết các điểm mạnh điểm yếu trong cách xử sự, các thái độ, các tình cảm, các động lực và ngộ nhận cơ bản của mình. Chính nhờ kinh nghiệm bản thân mà nhà đào tạo giúp ứng sinh cách hữu hiệu. Nhà đào tạo phải phát huy nghiệp vụ giảng dạy bằng cách cập nhật hóa kiến thức theo kịp với những nhu cầu hiện tại của Giáo Hội giữa một thế giới đang đổi thay nhanh chóng, đồng thời cải tiến phương pháp giảng dạy trong sự trung thành với Mạc khải và Huấn quyền.

Phẩm chất của nhà đào tạo hết sức quan trọng: Người ta cần giáo sư giỏi để dạy học, nhưng lại cần hơn nhà đào tạo tốt để huấn luyện con người toàn diện. Họ phải là những con người của đời sống cầu nguyện sâu xa, khiêm tốn và khôn ngoan. Họ cần “được tuyển chọn giữa những người ưu tú, được chuẩn bị kỹ lưỡng bởi một nền giáo lý vững chắc, một kinh nghiệm mục vụ thích hợp, được huấn luyện đặc biệt về thiêng liêng và sư phạm.”[15] Nhà đào tạo phải không ngừng tự đào tạo mình bằng chính công cuộc đào tạo của mình: càng sống và làm việc đào tạo, càng trở nên nhà đào tạo hơn, như chúng ta thường nghe nói “người ta trở thành thợ rèn bằng cách rèn”    

d. Chính ứng sinh và việc tự đào tạo 

Việc đào tạo sẽ mất đi hiệu quả của nó, nếu nó không bao hàm sự tham gia cá nhân của ứng sinh, nghĩa là sự tự đào tạo của ứng sinh. Chính vì thế, Đức Gioan Phaolo II đã nhắc nhở rằng chính ứng sinh là nhân tố cần thiết và không thể thay thế được trong việc đào tạo của chính mình: “Tự đào tạo là tối quan trọng trong tất cả mọi công cuộc đào tạo. Không ai có thể thay thế ứng sinh trong sự tự do có trách nhiệm mà ứng sinh có được như là những nhân vị độc đáo” (x. JP. II, Pastores Dabo Vobis 69). 

Tự đào tạo là yếu tố quyết định đưa tới thành công trong việc đào tạo, nhất là đào tạo thiêng liêng. Mặc dù Chúa Thánh Thần là tác nhân tuyệt hảo trong việc đào tạo này, ứng sinh phải hoàn toàn tự do đón nhận tác động định hình Ngài. Cũng thế, hoạt động của các nhà đào tạo khác nhau sẽ chỉ trở nên thực sự và đầy đủ hiệu quả, nếu ứng sinh cống hiến sự cộng tác chân thành và xác tín của mình vào công cuộc đào tạo này. 

Quan niệm Á Châu “không thầy đố mầy làm nên” được hiểu trong một tầm cao mới là thầy phải kích thích cho được tính chủ động của trò: nếu không có sự thực hành của trò thì những giáo huấn và lý thuyết của thầy chỉ là những lời hoa mỹ thôi. Điều rất quan trọng là việc đào tạo phải cung cấp cho ứng sinh cách suy nghĩ mới, cách sống mới, cách hành động mới, cách yêu thương mới và cách làm chứng mới cho Tin Mừng. Nhưng điều còn quan trọng hơn nữa là việc tự đào tạo này phải đem sự hiểu biết hữu ích đó ra thực hiện. Sự cộng tác chặt chẽ giữa hai phía, đào tạo và tự đào tạo, là điều kiện tiên quyết cho mọi thành công, và dĩ nhiên với ơn Chúa nữa. Vì thế, Pastores Dabo Vobis đòi hỏi: “Các ứng sinh... phải hết sức ý thức chuẩn bị chính mình để đón nhận ơn Chúa và đem ra thực hành, biết rằng Giáo Hội và thế giới đang rất cần đến họ” (JP. II, Pastores Dabo Vobis số 82).  

e. Nhóm bạn đồng môn 

Ngày xưa người ta hay nói “học thầy không tầy học bạn.” Ngày nay người ta nhấn mạnh nhiều đến tính năng động nhóm. Nhà đào tạo phân chia ứng sinh thành nhiều nhóm nhỏ, tự bầu lên người trách nhiệm nhóm, nhằm thăng tiến tinh thần tập đoàn (collégialité) và đời sống cộng đoàn. Phải nhắm đến cả hai, các cá nhân và nhóm, như một toàn thể, ngõ hầu bảo đảm được sự trưởng thành của cả hai, cá nhân và tập thể. 

Đời sống trong nhóm gồm có những lúc cầu nguyện, gặp gỡ hàng tuần về một đề tài thuộc đời sống thiêng liêng (chia sẻ đức tin), những giờ giải trí, các hoạt động mục vụ, trách nhiệm phụng vụ và các dịch vụ hàng ngày. Sự tương tác trong những nhóm như thế giúp phát triển sự tin tưởng lẫn nhau, truyền thông và chia sẻ, góp phần xây dựng một cộng đoàn đúng nghĩa. 

Nhóm nhỏ này có thể trở thành một nhóm bạn thân có thể dễ dàng thực hành việc “chỉ bảo huynh đệ.”[16] Thường người ta không dám sửa lỗi người khác, phần vì con người ai cũng yếu đuối và bất toàn, phần vì tế nhị hay sợ phản ứng tiêu cực từ phía người kia, hay ít nhất để tránh hiểu lầm nhau, mâu thuẫn và xung đột có thể có. Vậy, cách tốt hơn và dễ hơn là mọi người đồng ý thỏa thuận với nhau rằng nếu một người trong nhóm thấy người khác có lỗi, thì người này sẽ nói với người đó về lỗi ấy. 

Trong bối cảnh cuộc gặp gỡ hàng tuần chia sẻ Phúc Âm và kiểm điểm đời sống, mỗi người có thể góp ý phản hồi cho người khác và giúp nhau tiến bộ hơn trong tiến trình được đào tạo và tự đào tạo, hy vọng tiến tới tình huynh đệ cộng đoàn đích thực (x. Tv 133, 1). Tiến trình này đòi hỏi phải có ý ngay lành, sự sẵn sàng để thay đổi, lòng can đảm, tình bác ái, và nhất là ơn Chúa.

Trong cấp độ đời sống nhóm này, mỗi người phải học biết chăm chú lắng nghe và cho người khác ý kiến phản hồi cách thích hợp. Mỗi người cũng phải học biết chấp nhận chính mình và chấp nhận người khác: càng biết nhìn nhận lỗi lầm, thiếu sót, giới hạn, yếu đuối và bất lực của mình, chúng ta càng trở nên khiêm tốn hơn; và khi càng biết chấp nhận những bất lợi đó của người khác, chúng ta càng trở nên độ lượng và cảm thông hơn với họ. 

Đời sống nhóm giúp mỗi thành viên khám phá và phát triển những tài năng, tài năng tự nhiên và tài năng đạt được từ kinh nghiệm cuộc sống. Mỗi người có trách nhiệm tìm biết và phát triển những ân huệ ấy. Chẳng ai sở hữu được mọi ân huệ của Thiên Chúa, nhưng những ân huệ cần thiết cho sứ mạng luôn hiện diện trong cộng đoàn, và cộng đoàn là nơi cần thiết để nhận ra các ân huệ của mỗi thành viên (x. 1Cr 12-14).  

Tuy nhiên, nhiều khi người ta phải chịu đựng những khó khăn và xung đột do ghen tị hay thèm muốn ân huệ của người khác (x. Gal 5,26). Nếu biết chú ý tới những khác biệt của tha nhân, đánh giá sự độc đáo của người khác với sự hiểu biết tích cực, coi những xung đột chỉ là một phần cần thiết trong tiến trình tôi luyện trưởng thành, thì mọi sự sẽ được giải quyết, cộng đoàn sẽ tiến triển tốt đẹp, và sứ mạng loan báo Tin Mừng của Hội Thánh sẽ được hiệu quả hơn (Gl 6,2). 

f. Sự thích nghi cần thiết 

Nhà đào tạo phải bắc được nhịp cầu nối này: Ứng sinh mới đến đôi khi khó hội nhập vào cộng đoàn, trong lúc những người đã sống ở đó thấy thế giới của mình bị xáo trộn bởi những người mới đến. Những người lớn tuổi muốn rằng người mới vào phải có tư tưởng, tình cảm, khát vọng và trông đợi như họ, mà quên đi khoảng cách văn hóa và giáo dục của các thế hệ. Do đó cần phải lắng nghe và nỗ lực cảm thông nhiều lắm để thích nghi với nhau. Nét đẹp của cuộc đời đến từ sự đổi mới không ngừng, và cuộc đời sẽ phong phú khi mọi người được từ từ biến đổi ăn nhịp với sự hiểu biết, cách làm, cách sống và cách suy tư mới mẻ của nhau.

Nhà đào tạo phải tôn trọng và đón nhận sự khác mình của ứng sinh, đồng thời phải thích nghi phương pháp đào tạo của mình, dù đôi khi khó khăn. Trong đời sống gia đình, đôi vợ chồng phải thay đổi cuộc sống khi đón nhận đứa con đầu lòng, tự điều chỉnh và thích nghi với các nhu cầu và chỗ đứng của đứa con. Với mỗi đứa con ra đời, cha mẹ và cả gia đình phải tái điều chỉnh cách xử sự. Công cuộc đào tạo cũng tương tự như thế. Người mới vào phải học biết kinh nghiệm và khôn ngoan của người đi trước bằng cách niềm nở lắng nghe, hòa nhịp cùng với bước đi của cộng đoàn và hội nhập vào cách sống đã được thiết lập và cấu trúc. Người cũ cũng không quá nại vào nề nếp để làm khó cho những người mới đến, bắt họ phải mau chóng đi vào thế giới của mình và điều chỉnh ngay theo nhịp sống và tư tưởng của mình.  

g. Trách nhiệm đào tạo 

Nhà đào tạo không nhất thiết phải hoàn hảo hay là thánh, nhưng phải là chứng tá một đời sống tu trì trung thực, theo đúng đặc sủng và linh đạo của Dòng. Tính trung thực làm nên sự thành công của nhà đào tạo. Các người trẻ sẽ nhạy cảm đối với gương sáng của một nhà đào tạo khiêm tốn và chân thực.

Các ứng sinh sẽ rất tín nhiệm uy quyền của các nhà đào tạo được thực hiện hài hòa theo nguyên tắc căn bản này: Trách nhiệm đòi phải có quyền bính tương ứng và phải luôn theo nguyên lý bổ trợ, chứ không qua mặt các cấp độ trách nhiệm, dẫn đến tình trạng mâu thuẫn “trống đánh xuôi kèn thổi ngược”, ứng sinh không biết phải theo ai.

Cần có sự trao đổi thống nhất đường lối và hành động: bề trên không bao giờ bỏ qua người có trách nhiệm đào tạo để trực tiếp điều chỉnh các người dưới quyền của người đó, và người trách nhiệm cấp dưới không làm điều gì quan trọng mà không thông qua ý kiến và sự chấp thuận của cấp trên. 

Nhà đào tạo không thể chuyên môn trong mọi sự, nhưng phải luôn giữ trách nhiệm đồng hành cho từng cá nhân ứng sinh. Cần phải xây dựng tương quan hợp tác giữa các giáo sư và nhà đào tạo, vì việc đào tạo là một toàn thể và các môn học phải góp phần vào việc đào tạo toàn diện, nhân bản và thiêng liêng, tri thức và tông đồ cho ứng sinh.

 h. Tương quan đào tạo 

Trong tương quan đào tạo, tiến trình giáo dục phải đi trước. Giáo dục là giúp ứng sinh nhận diện cái tôi sâu thẳm của mình để rồi khai thông và biến cái tôi này thành cái tôi mà nó phải trở thành. Nếu không hiểu được chính mình, khám phá ra các động cơ còn nằm trong tiềm thức và nhận ra các phân mảnh của mình để biến đổi thì không thể nào đạt được sự trưởng thành và thống nhất nội tâm.

Nhà đào tạo phải cố gắng đi vào khoảng không gian kín ẩn của từng ứng sinh, hiểu rõ các ước muốn tốt cũng như những tổn thương sâu xa thường được che giấu của họ, giúp họ hiểu biết chính mình và tin tưởng để ân sủng Chúa tác động, thì họ mới tiến bộ thực sự được. Nếu không làm như thế thì sự tiến bộ đó chỉ có bề ngoài. Nội dung đào tạo sẽ không bén rễ sâu trong ứng sinh, và kết quả đào tạo sẽ chỉ biểu hiện trên cách ứng xử của đương sự trong một thời gian nào đó mà không kết hợp được với các động lực sâu xa của họ. 

Việc thiếu hụt các nhà đào tạo có chất lượng ảnh hưởng không chỉ đào tạo tri thức, mà cả đào tạo nhân bản và thiêng liêng: nhà đào tạo không có cả thời gian và nghị lực để lắng nghe, thấu hiểu và cảm thông, cung cấp sự đào tạo hữu hiệu cho ứng sinh; và các ứng sinh cũng bị tước mất nhu cầu chia sẻ và trình bày những vấn đề thực tế phức tạp của họ.

Điều đáng ao ước là có nhà đào tạo thích hợp cho từng giai đoạn huấn luyện: nhân cách và tài năng của nhà đào tạo được thi thố tốt, và các ứng sinh sẽ được đào tạo tốt hơn trong từng giai đoạn liên hệ. Mỗi giai đoạn phải nhằm một mục tiêu đặc biệt, chẳng hạn giai đoạn Nhà Tập phải là thời gian trong đó đời sống thiêng liêng vượt trổi hơn đời sống tông đồ (x.GL 652,5). Nhưng tất cả các giai đoạn phải nằm trong một tổng thể nhất quán và liên tục.

Nhà đào tạo cần gần gũi, nhưng nên tránh tình trạng “quen quá hóa nhờn”, nghĩa là phải có một mức độ thân mật đủ để trao đổi  hầu ứng sinh biết mình và cái mình phải “trở thành.” Một liên hệ quá quen thuộc nhàm lờn liều mình tạo nên một sự thông đồng cản trở những tương quan lành mạnh. Những xung đột liên nhân vị có thể dễ dàng sản sinh ra những mối ác cảm rất mạnh và nguy hiểm, có thể trở nên không chịu nổi cho người này lẫn người kia.

Lòng khiêm tốn của nhà đào tạo mở ra với đối thoại và cảm thông. Sự khác biệt tâm thức giữa các thế hệ có thể sẽ ảnh hưởng đến tính đáng tin cậy của nhà đào tạo đối với những ai được giao phó cho họ. Đừng để những điều đáng tiếc đi vào tiềm thức và ở lại mãi trong lãnh vực không nói lên lời đó, hầu tránh những nỗi thất vọng không lường trước được.  

i. Việc linh hướng 

Ngoài việc đồng hành thiêng liêng như chúng ta thường hiểu và thực hành để giúp ứng sinh khám phá ra ý Chúa và đi theo, còn có một mức độ sâu xa và bí mật liên hệ tới tòa trong, đó là việc linh hướng không thể thiếu trong tiến trình đào tạo. Vị linh hướng là dụng cụ của Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần mới là vị linh hướng đích thực. Ngài dẫn dắt mỗi người theo một đường lối độc đáo. Cả vị linh hướng lẫn người thụ hướng đều phải tìm khám phá và điều chỉnh cuộc đời người thụ hướng theo đúng con đường đó của Chúa Thánh Thần.

Vị linh hướng phải khơi dậy lòng tín nhiệm nơi người thụ hướng bởi thái độ sẵn sàng, cởi mở, đón tiếp và chân thành, đồng thời nuôi dưỡng tinh thần tin cậy nhờ lòng cẩn mật của mình. Có thế thì người thụ hướng mới có thể tự do nói hết những trăn trở riêng tư, những bí mật của cuộc đời mình, đặc biệt trong lãnh vực giới tính.

Vì việc linh hướng thuộc về tòa trong, nên khi đánh giá ứng sinh (tòa ngoài), vị linh hướng không bao giờ được lên tiếng, dù để bảo vệ hay để kết án người thụ hướng của mình. Sự bảo mật này nhằm bảo đảm tự do nội tâm của ứng sinh trong việc biện phân và quyết định chọn lựa ơn gọi. Nhưng nhờ nghe trong hội đồng đánh giá những nhận xét khác nhận xét của mình, vị linh hướng có thêm được thông tin về những yếu tố khác, nhờ đó mà phân định được tốt hơn, đồng thời chọn lựa sự giúp đỡ thích hợp và hữu hiệu hơn cho người thụ hướng của mình.

Quyết định dứt khoát ở tòa trong ăn khớp với lương tâm ứng sinh: tự mình đối diện, trắc nghiệm bản thân, lượng lấy sức và tự mình chủ động giải quyết. Do đó vị linh hướng dự phần trong việc đào tạo lương tâm trưởng thành của ứng sinh. Nhưng ở tòa trong, vị linh hướng không chỉ thụ động lắng nghe, song phải có khả năng thách đố và đối đầu, khi sự việc đòi hỏi, để giúp ứng sinh trải qua một tiến trình phân định ơn gọi đích thực, như Chúa và Giáo Hội mong muốn.

Việc linh hướng và phân định thiêng liêng rất tế nhị và khó khăn. Nó bao gồm mọi chiều kích của cuộc đời ứng sinh: nhân bản và thiêng liêng, tự nhiên và siêu nhiên. Vì thế vị linh hướng phải cập nhật các kỹ năng linh hướng, những hiểu biết về tâm sinh lý, khả năng tư vấn, biết vận dụng các khám phá hữu ích của tâm lý học, y học và xã hội học hiện đại. Các trao đổi với đồng nghiệp, cũng như những khóa học huấn luyện các vị mới và cập nhật cho các vị cũ, sẽ liên tục gia tăng khả năng của vị linh hướng, mà ngày nay có thể là linh mục và nam nữ tu sĩ, miễn là được Chúa Thánh Thần kêu gọi, thẩm quyền Giáo Hội trạch cử và được đào tạo thích đáng, vì đây là việc của Chúa, và chỉ có Chúa biết đầy đủ một con người và biến đổi tận gốc con người đó.  

KẾT LUẬN

Nói về đào tạo, nhất là ở đây lại nói về đào tạo các nhà đào tạo nữa thì không thể nào thấu tình đạt lý hết được. Tôi xin hết lòng cám ơn toàn thể chị em đã chịu khó nghe, và thành thật xin lỗi chị em vì có khi phải nghe cả những điều khó chịu nữa.

Giờ đây, xin được kết thúc với mấy tư tưởng này: “Nhà đào tạo tầm thường thì thích nói, nhà đào tạo tốt thì giải thích, nhà đào tạo giỏi thì chứng minh, và nhà đào tạo khéo léo thì gợi hứng.”

Các vị đại thánh thường đủ khiêm tốn để nhìn nhận mình là kẻ có tội. Chúng ta nhìn nhận mình không hoàn hảo và không ảo tưởng chờ đợi các bảo đảm của việc đào tạo của mình, mà hoàn toàn ký thác cho Chúa. Không thể thấy trước được những gì sẽ xảy ra trong đời một con người về lâu về dài. Lòng khiêm tốn sẽ giúp chúng ta tìm đến với khôn ngoan và quyền năng của ơn Chúa. 

Hãy thực thi lòng nhân hậu và để Chúa Thánh Thần làm phần còn lại. Như thế chúng ta sẽ cảm thấy hạnh phúc hơn, tự tin hơn, và có thể làm công việc đào tạo tốt hơn. Hãy để ân sủng Chúa làm việc trong chúng ta, dẫn dắt chúng ta, và hãy tin tưởng vào Chúa và tha nhân.

Và nếu chúng ta có cảm thấy mình nhiều khuyết điểm, cũng hãy tạ ơn Chúa. Có lẽ điều đó sẽ giúp chúng ta trở nên nhà đào tạo khéo léo và tâm huyết. Cái quan trọng chính là tấm lòng của chúng ta: Ai không yêu thương thật sự không thể làm nghề đào tạo được, ta sẽ khổ và làm các người chúng ta đào tạo khổ.

Chúng ta có thể nói rằng làm nhà đào tạo là một ơn gọi và một ân sủng. Chúng ta cho bao nhiêu thì chúng ta nhận bấy nhiêu, càng cho đi chúng ta càng nhận lãnh. Đón tiếp và đào tạo người trẻ hôm nay là một cơ may để chúng ta đáp lại lời mời gọi đặc biệt của Chúa Giêsu: “Hãy đến và theo Ta... Các con là bạn hữu của Thầy.” Đồng thời chúng ta cũng không phụ lòng hay làm thất vọng những trông đợi mà Giáo Hội, Hội Dòng và Thế giới kỳ vọng nơi các nhà đào tạo. 

Micae-Phaolô Trần Minh Huy pss 

Slideshow kết thúc: BÀI HỌC QUÉT LÁ

Thơ: Diệu Nhân - Nhạc: Võ Tá Hân – Ca sĩ: Xuân Phú 

Vâng lời Thầy, con đi quét lá, lá vàng rơi lả tả khắp nơi. Lá khô rơi như kiếp một con người, giờ phút cuối là về cùng cát bụi. Con vừa quét sạch một gốc cây, quay trở lại đã thấy đầy rơi rụng. Con hỏi nếu như gió đừng rung động thì lá kia hẳn còn trên cành. Một kiếp người cũn thế, quá mong manh, một hơi thở nếu đi rồi không đến nữa. Thầy đã cho con bài học quét lá thâm sâu như một triết lý không cùng. Con ra về lòng luống những bâng khuâng: Lá và con cũng trong vòng sinh diệt. Lá vừa sinh đã có mầm huỷ diệt, con vừa sinh đã hẹn có ngày đi. 

Suy tư: Có ai biết chốc lát nữa mình sẽ chết mà còn ham hố những sự đời này, còn gieo rắc bất công hận thù, còn ghen ghét tranh chấp hơn thua, mà không trái lại, an hòa với mọi người, tôn trọng lương tâm kẻ khác, giao phó cho lòng nhân từ của Chúa lời phẩm bình cuối cùng và sự xét đoán chung thẩm, nỗ lực chuẩn bị tâm hồn để ra đi trong bình an về với Chúa? 

Một làn gió có sức mạnh gì đâu, mà lá rơi không thể nào cưỡng lại? Hơi thở con cũng giống như làn gió ấy, nếu không về thì con sẽ đi đâu? Đã lâu rồi vẫn lặn hụp chìm sâu trong mê mải con đi tìm sự nghiệp: Con vẫn mơ có một căn nhà rộng đẹp, con vẫn mơ con cái học thành tài. Con vẫn mong, vẫn đợi một ngày mai lũ con cháu trở nên người thành đạt. Con vẫn chưa có gì cho con hết làm hành trang khi cất bước lên đường. Tạ ơn Thầy đã cho con chút tư lương, là bài học quét lá vàng rơi rụng. Lá và con cũng có cùng số phận: đi về đâu do con chọn lấy con đường. Tạ ơn Thầy đã cho con chút tư lương, là bài học quét lá vàng rơi rụng. Lá và con cũng có cùng số phận: đi về đâu do con chọn lấy con đường. ĐI VỀ ĐÂU, DO CON CHỌN LẤY CON ĐƯỜNG! 


[1] x. 2 Cr 1,3-5: Người là Cha giàu lòng từ bi lân ái, và là Thiên Chúa hằng sẵn sàng nâng đỡ ủi an.4 Người luôn nâng đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách, để sau khi đã được Thiên Chúa nâng đỡ, chính chúng ta cũng biết an ủi những ai lâm cảnh gian nan khốn khó.5 Vì cũng như chúng ta chia sẻ muôn vàn nỗi khổ đau của Đức Ki-tô, thì nhờ Người, chúng ta cũng được chứa chan niềm an ủi.

[2] 2 Cr 4,13: “Vì có được cùng một lòng tin, như đã chép: Tôi đã tin, nên tôi mới nói, thì chúng tôi cũng tin, nên chúng tôi mới nói.”

2 2 Cr 4,7: “Nhưng kho tàng ấy, chúng tôi lại chứa đựng trong những bình sành, để chứng tỏ quyền năng phi thường phát xuất từ Thiên Chúa, chứ không phải từ chúng tôi.”

[4] Xem loạt bài về Giáo dục Kitô giáo của Lm Giuse Nguyễn Chấn Hưng sdb trong vài nét Chân dung Nhà đào tạo tr. 113-167.

[5] x. Tài liệu về Lãnh Đạo của sư huynh Nguyễn văn Phát.

[6] Xem bài Một vài kinh nghiệm huấn luyện tu sĩ trẻ hôm nay của Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ trong Vài  nét Chân dung Nhà đào tạo tr. 101-112.

[7] CAN July 29, 2009 ĐTC Biển Đức XVI nói về biến cố ngài ngã gãy khuỷu tay phải rằng thiên thần giữ mình của ngài vâng lệnh trên không tránh cho ngài tai nạn này. Có lẽ Chúa muốn dạy ngài nhẫn nại và khiêm tốn, cho ngài có nhiều thời giờ hơn để cầu nguyện và suy niệm.

[8] “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả. Đức mến không bao giờ mất được” (1 Cor 13,4-7)

[9] Archbishop Celestino Migliore, Vatican 6/2/2009: “Luận lý của tình liên đới và nguyên lý bổ trợ là dụng cụ rất thích hợp để vượt lên mọi vấn đề và bảo đảm sự tham gia của mọi người cho công cuộc phát triển chung của cộng đồng”; JP II, Centesimus Annus, số 48 : «Nếu tôn trọng nguyên lý bổ trợ, tổ chức cấp trên không được can thiệp vào cuộc sống nội bộ của tổ chức cấp dưới bằng cách lấy đi những khả năng chuyên môn của nó, đúng hơn phải nâng đỡ nó khi cần thiết»

[10] Micae-Phaolô Trần Minh Huy pss, Bản thảo Người Nữ Tu Sống Tu Đức Toàn Diện, Học viện Liên Dòng, Bùi Chu 2009.

[11] Cvtđ 25, 16: “Tôi đã trả lời họ rằng người Rô-ma không có lệ nộp bị cáo nào, trước khi đương sự ra đối chất với nguyên cáo, và được cơ hội biện hộ về lời tố cáo.”

[12] Archbishop Celestino Migliore, Vatican 6/2/2009: “Luận lý của tình liên đới và nguyên lý bổ trợ là dụng cụ rất thích hợp để vượt lên mọi vấn đề và bảo đảm sự tham gia của mọi người cho công cuộc phát triển chung của cộng đồng”; JP II, Centesimus Annus, số 48 : «Nếu tôn trọng nguyên lý bổ trợ, tổ chức cấp trên không được can thiệp vào cuộc sống nội bộ của tổ chức cấp dưới bằng cách lấy đi những khả năng chuyên môn của nó, đúng hơn phải nâng đỡ nó khi cần thiết»

[13] x. Đào tạo các nhà đào tạo của lm. Micae-Phaolô Trần Minh Huy pss.

[14] Rm 7, 14-20: Vẫn biết rằng Lề Luật là bởi Thần Khí, nhưng tôi thì lại mang tính xác thịt, bị bán làm tôi cho tội lỗi. Thật vậy, tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu: vì điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm…  Thật vậy, muốn sự thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không. Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi.

[15] Vatican II, Optatam Totius, số 4.

[16] Mt 18, 15-17; Lc 17,3; Ga 8,17; 1 Tm 5,19; 2 Cr 13,1.

Tác giả:  Lm. Trần Minh Huy, pss

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!