Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng

BBT CGVN YouTube
Thánh Kinh Công Giáo
Cầu nguyện bằng email
Hội Đồng Giám Mục VN
Liên Lạc

Văn Kiện Vatican 2

Lectio divina

Suy Niệm & Cầu Nguyện

Học Hỏi Kinh Thánh

Lớp KT Sr Cảnh Tuyết

Nova Vulgata

Sách Bài Đọc UBPT

LỜI CHÚA LÀ ÁNH SÁNG

GH. Đồng Trách Nhiệm

TAN TRONG ĐẠI DƯƠNG

Video Giảng Lời Chúa

Giáo Huấn Xã Hội CG

Tuần Tin HĐGMVN

Vụn Vặt Suy Tư

Giáo Sĩ Việt Nam

ThăngTiến GiáoDân

Bản Tin Công Giáo VN.

Chứng Nhân Chúa Kitô

Thánh Vịnh Đáp Ca

Phúc Âm Nhật Ký

Tin Vui Thời Điểm

Tin Tức & Sự Kiện

Văn Hóa Xã Hội

Thi Ca Công Giáo

Tâm Lý Giáo Dục

Mục Vụ Gia Đình

Tư Liệu Giáo Hội

Câu Chuyện Thầy Lang

Slideshow-Audio-Video

Chuyện Phiếm Gã Siêu

Các Tác Giả
  Augustinô Đan Quang Tâm
  Đinh Văn Tiến Hùng
  Ban Biên Tập CGVN
  Bác sĩ Ng Tiến Cảnh, MD.
  Bác Sĩ Nguyễn Ý-Đức, MD.
  Bùi Nghiệp, Saigon
  Bosco Thiện-Bản
  Br. Giuse Trần Ngọc Huấn
  Cursillista Inhaxiô Đặng Phúc Minh
  Dã Quỳ
  Dã Tràng Cát
  Elisabeth Nguyễn
  Emmanuel Đinh Quang Bàn
  Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB.
  EYMARD An Mai Đỗ O.Cist.
  Fr. Francis Quảng Trần C.Ss.R
  Fr. Huynhquảng
  Francis Assisi Lê Đình Bảng
  Gia Đình Lectio Divina
  Gioan Lê Quang Vinh
  Giuse Maria Định
  Gm Phêrô Huỳnh Văn Hai
  Gm. Giuse Đinh Đức Đạo
  Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
  Gm. JB. Bùi Tuần
  Gm. Nguyễn Thái Hợp, op
  Gm. Phêrô Nguyễn Khảm
  Gs. Đỗ Hữu Nghiêm
  Gs. Ben. Đỗ Quang Vinh
  Gs. Lê Xuân Hy, Ph.D.
  Gs. Nguyễn Đăng Trúc
  Gs. Nguyễn Văn Thành
  Gs. Phan Văn Phước
  Gs. Trần Duy Nhiên
  Gs. Trần Văn Cảnh
  Gs. Trần Văn Toàn
  Hạt Bụi Tro
  Hồng Hương
  Hiền Lâm
  Hoàng Thị Đáo Tiệp
  Huệ Minh
  HY. Nguyễn Văn Thuận
  HY. Phạm Minh Mẫn
  JB. Lê Đình Nam
  JB. Nguyễn Hữu Vinh
  JB. Nguyễn Quốc Tuấn
  Jerome Nguyễn Văn Nội
  Jorathe Nắng Tím
  Jos. Hoàng Mạnh Hùng
  Jos. Lê Công Thượng
  Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
  Joseph Vũ
  Khang Nguyễn
  Lê Thiên
  Lm Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, HKK
  Lm Đaminh Hương Quất
  Lm. Anmai, C.Ss.R.
  Lm. Anphong Ng Công Minh, OFM.
  Lm. Anrê Đỗ Xuân Quế op.
  Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
  Lm. Đan Vinh, HHTM
  Lm. Đỗ Vân Lực, op.
  Lm. G.Trần Đức Anh OP.
  Lm. GB. Trương Thành Công
  Lm. Giacôbê Tạ Chúc
  Lm. Gioan Hà Trần
  Lm. Giuse Hoàng Kim Đại
  Lm. Giuse Lê Công Đức
  Lm. Giuse Ngô Mạnh Điệp
  Lm. Giuse Trần Đình Thụy
  Lm. Giuse Vũ Thái Hòa
  Lm. Inhaxio Trần Ngà
  Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
  Lm. JB Trần Hữu Hạnh fsf.
  Lm. JB. Bùi Ngọc Điệp
  Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh
  Lm. Jos Đồng Đăng
  Lm. Jos Cao Phương Kỷ
  Lm. Jos Hoàng Kim Toan
  Lm. Jos Lê Minh Thông, OP
  Lm. Jos Nguyễn Văn Nghĩa
  Lm. Jos Phan Quang Trí, O.Carm.
  Lm. Jos Phạm Ngọc Ngôn
  Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
  Lm. Jos Trần Đình Long sss
  Lm. Jos.Tuấn Việt,O.Carm
  Lm. Lê Quang Uy, DCCT
  Lm. Lê Văn Quảng Psy.D.
  Lm. Linh Tiến Khải
  Lm. Martin Ng Thanh Tuyền, OP.
  Lm. Minh Anh, TGP. Huế
  Lm. Montfort Phạm Quốc Huyên O. Cist.
  Lm. Ng Công Đoan, SJ
  Lm. Ng Ngọc Thế, SJ.
  Lm. Ngô Tôn Huấn, Doctor of Ministry
  Lm. Nguyễn Hữu An
  Lm. Nguyễn Thành Long
  Lm. Nguyễn Văn Hinh (D.Min)
  Lm. Pascal Ng Ngọc Tỉnh
  Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn
  Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
  Lm. Phạm Văn Tuấn
  Lm. Phạm Vinh Sơn
  Lm. PX. Ng Hùng Oánh
  Lm. Raph. Amore Nguyễn
  Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ
  Lm. Tôma Nguyễn V Hiệp
  Lm. Trần Đức Phương
  Lm. Trần Mạnh Hùng, STD
  Lm. Trần Minh Huy, pss
  Lm. Trần Việt Hùng
  Lm. Trần Xuân Sang, SVD
  Lm. TTT. Võ Tá Khánh
  Lm. Vũ Khởi Phụng
  Lm. Vĩnh Sang, DCCT
  Lm. Vinh Sơn, scj
  Luật sư Đoàn Thanh Liêm
  Luật sư Ng Công Bình
  Mẩu Bút Chì
  Mặc Trầm Cung
  Micae Bùi Thành Châu
  Minh Tâm
  Nữ tu Maria Hồng Hà CMR
  Nguyễn Thụ Nhân
  Nguyễn Văn Nghệ
  Người Giồng Trôm
  Nhà Văn Hương Vĩnh
  Nhà văn Quyên Di
  Nhà Văn Trần Đình Ngọc
  Nhạc Sĩ Alpha Linh
  Nhạc Sĩ Phạm Trung
  Nhạc Sĩ Văn Duy Tùng
  Phaolô Phạm Xuân Khôi
  Phêrô Phạm Văn Trung
  Phó tế Giuse Ng Xuân Văn
  Phó tế JB. Nguyễn Định
  Phùng Văn Phụng
  Phạm Hương Sơn
  Phạm Minh-Tâm
  PM. Cao Huy Hoàng
  Sandy Vũ
  Sr. Agnès Cảnh Tuyết, OP
  Sr. M.G. Võ Thị Sương
  Sr. Minh Thùy, OP.
  Têrêsa Ngọc Nga
  Tín Thác
  TGM. Jos Ngô Quang Kiệt
  TGM. Phaolô Bùi Văn Đọc
  Thanh Tâm
  thanhlinh.net
  Thi sĩ Vincent Mai Văn Phấn
  Thiên Phong
  Thy Khánh
  Thơ Hoàng Quang
  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập
  Tiến Sĩ Tâm Lý Trần Mỹ Duyệt
  Tiến Sĩ Trần Xuân Thời
  Trầm Tĩnh Nguyện
  Trầm Thiên Thu
  Trần Hiếu, San Jose
  Vũ Hưu Dưỡng
  Vũ Sinh Hiên
  Xuân Ly Băng
  Xuân Thái
Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
  Giáo Sĩ Việt Nam
LÀM THẾ NÀO ĐỂ TRỞ THÀNH LINH MỤC TUYỆT VỜI CHO GIÁO HỘI CÔNG GIÁO VIỆT NAM NGÀY NAY?

 

http://www.dunglac.org/index.php?m=home&v=detail&ia=8212

Vài cảm nghĩ…

Nhiều người cho rằng ở Việt Nam ta ngày nay, việc giáo dân góp ý với Giáo hội – gồm các vị hồng y, giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân – về việc đào tạo linh mục, về cách sống chứng nhân, cách rao giảng Tin Mừng và cách thi hành chức vụ thừa tác viên của Giáo hội là “bằng thừa”, vì ai cũng cho rằng các linh mục đã được đào tạo rất kỹ, rất lâu, được chọn lọc rất gắt gao rồi mới được “đỗ cụ”, vì thế, chúng ta chỉ cần đọc kinh “cầu cho các linh mục” trong các thánh lễ chủ nhật là đủ rồi.

Điều nhận xét đó rất đúng.

Qủa thật, như chúng ta đã chứng kiến, suốt hơn 34 năm qua, Giáo hội Công giáo VN đã hoàn thành một cách quá xuất sắc nhiệm vụ đào tạo các linh mục trong hoàn cảnh khó khăn chung của cả đất nước, trong thế giới ngày nay đầy biến động gay gắt, đầy những cơn bão “tôn sùng vật chất” làm điên đảo cuộc sống đạo trên toàn cầu…

Chúng ta phải công nhận đó là một hồng ân to lớn của Chúa đã ban cho Giáo hội Công giáo VN ta, vì:

- Số các linh mục Dòng cũng như Triều, ngày càng thêm đông hơn bao giờ hết,

- Ở nhiều địa phận, các linh mục đã được đào tạo cả về đạo lẫn về đời rất kỹ lưỡng trong một thời gian dài: 4 năm học đại học quốc gia hay dân lập – vì không có đại học Công giáo – để lấy bằng cử nhân. Sau đó là 2 năm ứng sinh, 2 năm học triết học tây phương, rồi 1 năm đi giúp xứ. Tiếp theo là 4 năm thần học, cuối cùng là 1 năm đi giúp xứ trước khi được thụ phong linh mục. Tổng cộng là 14 năm, tính từ đại học trở lên.

Nói cách khác, các linh mục ngày nay đã nhận được một nền giáo dục đầy đủ cả đời lẫn đạo, đã được thử thách một thời gian dài đủ để có sự lựa chọn chín chắn, tự do trước khi chọn đời sống tận hiến linh mục tại VN.

Như thế, việc góp ý … có còn cần thiết nữa hay không?

Theo tôi thì vẫn còn cần thiết, vì những lý do sau đây: muốn phát triển Đạo ngày càng tốt hơn thì phải không ngừng canh tân đường lối giáo dục và tìm ra được những yếu tố nhân văn và siêu nhiên làm điểm tựa mới cho linh mục. Và đặc biệt, vì tôi không bao giờ quên được những lời chỉ dạy trực tiếp của Đức cố Hồng Y Trịnh văn Căn và của một vài vị Giám Mục nữa, là: phải đóng góp ý kiến xây dựng cho Giáo hội Công giáo VN khi có thể được, để Giáo hội ngày càng phát triển tốt hơn, đúng với ý Chúa hơn. Như vậy, đóng góp ý kiến xây dựng luôn luôn là cần thiết… Riêng tôi, tôi xin đóng góp ý kiến về 4 vấn đề liên quan đến câu hỏi “Làm thế nào để trở thành linh mục tuyệt vời cho Giáo hội Công giáo VN ngày nay?” như sau:

- Làm thế nào để các bài giảng của các linh mục VN ngày chủ nhật có chất lượng cao hơn.

- Làm thế nào để các bài viết của các linh mục VN trên các website đây đó được sâu sắc hơn.

- Làm thế nào để các lời phát biểu về những vấn đề đạo-đời của các linh mục VN ở những nơi công cộng, ở các bàn hội nghị thể hiện được đầy đủ bản chất công bằng và bác ái, công lý và hòa bình của Đạo Công giáo toàn cầu nhưng bằng cách diễn đạt mang đậm nét văn hóa VN. đầy hiền hòa, nhẹ nhàng và tế nhị nhưng lại rất hữu hiệu…trong mọi hoàn cảnh.

- Làm thế nào để các linh mục VN ngày nay sống vững vàng và sâu sắc hơn đời sống linh mục của mình giữa lòng dân tộc.

Hơn nữa, tôi muốn đóng góp vì tôi thấy những lời đề nghị của tôi, đã đến lúc, có thể từng bước thực hiện được dễ dàng hơn những năm trước đây, vì ngày nay chính sách của Nhà Nước Việt Nam đã cởi mở rộng rãi hơn, thuận lợi hơn trước rất nhiều; vì các điều kiện vật chất của Giáo Hội Công Giáo VN cũng đã được cải thiện đáng kể hơn trước cho việc đào tạo: điều kiện học tập, ăn ở, sinh hoạt tốt hơn, bớt lo lắng về vật chất hơn, nhờ vậy chủng sinh có giờ học tập, tu luyện nhiều hơn…; và vì một lý do quan trọng khác nữa, đó là giáo dân VN ngày nay có trình độ nhận thức đạo-đời cao hơn trước nhiều, do họ tự chủ động học tập về Tin Mừng, về giáo lý thần học, theo dõi những biến chuyển của Giáo hội trên toàn thế giới nhờ những phương tiện truyền thông ngày càng thuận lợi hơn…như sách báo, các trang web, các kênh truyền hình quốc tế…vân vân…

Tóm lại, hoàn cảnh mới của Giáo hội công giáo VN, của Đất Nước VN và của toàn thế giới ngày nay rất thuận lợi cho việc nâng cao chất lượng đào tạo của các linh mục và xây dựng thành công những điểm tựa mới cho các linh mục VN.  Như thế, hy vọng sẽ giải quyết được phần nào những vấn đề nêu trên.


Bài này gồm hai phần:

Phần I :  Xây dựng một chương trình đào tạo linh mục theo mô hình mới.

Phần II :  Xây dựng một điểm tựa mới cho các linh mục.

                                  

PHẦN I


 XÂY DỰNG MỘT CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO LINH MỤC THEO MÔ HÌNH MỚI.

Để giải quyết tận gốc 4 vấn đề cấp bách nêu trên đây: nâng cao chất lượng bài giảng, nâng cao sự sâu sắc của bài viết, nâng cao chất đạo của các lời phát biểu và nâng cao sự vững vàng và hiệu quả của đời sống linh mục, tôi xin đưa ra 3 đề nghị sau đây:

Đề nghị 1: Đề cao ý nghĩa thần học mục vụ dấn thân (théologie pastorale engagée) trong việc giải thích Kinh Thánh .

Xin các linh mục chú trọng hơn nữa việc đề cao ý nghĩa thần học hơn ý nghĩa đạo đức học (morale) trong bài giảng, bài viết, bài phát biểu, để làm nổi bật bản chất tình yêu hy sinh, cứu chuộc của Thiên Chúa được mặc khải trong đoạn Tin Mừng, trong các bài đọc Kinh thánh khác của ngày lễ. Sở dĩ phải đề cao ý nghĩa thần học như thế là vì nhiều giáo dân ngày nay nhận xét: bài giảng của nhiều linh mục hiện nay chưa có chất lượng cao và nhiều khi thiếu “lửa” của Chúa Thánh Thần.

Trong bài này chúng tôi chỉ đề cập cách riêng đến bài giảng vì giáo dân VN thích nghe giảng hơn…Các bài viết, bài phát biểu chúng tôi sẽ đề cập tới vào dịp khác…

Bài giảng có chất lượng cao là gì?

Là bài giảng đáp ứng được, một cách sâu sắc, những yêu cầu căn bản, tiến bộ của đoạn Tin Mừng đó, nghĩa là bài giảng nhất thiết phải được xây dựng trên thần học chứ không phải chỉ trên đạo đức học. Có lẽ nhiều linh mục không ý thức được sự cần thiết tuyệt đối của việc đưa ra ý nghĩa của sự mặc khải của Chúa trong đoạn Tin Mừng, và cứ tưởng rằng giáo dân ngày nay vẫn còn “bình dân” như giáo dân nông thôn ngày xưa, nên thích rút ra từ đoạn Tin Mừng của ngày lễ, một bài học về đạo đức vì nó không cao siêu, nó dễ hiểu, dễ cảm nhận đối với người tín hữu, vì nó sát với thực tế, ít phải suy nghĩ sâu xa. Nhưng giảng như thế sẽ làm cho giáo dân cứ tưởng rằng chỉ cần sống đạo như cha giảng ở nhà thở là đủ rồi, và giáo dân không cảm thấy cần nỗ lực xây dựng đức tin vào Lời Chúa ngày càng sâu xa hơn. Cuộc sống của giáo dân ngày nay đã được toàn cầu hóa, vì thế lòng tin vào Lời Chúa càng phải vững vàng hơn, tiến bộ hơn. Do đó, bài giảng của linh mục phải chú trọng nhiều hơn vào mặc khải của Chúa trong đoạn Tin Mừng đó hơn là vào bài học đạo đức. Mặc khải thì tuyệt đối cần thiết còn đạo đức học thì tương đối, vì mặc khải cho ta hiểu, yêu mến, tuyên xưng, rao giảng Tình Yêu của Chúa một cách sâu sắc, đúng với ý Chúa hơn. Còn đạo đức học chỉ nêu ra nguyên nhân tự nhiên để rút ra bài học thực tế theo khuôn mẫu của sự khôn ngoan tự nhiên.

Ví dụ: rất nhiều lần được nghe đoạn Tin Mừng theo Thánh Yoan đoạn 8, câu 1 – 11, nhưng chưa lần nào được nghe giải thích ý nghĩa thần học của nó là gì, mà chỉ nghe ý nghĩa đạo đức của nó; chưa được hiểu ý nghĩa thần học của cái “bẫy” nêu trong đó.

Mời các bạn đọc lại đoạn Tin Mừng nêu trên và xin các bạn nhớ lại những bài giảng mà các bạn đã nghe. Riêng tôi, nếu tôi nhớ không nhầm thì thường thường các linh mục chỉ giải thích đoạn Tin Mừng đó chủ yếu xoáy vào bài học đạo đức sau đây: ta không nên kết án (ném đá) ai, vì ai cũng có tội đáng phải kết án (ném đá). Càng là người cao niên thì càng nhiều tội, và càng đáng bị ném đá trước, vì thế họ rút lui trước tiên. Tất cả họ rút lui vì sợ tội lỗi của mình cũng bị phanh phui và sợ bị ném đá. Như vậy, ý nghĩa đạo đức học của câu chuyện này là: chớ kết tội người khác vì sợ mình cũng bị kết tội. Xin nói rõ thêm rằng: không cấm dùng những câu cách ngôn để rút ra bài học đạo đức, về đạo làm người vì Chúa Giê-su đôi khi cũng dùng để nói cho người nghe dễ hiểu : “Chớ xét đoán người khác để khỏi bị xét đoán” (Mt 7: 1 – 5; Lc 6:37-38), nhưng nếu chỉ nêu bài học đạo đức thì rõ ràng là chưa đủ để giáo dân hiểu được bài giảng, hiểu được mặc khải của Chúa và rút ra được cách sống và rao giảng Tin Mừng, vì ý nghĩa đạo dức học thì bình thường, dễ hiểu,  vì đạo nào cũng dạy  gần như nhau. Khổng Tử cũng đưa ra những bài học về đạo đức tự nhiên của con người, khi nói:”Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân”. Sống theo lời dạy của đạo đức học có thể tóm tắt gọn lại như sau: Tôi không làm hại ai, đừng ai làm hại tôi. Nếu ai làm hại tôi thì tôi cũng không tha cho kẻ ấy. Tôi không “ném đá”ai thì đừng ai “ném đá” tôi. Muốn không bị “ném đá” thì đừng “ném đá” người khác.…

Trong khi đó ý nghĩa thần học của đoạn Tin Mừng này cao cả hơn gấp bội. Chúa Giê-su tha tội cho người đàn bà tội lỗi này là để mặc khải cho mọi người biết rằng Thiên Chúa là Tình Yêu. Tình yêu của Thiên Chúa tự bản chất là hy sinh, tha thứ, cứu rỗi,  chứ không phải là kết án, nên đã sai Con một xuống thế gian chịu chết ô nhục trên thập giá để cứu chuộc thế gian tội lỗi.  Mời xem Mt 9: 13; Lc 5: 31-32.Như thế, bài học thần học của bài giảng này cho chúng ta là: Hãy tha thứ cho kẻ có tội làm mất lòng ta vì Chúa dạy ta như thế, và vì trong cõi lòng thâm sâu của kẻ đó cũng luôn luôn có sự hiện diện tiềm ẩn của Chúa. Ta tha tội cho họ và bảo họ đừng phạm tội nữa, nếu họ nghe theo, thì họ sẽ cảm nhận được dễ dàng sự hiện diện và tình thương của Chúa đang tác động trong nội tâm của họ và tự họ, họ sẽ trở lại với Chúa.…

Còn khi giải thích về cái “bẫy” thì cũng phải nêu ra ý nghĩa thần học của nó trong đoạn Tin Mừng. Cái bẫy mà họ giăng ra cho Chúa Giêsu là: nếu Chúa nói không được ném đá người đàn bà này thì họ sẽ bắt ngài, đem Ngài đi giết vì đã chống lại luật Mai sen ; còn nếu Chúa nói phải ném đá người đàn bà này thì Chúa không còn là Đấng nhân hậu nữa (Mt 11: 25-30). Kết luận thần học: cái “bẫy” đó lại trở thành “đòn bẩy” cho Chúa Giêsu mặc khải: Thiên Chúa là Tình Yêu cứu độ. Vậy, bài học thần học từ cái “bẫy” này cho chúng ta là: Trong mọi hoàn cảnh, hãy tha thứ cho tha nhân, đem tha nhân trở về với Chúa, sống trong ơn nghĩa của Chúa, vì trong tâm hồn của tha nhân cũng có Chúa tiềm ẩn.

Chúng ta lấy một ví dụ khác: Tin Mừng Gioan 6:1-15; Mat.14:13-21; Mc.6:32-44; Lc.9:10-17 nói về Chúa Giê-su làm phép lạ bánh hóa ra nhiều. Vậy, ý nghĩa thần học của đoạn Tin Mừng này là gì ?  Thưa, Thiên Chúa là Tình thương. Chúa thương dân chúng đang đói bánh, đói Lời Chúa, cho họ ăn no nê vì Chúa coi họ là đàn chiên của Chúa. Còn đối với chúng ta, đoạn Tin Mừng đó dạy ta gì?  Chúa dạy chúng ta phải thương yêu tha nhân vì tha nhân là hiện thân của Chúa Giê-su. Mời xem Tin Mừng thánh Mát-Thê-ô đoạn 25 câu 31-46. Thần học của đạo Công giáo dạy giáo dân làm phước, tha thứ cho tha nhân vì tha nhân cũng là con cái Chúa như mình, trong tiềm năng (en puissance) hay trong thực tại (en acte) như mình, thì cũng là con cái Chúa.Còn đạo đức học thì dạy cho hết mọi người:”thương người như thể thương thân” mà thôi, nghĩa là làm phước trên bình diện nhân loại thôi. Mà nếu thế thì người vô thần cũng làm được.

Như thế, giải thích Tin Mừng là giải thích ý nghĩa thần học của đoạn Tin Mừng đó, là bày tỏ màu nhiệm mặc khải của Chúa Giêsu. Đó mới là điểm đặc thù của đạo Công giáo. Đạo đức học thì tự nhiên, hay thay đổi theo từng thời đại, từng xã hội, chỉ đòi hỏi thực thi cái tối thiểu, không đòi hỏi cái tích cực tối đa : “đừng làm cái này…đừng làm cái kia…”. Không thể để cho người Công giáo có quan niệm như những người ngoại đạo là: đạo nào cũng thế, cũng dạy người ta ăn ngay ở lành, tu nhân tích đức... Vì đạo Công giáo ngoài việc dạy ăn ngay ở lành, nhất thiết còn phải sống luật yêu thương, hy sinh quên mình cho tha nhân. Không có ông tổ đạo nào dạy tín đồ phải yêu thương cả kẻ thù của mình và chết vì yêu thương để giải thoát cho kẻ đó như Chúa Giêsu. Tình yêu của đạo Công giáo – tự bản chất - là phải hy sinh đến chết cho tha nhân như Chúa Giêsu đã làm. Đó là điểm siêu việt của đạo Công giáo. Linh mục, hơn ai hết, phải sống và chỉ ra cho giáo dân thấy sự vượt trội , và thực thi tình yêu-hy Sinh trong đoạn Tin Mừng đó. Nếu không tìm ra lối sống theo thần học đó, chỉ sống theo đạo đức học không thôi, thì chưa phải là sống đạo Công giáo. Nếu đứng trước sự nghèo khổ đói khát của đồng loại mà không nhận ra là chính Chuá Giê-su đang nghèo khổ đói khát và không cảm thấy đau xót tủi thẹn vì mình chưa giúp gì cho họ và cứ sống phè phỡn thì chưa phải là người Công giáo đích thực. Nếu giáo dân còn đang phải cứu đói lúc giáp hạt mà linh mục vẫn vui vẻ đi “tua”du lịch cao cấp dài ngày ở nước ngoài; nếu giáo dân còn phải đi chân không trên nền đất thô lạnh của nhà thờ chưa có tiền láng xi măng mà linh mục không cảm thấy “chạnh lòng thương”(Mc 6: 34) thì linh mục đó còn phải suy gẫm Lời Chúa rất nhiều mới hy vọng dạy dỗ được giáo dân.  Nếu giáo dân không được linh mục chỉ dạy, tập luyện và nêu gương sống đạo theo bản chất mặc khải của Chúa là hy sinh quên mình cho tha nhân, thì giáo dân sẽ sống đạo hời hợt và dễ bỏ đạo. Khi đó, lỗi của giáo dân cũng một phần lớn là do các linh mục vì không làm gương sáng và dạy họ am hiểu tường tận về đạo Chúa.  

Bài giảng có nhiều “lửa” là gì?

Chúng ta đều biết, “lửa” ở đây là “lửa” của Chúa Thánh Thần. Bài giảng có nhiều “lửa” của Chúa Thánh Thần là bài giảng mà trong đó linh mục phải “truyền lửa yêu mến” cho người nghe. Như vậy, linh mục phải có nhiều “lửa” trước để xác tín rồi mới làm cho người nghe xác tín được, nghĩa là linh mục phải làm sao cho giáo dân cảm thấy, trong nội tâm sâu xa của mình, có sức mạnh thiêng liêng thôi thúc mình, một cách mạnh mẽ, để mình tự tích cực tìm ra con đường sống Lời Chúa, tuyên xưng lòng tin của mình vào Lời Chúa và rao giảng Lời Chúa cho tha nhân, để có thể nói với những người còn sống trong tội lỗi như Chúa Giêsu trong đoạn Tin Mừng này (Gioan 8: 11) là: ”đi đi…..và từ nay đừng phạm tội nữa”, nghĩa là từ nay phải sống thánh thiện và đi loan truyền về Tình Yêu cứu độ của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã truyền lửa tình yêu cho người đàn bà tội lỗi sau khi tha thứ cho bà.

Như thế, bài giảng có nhiều “lửa” không phải là bài giảng trong đó linh mục dùng tài hùng biện rỗng tuếch (rhétorique)để cường điệu bài học luân lý, đạo đức tự nhiên. Lửa đây càng không phải là sự khoe mẽ văn chương hoa mỹ hay ướt át sáo rỗng để thu hút, mê hoặc người nghe trong chốc lát. Trái lại, bài giảng có nhiều lửa là bài giảng có nhiều sức mạnh của Chúa Thánh Thần thúc dục giáo dân suy gẫm Lời Chúa nhiều hơn  và hăng say rao giảng Tin Mừng theo hoàn cảnh sống của mình ; còn dùng thủ thuật hùng biện nói thao thao bất tuyệt nhưng rỗng tuếch, tức là không xoáy vào ý nghĩa thần học, thì chỉ làm sướng tai người nghe thôi. Người ta ùn ùn kéo tới nghe, khen lấy khen để linh mục nói hay qúa, nhưng tài hùng biện hoa mỹ đó chẳng làm cho ai tin vào Lời Chúa, suy gẫm Lời Chúa, chẳng thúc dục ai tuyên xưng và rao giảng Lời Chúa. Linh mục phải truyền lửa “tình yêu của Chúa” cho giáo dân nghe giảng, như Chúa Giê-su đã làm cho người đàn bà trong đoạn Tin Mừng thánh Gioan 8:1-11.

Đề nghị 2: Xây dựng một nền thần học mục vụ dấn thân mang tính văn hóa Việt.

Tôi thấy rất cần đưa ra đề nghị sau đây: đừng dạy một thứ thần học lỗi thời, chung chung hay quá xa lạ với văn hóa Việt. Chúng ta chỉ lấy những nét chính của thần học Kitô giáo làm nền tảng để từ đó thiết kế một chương trình học cho môn thần học mục vụ dấn thân có tương quan mật thiết với nền văn hóa Việt. Vì như thế, Tin Mừng mới ngày càng phát triển, càng có chỗ đứng vững chắc và sâu sắc trong tâm hồn người Công giáo VN, và tâm hồn những người thiện chí và có cảm tình với đạo. Chỉ có bằng con đường văn hóa Việt chúng ta mới có thể phát huy đức tin vào Lời Chúa ngày càng sâu sắc hơn. Vì thế, đề nghị những linh mục đi du học ở các nước châu Âu, châu Mỹ về không được “bứng” nguyên si nét văn minh, cách sống, cách ăn nói, cách giảng trong lễ, nền thần học, triết học của họ áp dụng vào nền văn minh của ta mà không có chọn lọc uyển chuyển, khôn ngoan vì hai nền văn minh đó rất khác với chúng ta. Chẳng hạn  không dùng những câu cách ngôn, tục ngữ Âu-Mỹ dịch ra tiếng Việt để phát biểu vì chúng ta có cả một kho tàng ca dao tục ngữ. Hơn nữa, cách ăn nói của Âu-Mỹ là cách ăn to nói lớn, nói thẳng, không kiêng nể ai, cứ như cãi nhau. Đó là chưa kể còn có thể dịch sai nữa. Làm như thế là mất gốc, mất cảm tình, mọi người sẽ dần dần xa lánh mình.Cách nói của VN là cách diễn đạt dịu dàng, từ tốn, ngọt ngào…

Thần học mục vụ dấn thân (théologie pastorale engagée) có nhiệm vụ không ngừng tìm mọi cách in dấu ấn của Lời Chúa vào những cơ cấu kinh tế, chính trị, xã hội Việt Nam và vào những nét đặc thù của đời sống trí thức, nghệ thuật, tôn giáo của người Việt Nam ngày nay. Những tác phẩm của Hoàng Sĩ Quý, Kim Định, và nhiều tác giả nổi tiếng khác, có thể bước đầu làm tài liệu cho chúng ta tham khảo để từ đó thiết lập một chương trình giảng dạy thần học ở Đại chủng viện.

Phương pháp giảng dạy môn thần học này cũng phải thay đổi cho phù hợp với xu hướng của thời đại hiện nay. Phương pháp truyền thống là đọc – chép. Thầy đọc – trò chép, thầy giảng – trò nghe. Thầy là chính, trò là phụ. Phương pháp giáo dục mới không đặt trọng tâm nơi thầy mà nơi trò. Chủng sinh mới là người có vai trò chủ động. Thầy chỉ đưa ra một tổng hợp nội dung(synthèse de base théologique) của môn học, cung cấp thư mục (bibliographie), ví dụ môn Kitô học (Christologie).Từ đó chủng sinh của đại chủng viện phải chủ động học tập, nghiên cứu theo nhóm, có sử dụng Internet và trình bày bài nghiên cứu trước lớp bằng  LCD. Vì như vậy mới cụ thể, sống động, sâu sắc hơn, dễ hiểu, dễ nhớ và có tính toàn cầu hơn.

Nói tóm lại, chúng ta phải đổi mới, thiết kế lại chương trình và phương pháp dạy và học vì chúng quá xưa rồi. Đổi mới như thế là một công trình lớn đòi hỏi nhiều công sức, thời gian và tiền của, nhưng nếu ta không từng bước thực hiện thì sẽ không bao giờ có một nền thần học mục vụ dấn thân đậm nét văn hóa dân tộc là lý tưởng của thời đại chúng ta.

Đề nghị 3: Xây dựng môn học mới: Giáo dân học, và soạn thảo lại môn Lịch sử giáo hội công giáo Việt Nam.

Trong chương trình đào tạo linh mục, tôi thiết nghĩ đã đến lúc chúng ta phải cắt bớt, rút  ngắn hay cô đọng hóa môn Triết học cổ điển của Platon, Aristote, và môn thần học của Saint Thomas d’Aquin (thế kỷ 13) để xây dựng môn học mới có ích lợi hơn nhiều, đó là môn Giáo dân học và soạn thảo lại môn Lịch sử giáo hội công giáo Việt Nam.

Lý do thì rất dễ hiểu: Linh mục là những người “quản lý” giáo dân, mà đã là người “quản lý” thì phải biết rành rẽ và có hệ thống những gì thuộc về giáo dân mới có thể giúp giáo dân sống Đạo, loan báo Tin Mừng ngày càng tốt hơn. Giáo dân mỗi nước thì có những đặc điểm văn hóa riêng, vì thế phải soạn thảo một chương trình mang tính ưu việt riêng của dân tộc VN. Chúng ta hãy bắt đầu bằng đúc kết những kiến thức về giáo dân từ xưa đến nay, ở các nước trên thế giới, từ Cựu Ước đến Tân Ước cho tới ngày nay, đặc biệt là giáo dân VN. Sau đó, chúng ta hãy biến chương trình học cũ kỹ ở Đại chủng viện thành chương trình có dấu ấn thần học-triết học tiên tiến của thời đại toàn cầu hóa đầy văn minh và tiến bộ của nhân loại. Trong chương trình học đó phải thêm môn học mới: môn giáo dân học. Chúng ta chọn ra những điểm ưu việt của môn lịch sử giáo dân (giáo dân học) trong cựu ước và tân ước, đồng thời phải can đảm loại trừ những trí thức, những phán quyết lạc hậu, lỗi thời, chậm tiến, phản tiến bộ của chương trình đào tạo cũ để thiết lập một chương trình mới vừa phù hợp với Tin Mừng, với Giáo Hội Công giáo La Mã, và được Hội Đồng Giám Mục VN. chấp thuận,  vừa mang tính tiến bộ để phục vụ tối đa lợi ích của hàng giáo dân VN., cải tạo thiên nhiên để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, tạo hạnh phúc cho cá nhân người giáo dân, cho gia đình, cho xã hội và giáo hội VN. ngày nay. Môn giáo dân học phải được xây dựng trên nền tảng thần học - kinh thánh theo chiều hướng mục vụ, dấn thân, tiến bộ, đậm nét văn hóa dân tộc Việt hiện đại.  Như vậy mới giả quyết được những vướng mắc do lịch sử giáo hội để lại về luân lý hôn nhân, về đạo đức gia đình, kế hoạch hóa gia đình, về vấn đề được dùng hay không được dùng thuốc ngừa thai…vân vân….Những vấn đề đó sẽ giải quyết được dễ dàng, thỏa đáng nếu chúng ta theo quan điểm thần học kinh thánh mới coi giáo dân là chính. Vấn đề này sẽ được bàn sâu rộng ở phần sau: Giáo dân là điểm tựa cho linh mục.…

Mọi vấn đề ngày nay đều khác xa với ngày xưa, nếu chúng ta không chịu cải tiến tư duy, thay đổi lập trường, nếu cứ sợ cái tiến bộ, nếu cứ khư khư giữ lấy cái lạc hậu, lỗi thời…thì sẽ dễ dẫn đến sai lầm, tội ác…

Ngoài ra, chúng ta cũng nên sớm mau chóng thay thế vị trí của một số thánh ngoại xa xôi bằng những vị thánh người Việt đáng yêu và gần gũi hơn. Đó là điều rất hợp với tôn chỉ của Công Đồng Vatican II.

Mời coi: “Optatam totius Ecclesiae renovationem” (La formation des prêtres) đoạn 1 –std, trang 448.

Còn về môn Lịch sử giáo hội công giáo VN., chúng ta cũng phải rà soát lại xem có những gì phải sửa đổi cho phù hợp với thực tế, với sự thật, với lịch sử VN thời xưa cũng thời nay, như những tương quan giữa giáo hội với các chế độ chính trị, các tôn giáo bạn, vv…để đạo của chúng ta có thể sống chung hòa bình và phát triển bền vững giữa lòng dân tộc VN…

Có lẽ sẽ có người nói rằng chúng ta làm gì có đủ “cha giáo” chuyên viên về Triết học - thần học để tiến hành việc canh tân cải cách chương trình đó cho đại chủng viện!

Xin thưa, nếu được Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, hoặc đấng có bản quyền kêu gọi thì giáo dân Việt Nam ở trong và ngoài nước sẽ rất sẵn sàng đóng góp tài năng, tiền bạc, thời giờ của mình để cùng với các linh mục xây dựng và trình lên HĐGMVN một chương trình Triết-Thần học hoàn hảo hơn, hợp với thời đại toàn cầu hóa hơn cho việc giáo dục ở đại chủng viện tại Việt Nam ngày nay.


PHẦN 2


XÂY DỰNG ĐIỂM TỰA MỚI CHO ĐỜI SỐNG LINH MỤC.

Như mọi người chúng ta đều biết: từ trước tới nay, đời sống linh mục có 2 điểm tựa chính:

Điểm tựa 1: Lời Chúa.

Lời Chúa vừa là mục đích, vừa là điểm tựa tuyệt đối cho linh mục. Linh mục liên tục học hỏi Lời Chúa, sống Lời Chúa, tuyên xưng Lời Chúa, rao giảng Lời Chúa một cách có hiệu quả.

Đối với giáo dân thì Lời Chúa cũng là mục đích và là điểm tựa tuyệt đối, nhưng để rao giảng Lời Chúa thì giáo dân không được đào tạo chuyên sâu như linh mục.

Nhờ có Lời Chúa mà linh mục dễ trở nên thánh thiện hơn, rao giảng và chứng tá cho Chúa một cách hữu hiệu hơn, dễ vượt lên trên những thử thách, những lo toan về đời sống cơm áo gạo tiền, thắng được những áp lực, đam mê xấu, những cám dỗ tội lỗi đến từ một thế giới đầy tính thế tục như hiện nay.

Mời xem:

FP (décret sur la formation des prêtres – Concile oecuménique Vatican II – Editions du Centurion – Paris 1967, trang 445 – 468)

MVP (décret sur le ministère et la vie des prêtres – std. trang 393-444, nhất là số 18, tr.436)

Điểm tựa 2 : Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Đức Giám Mục và Linh mục đoàn của từng địa phận…

Hội Đồng Giám Mục VN và Đức Giám Mục, các linh mục địa phận là những điểm tựa quan trọng, không thể thiếu được cho các linh mục. Các linh mục dòng cũng như triều phải tuyệt đối vâng phục đường lối chung của Hội Đồng Giám Mục VN và đường lối riêng của địa phận mình, dòng tu mình vì đó luôn là điểm tựa vững chắc nhất, khôn ngoan nhất trong tổ chức của Giáo Hội.

Điểm tựa mới: giáo dân của Chúa.

Trong lịch sử giáo hội, chưa có văn bản chính thức nào của Hội Thánh dạy các linh mục phải coi giáo dân là điểm tựa, hay phải lấy giáo dân làm gốc, ngay cả trong lá thư của Đức Giáo Hoàng Bênêdictô 16 gởi các linh mục ngày 16/6/2009 cũng vậy.

Nhưng theo tôi đây là một mục tiêu quan trọng mà chúng ta phải dũng cảm tiến tới.

Tại sao?

Thưa, vì điểm tựa mới này có thể đáp ứng đầy đủ những yêu cầu của Kinh Thánh, của Công Đồng Vatican II và giải quyết được những vấn đề quan trọng của linh mục ngày nay ở Việt Nam.

Muốn hiểu được tại sao điểm tựa mới, tức là giáo dân, lại có thể giải quyết được những vấn đề nêu trên, chúng ta phải tìm hiểu:

Giáo dân là ai? Giáo dân có vai trò gì?

Giáo dân giúp linh mục giải quyết được gì?

Giáo dân là ai? Giáo dân có vai trò gì trong Giáo Hội?

Giáo dân là dân của Thiên Chúa

Dân Chúa trong Cựu Ước là dân Israel.

Dân Chúa trong Tân Ước là Giáo hội Công giáo, là Hội Thánh, là thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô, là cộng đồng các tín hữu tin vào Chúa Kitô và vâng phục Đức Giáo Hoàng ở Rôma.

Có đôi khi trong quá khứ, như thời Trung đại ở Pháp (Moyen-Age), trong thực tế, người ta coi giáo dân là hạng thứ cấp còn giáo phẩm là hạng cao cấp .

Ở Việt Nam ta trước đây, nhất là ở cuối tiền bán thế kỷ 20, ở một số nơi, có người coi chức linh mục như một chức quan và giáo dân phải vâng phục các quan đó như vâng phục quan chức của triều đình. Vì thế, mỗi lần có 1 người được thụ phong linh mục thì cả làng xóm họ hàng rước sách linh đình để vinh qui bái tổ, mổ trâu mổ bò để ăn khao. Những người đó không đón nhận tân linh mục như là “đầy tớ” của giáo dân như Chúa Giêsu vẫn coi mình là “đầy tớ” của muôn dân, mà coi việc thụ phong linh mục như là đỗ cụ, đỗ ông nghè, ông cử…

Dần dần, nhờ ảnh hưởng của các nhà thần học tiến bộ trên thế giới, quan niệm phong kiến sai lệch đó ở VN đã được khắc phục; nhưng nhìn chung thì người ta vẫn coi giáo dân “không bằng” linh mục vì linh mục thì độc thân và thuộc hàng giáo phẩm có quyền trên giáo dân, ví dụ: đề nghị lên Giám mục rút phép thông công, không làm lễ cưới cho, không cho rước lễ vv…

Trước đây, trong thế kỷ 20, ở Việt Nam có một nghịch lý: nhiều khi giáo dân nói đúng cũng không ai nghe, còn linh mục dù nói sai nhưng mọi người vẫn nghe. Ngày nay, giáo dân đã giải quyết được nghịch lý đó, vì giáo dân bây giờ tiến bộ hơn ngày xưa nhiều. Dần dần vai trò của giáo dân được mọi người nhận thức đúng đắn hơn.

Muốn hiểu đúng về giáo dân một cách có căn cơ, ta phải tìm hiểu chỗ đứng của giáo dân trong Cựu Ước và Tân Ước.

Giáo dân trong Cựu Ước:

Chúng ta đều biết, dân Israel trong Cựu Ước được Thiên Chúa tuyển chọn giữa nhiều dân khác (Dt7: 7; Is 41: 8), được Thiên Chúa kêu gọi (Is 48: 12) không phải vì là dân đông đúc, dân hùng mạnh, dân có tài cán gì (Dt 7: 7; 8: 17; 9: 4) mà chỉ vì Chúa yêu thương và chọn làm dân riêng của Chúa. Chúa dẫn dắt họ để mặc khải một cách tiệm tiến về Thiên Chúa cho họ, từ thời tạo thiên lập địa cho đến thời Chúa Giêsu. Như thế, giáo dân trong Cựu ước có vai trò , có sứ mạng tiếp nhận, gìn giữ một phần mặc khải của Thiên Chúa và chuẩn bị cho giao ước mới. Còn các vua chúa của Israel là những người tổ chức dân, dìu dắt dân, cai trị dân, đưa dân về đất hứa.

Giáo dân trong Tân Ước:

Từ thời Chúa Giêsu đến nay, dân Chúa là Hội Thánh, gồm hàng giáo phẩm và giáo dân. Giáo phẩm và giáo dân đều có vai trò vĩ đại, cao cả hơn thời Cựu Ước, đó là tuyên xưng đức tin và rao giảng Tin Mừng cho toàn thế giới. Hàng giáo phẩm có chức vụ khác với giáo dân, có quyền hành, trách nhiệm cao hơn giáo dân, nhưng quyền hành, trách nhiệm đó không mang tính cách cai trị như thời Đa-vít hay Mai-sen trong Cựu ước; mà trái lại, quyền hành bây giờ trong Tân Ước là quyền của “người đầy tớ”, như Chúa Giêsu là đầy tớ cho mọi người.  Mời xem:: Mt 11: 29; Lc 22: 27; Mc 8: 31. Người đầy tớ này được Chúa Giê-su ủy quyền “tha tội” hay “buộc tội” nhưng phải làm như Chúa, nghĩa là để cứu rỗi toàn thể nhân loại (Ac 3: 13; 18; 4: 27 vv…) chứ không đề linh mục có dịp “ra oai” hoặc lớn tiếng la mắng giáo dân khi người này còn đang quì gối trong tòa giải tội…

 Mời xem:

Lumen gentium, đoạn 10 – 11, std. trang 28-29

Mt 16: 24, Mt 20: 22; 26: 27; 10: 17

Lc 9: 60; 10: 1-16

Ph 2: 17; 4: 18

Rm 12: 1

Héb. 5: 15      

Apoc. 1: 6; 5: 9-10

Act. 2: 42-47

Rom.12: 1

1 Pierre 3: 15

Jacques 5: 14-16

Rom. 8: 17

Col. 1:24 2 Tim. 2: 11-12

1Pierre 4: 13

Eph. 5: 32

Vân vân…

Như vậy, trong Cựu Ước và nhất là trong Tân Ước, hàng giáo phẩm và giáo dân đều cộng tác, dựa vào nhau để sống đạo, rao giảng Tin Mừng và ban bí tích. Mời coi Lumen gentium, đoạn 10, câu 4 std. trang 29, đoạn 11- câu 1; đoạn 12 câu 1-3. Nói cách khác, đạo của giáo phẩm và đạo của giáo dân đều duy nhất như nhau vì cùng có nguồn gốc từ Thiên Chúa, từ Chúa Giêsu, nhưng về mặt hành chánh, về tổ chức thì trách nhiệm và quyền hành có khác nhau, vì Hội Thánh cũng là một tổ chức trần gian. Lý thuyết đó được dựa trên những văn kiện, công đồng, Kinh Thánh, vì thế ta thấy dễ chấp nhận sự ủy quyền đó.

Nhưng, nếu dựa trên thực tế, dựa trên lịch sử Giáo Hội ở nhiều nước Âu-Mỹ… thì nhiều khi hàng giáo phẩm phạm sai lầm khi lạm dụng quyền “buộc tội” trong việc “cai trị” Dân Chúa vì không biết dựa vào giáo dân, nghe giáo dân… Ví dụ: vụ Ga-li-lê, vụ Copernic bị Giáo Hội lên án năm 1663. Mãi đến năm 1992 Giáo Hội mới thấy mình sai và phục hồi danh dự cho các nhà khoa học đó.

Ngày nay, ở VN, đôi khi vẫn còn trường hợp linh mục thiếu lương tâm,  lạm dụng quá đáng “quyền buộc tội” mà Giáo hội đã trao cho mình để la mắng giáo dân, bắt chẹt giáo dân, và đôi khi còn để che giấu bớt tội lỗi của mình nữa…

Như thế làm sao giáo dân còn tin tưởng thương yêu, che chở, nâng đỡ cho linh mục ?

Vậy giáo dân giúp linh mục được gì?

Trước hết, giáo dân giúp linh mục về tiền xin lễ, tiền đóng góp. Điều đó quá hiển nhiên, ai cũng biết, và linh mục xứng đáng nhận tiền đó, Nhưng giáo dân còn giúp linh mục được một điều rất đáng kể nữa, đó là : tư vấn cho linh mục.

Thật vậy, ngoài nhiệm vụ là lá chắn che chở cho các linh mục khỏi “tà ma” “quỉ dữ” luôn tìm mọi cách hãm hại linh mục, giáo dân còn có vai trò chiến lược là TƯ VẤN CHO LINH MỤC. Điều đó hợp với sự khôn ngoan tự nhiên và siêu nhiên vì, nếu hơn ai hết, linh mục cần tự vấn lương tâm mình hàng ngày trước Lời Chúa, thì linh mục cũng cần được tư vấn cả trong lãnh vực “cai trị” Dân Chúa nữa. Tự vấn cách nghiêm túc và được tư vấn cách khôn ngoan là yêu cầu không thể thiếu của linh mục, “Người tôi tớ Yahvê” . Trong xứ đạo, cần lập ra Ban tư vấn cho cha sở, cha phó, nên để giáo dân trong giáo xứ đề nghị hay bầu ra và được cha sở, cha phó chấp thuận. Như thế mới đem lại nhiều lợi ích khách quan cho cha sở, cha phó.

Điều này rất hợp với Công Đồng Vatican II. Mời xem: décret sur la formation des prêtres, mục  số 10, std. trang 458.

Và hợp với tình hình thực tế của Giáo hội VN. vì ngày nay có nhiều giáo dân rất tiến bộ. Vì thế việc giáo dân làm điểm tựa tư vấn cho linh mục chính-phó xứ là rất có lợi. Nếu linh mục lấy giáo dân làm điểm tựa hợp lý thì có lợi cho cả giáo xứ và Giáo hội.

Ở xứ đạo B. Sàigòn 3, cha sở đã cầu nguyện, suy nghĩ, tham khảo nhiều ý kiến và đã thành lập được Ban tư vấn mục vụ của giáo xứ. Từ đó Cha sở và Ban tư vấn đã chung sức nâng cao đời sống đạo của giáo xứ một cách rõ rệt, như kêu gọi mọi người trong xứ đóng góp để xây dựng nhà giáo lý. Cha đã xung phong đóng góp 100 triệu đồng là số tiền gia đình vừa cho cha, và cha còn đóng góp thêm nhiều đợt cùng với giáo dân nữa. Sổ thu chi rất minh bạch nên giáo dân rất phấn khởi chung tay đóng góp. Vì thế, xứ đạo đó đã xây dựng được không phải một nhà giáo lý mà là một dãy nhà đẹp đẽ khang trang để tổ chức nhiều sinh hoạt cho giáo xứ. Lòng quảng đại hy sinh của cha sở như men làm dậy bột để xứ đạo đó thành công ngoài sự mong đợi. Như thế, cha đã tin vào giáo dân và lấy giáo dân làm gốc, làm điểm tựa, làm mục đích phát triển đời sống đạo cho toàn giáo xứ.

Một hình thức khác của việc lấy giáo dân làm gốc, làm điểm tựa, đó là cha sở đi đến nhà thăm giáo dân, tham khảo ý kiến giáo dân. Phương pháp này cũng rất hữu hiệu. Tôi từng chứng kiến một cha sở ở vùng cao, thường khi ăn bữa tối xong là cha khoác áo, chống gậy đi thăm nhà giáo dân. Từ đó, cha nắm được hết những khó khăn vật chất, tinh thần cũng như tiềm năng của giáo dân. Cha đã kêu gọi được những giáo dân có kinh nghiệm, có lòng quảng đại hy sinh cùng cha tổ chức những lớp học giáo lý thần học, và phát triển kinh tế cho giáo xứ, sửa sang nhà thờ đẹp đẽ khang trang, nhà giáo lý, mở công ty, mở nhà nội trú cho học sinh nghèo. Vì thế, xứ đạo ngày càng tin tưởng cha, sống đạo trong tin yêu, đoàn kết, và xứ đạo không ngừng phát triển cả về đạo lẫn về đời.

Nói tóm lại, để trở thành linh mục hữu ích cho giáo hội công giáo VN ngày nay, linh mục phải thấm nhuần một nền thần học mục vụ dấn thân (Théologie pastorale engagée…), tiến bộ và mang đậm nét văn hóa Việt. Như thế, trong bài giảng, linh mục mới chỉ ra được cho giáo dân thấy cái cốt yếu của Mặc khải: Thiên Chúa là Tình Yêu  thay vì chỉ nêu ra nguyên lý đạo đức học như vẫn thường làm; ngoài ra linh mục còn phải được đào tạo kỹ về hai môn học : môn Giáo dân học và môn lịch sử công giáo VN, để ý thức được vai trò, trách nhiệm, khả năng của giáo dân trong việc đóng góp công sức, tài năng, điểm tựa cho linh mục, cho giáo xứ và giáo hội.

Nói cách khác, giáo dân xứng đáng là điểm tựa cho linh mục, vì giáo dân, trên thực tế, có “trăm mắt, trăm tai, trăm tay”, dám nói, dám làm, rất tiến bộ, và nhất là không ngừng biết tự tu luyện, học hỏi về giáo lý thần học, thường xuyên tiếp xúc, tham khảo kinh nghiệm sống đạo trên toàn cầu…trong khi đó một số linh mục ngày nay thiếu căn bản về nhiều mặt, nhất là về giá trị nhân văn, về thần học mới, về kinh nghiệm lấy giáo dân làm điểm tựa, nên đã gây ra nhiều điều đáng tiếc, vv…Mời xem thư của Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đic-tô 16 gửi các linh mục trong ngày khai trương năm linh mục, Vatican ngày 16/6/2009, trong đó có câu: “Bất hạnh thay, cũng tồn tại những hoàn cảnh, không bao giờ lấy làm tiếc đủ, mà chính Giáo hội phải chịu vì sự bất trung của một số thừa tác viên của mình. Và đối với thế giới, đó là một cái cớ gương mù và khước từ, …vân vân…”(Võ xuân Tiến chuyển ngữ).

Đó là chưa kể những linh mục “làm công” (Gioan 10:1-16), những linh mục “tiên tri giả” (Mat.7:15-20; Giê-rê-mi 23:11-15), những linh mục “chăn chiên giả” (Giê-rê-mi 23:1-6) vẫn đôi khi còn xuất hiện đây đó trên đời thường, trên Internet….

“Trăm mắt, trăm tay, trăm tai” của giáo dân sẽ giúp linh mục tự làm chủ được đời mình một cách hữu hiệu hơn trước những thách thức, khủng hoàng về đức tin, đức ái, đức cậy…

 

Đôi lời kết luận

Để kết luận bài này, tôi thấy rằng nếu hàng giáo phẩm VN. không đi sâu đi sát với giáo dân, không lấy giáo dân làm gốc, làm điểm tựa thì e rằng sau này giáo dân cũng sẽ xa rời hàng giáo phẩm và chỉ còn sống đạo “vật vờ” như đa số giáo dân ở châu Âu, châu Mỹ hiện nay. Họ sẽ bỏ Nhà thờ, bỏ các linh mục. Họ vẫn còn tin vào Sứ điệp Tình Yêu của Chúa Giê-su, nhưng không còn tin vào những giáo huấn của giáo hội nữa. Họ cho rằng nhiều giáo huấn đã lỗi thời, lạc hậu, phản tiến bộ mà giáo hội không chịu sửa đổi lại. Vì thế, họ cũng không tin vào hàng giáo phẩm nữa và lúc đó thì hàng giáo phẩm cũng sẽ lao đao.

Một nguyên nhân khác khiến giáo dân sẽ bỏ nhà thờ là: Như chúng ta đều biết, từ xưa đến nay, từ thời Cựu ước đến thời Tân ước và cho đến cuối thế kỷ 20, nguyên nhân đầu tiên làm cho giáo dân, không kể những trẻ em, theo đạo là vì muốn tìm được cơ hội để thỏa mãn một nhu cầu vật chất, tinh thần hay tâm linh nào đó, ví dụ nhu cầu được hạnh phúc. Họ theo đạo, giữ những điều răn của đạo là để được hạnh phúc. Họ được linh mục cho biết rằng hạnh phúc đó là hạnh phúc ở đời sau, tức là thiên đàng. Và họ tin như vậy. Họ ráng chịu mọi sự đau khổ đời này để được lên thiên đàng ở đời sau. Nhưng từ nhũng thập niên cuối thế kỷ 20, ở những nước phát triển như Pháp, Mỹ, đa số người dân không còn tin ở hạnh phúc đời sau nữa, vì họ lý luận như thế này: nguyên nhân của sự đau khổ là vì có ý niệm về sự hạnh phúc đời sau. Theo họ, hạnh phúc là ngay bây giờ, chứ không có ở đời sau. Hạnh phúc là niềm vui sống chan hòa trong vũ trụ, là sự hưởng thụ một đời sống an bình, phát triển, là ước gì được nấy ngay bây giờ.

Điều đó muốn nói lên rằng mọi sự ngày nay đã thay đổi hoàn toàn khác xưa. Thực tế đó đòi hỏi linh mục, giáo hội phải thay đổi cách dạy giáo lý, cách cắt nghĩa, giảng giải Tin Mừng, Thần học kinh thánh, luân lý, vv…vì chúng quá xưa rồi. Nếu giáo hội VN.không thay đổi cái nhìn thần học lỗi thời đó thì trong vài ba thập niên nữa, giáo dân cũng sẽ bỏ đạo như bên các nước Mỹ, Pháp…

Mời xem:  Le Figaro, Magazine , 27 mars 2004, trang 50.

Hơn nữa, nếu hàng giáo phẩm VN không xây dựng được một nền thần học mục vụ dấn thân mang đậm nét văn hóa Việt thì những lời giảng của linh mục sẽ mất tính sâu sắc và mau chóng bị bị lãng quên.Và lúc đó giáo dân chỉ còn sống đạo theo tôn chỉ của đạo đức học để đời sống được thoải mái, dễ dàng hơn, chứ không còn sống theo Lời Chúa đòi hỏi hy sinh tối đa cho tha nhân.

Ngoài ra, nếu Giáo hội đưa ra những phán quyết độc đoán, thiếu tính đối thoại và bác ái, thì sẽ dễ đi đến đổ vỡ, giáo dân sẽ bỏ đạo, Giáo hội sẽ bị cô lập, sẽ bị suy thoái trầm trọng. Bài học quá khứ của nước Pháp thời vua Clovis vẫn còn đó, tuy ít ai biết tới, nhưng theo tôi, lại thật đáng để chúng ta suy gẫm và điều chỉnh phương pháp tuyên xưng và rao giảng Lời Chúa tại VN ngày nay.

Xin nhắc lại để mọi người hiểu rõ hơn :  Năm 482, vua Clovis của nước Pháp (thời đó gọi là La Gaule) lên ngôi, thấy nước Pháp vừa yếu, vừa nghèo, dân cư thưa thớt, lãnh thổ nhỏ hẹp, đã biết khôn khéo lợi dụng đúng lúc đạo công giáo La Mã. Ông đã xin theo đạo, cưới Clotilde là công chúa dòng họ Burgondes là người có đạo công giáo, vì thế được người đại diện của Đức giáo hoàng là Thánh Grégoire, Tổng Giám mục thành Tours chúc phúc, được Thánh Rémi rửa tội ở Reims năm 498 và được viện trợ về thực phẩm, quân sự rất nhiều. Nhờ đó, Ông đã biến nước Pháp thành một vương quốc giàu có, mạnh về quân sự, lãnh thổ thênh thang.  Mời xem  Histoire de France. Tác giả Jean Mathiex- Hachette Paris, 2001- trang 19-20, vv…Nhưng sau nhiều thế kỷ phát triển vượt trội hơn các nước khác, nước Pháp dần dần xa lánh giáo hội công giáo, để rồi ngày nay, như chúng ta thấy, nhà thờ của họ thì trở thành điểm tham quan du lịch, giáo dân chỉ còn mấy ông bà già đi lễ…Họ đã bỏ đạo gần hết rồi. Vì sao ? Nguyên nhân thì có nhiều, nhưng nguyên nhân chính là giáo dân Pháp, từ thế kỷ 18 (thế kỷ Ánh Sáng) đến nay, không còn chịu nổi sự  độc đoán của hàng giáo phẩm. Ngoài ra, vì Giáo hội  Pháp không chịu canh tân thần học quá cổ xưa của Saint Thomas d’Aquin cho kịp với thời đại, ù lì không chịu xây dựng một nền thần học mới lấy mục vụ dấn thân đậm nét dân tộc là chủ yếu, không chịu canh tân và chấp nhận quan điểm tiến bộ lấy giáo dân làm điểm tựa, làm gốc cho đời sống của linh mục, của Giáo hội. Mời xem: Histoire de France, std.,trang 56-64.

Ước mong sao Giáo Hội Công giáo VN sẽ mãi mãi phát triển bền vững đúng với thánh ý Chúa….

Trịnh Nhất Định

Tác giả:  Trịnh Nhất Định (http://www.dunglac.org/index.php?m=home&v=detail&ia=8212)

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!