Giáo Hội, với tư cách là Hiền Thê và Nhiệm Thể của Đức Kytô, chia sẻ sứ mạng của Người để thi ân giáng phúc cho đoàn dân thánh. Giáo Hội Việt Nam vừa trưởng thành, đã thực thi trọn vẹn các sứ mạng cao cả ấy, nhất là sứ mạng vương đế và tư tế, và do vậy người giáo dân chúng con có cơ may được đưa dẫn đến mạch nước hằng sống.
Giáo Hội Việt nam cũng đã nỗ lực thi hành sứ mạng ngôn sứ của mình, để Lời Thiên Chúa trở nên sống động và hữu hiệu giữa lòng dân thánh. Nhưng khi thời cuộc đổi thay và khi xã hội có quá nhiều biến chuyển, dường như đôi lúc tiếng nói ngôn sứ của Giáo Hội Việt Nam hoặc là chưa bắt kịp nhịp đời hoặc là còn nhỏ nhẹ quá, và do đó khi dân Chúa bước đi nhanh, tiếng nói ngôn sứ lại có vẻ như chưa được gió thổi đến để đồng hành với dân.
Thư chung của HĐGMVN năm 1980 đã nhắc nhở rằng “Giáo Hội đồng hành với dân tộc”. Bây giờ đọc lại thư chung ấy con vẫn dường như chưa hiểu rõ lắm, bởi vì qua 2000 năm trên toàn cõi địa cầu này, chỉ có Giáo Hội Việt nam nhắc nhở “đồng hành với dân tộc”.
Thật ra, Giáo Hội vẫn đồng hành với nhân loại như Đức Kytô vẫn đồng hành với các môn đệ đến Emmau và cho đến tận cùng bờ cõi đất và tận cùng của thời gian. Và Hội Thánh với sứ mạng của mình luôn đồng hành cùng con người ở mọi thời đại và luôn làm ngôn sứ cho nhân loại này.
Ngôn sứ thì không hô khẩu hiệu, ngôn sứ luôn rao giảng một cách mạnh mẽ, kiên cường và bền bỉ, thậm chí khi phải bị bạo quyền giam giữ như Gioan Tiền Hô, vẫn khẳng khái lên tiếng rao giảng, bênh vực cho công lý. Chúng con vui mừng vì một vị mục tử đã lên tiếng: “Bây giờ, chính chúng tôi, được hiện diện, được rao giảng Tin Mừng trong một nước cộng sản, anh chị em hãy khích lệ chúng tôi rao giảng Tình Yêu của Thiên Chúa bằng “lời nói và hành động”, cho mọi người, không trừ một ai.”
Giữa lòng thời đại hôm nay, dân Chúa là chúng con đây còn mong chờ các ngôn sứ lên tiếng cụ thể hơn. Chúa Giêsu rao giảng không chỉ cho “con cái nhà Israel” mà cả cho những kẻ đứng trên đầu dân lúc đó. Nhưng khi rao giảng cho những người không có thiện chí, Chúa dùng lời mạnh mẽ thẳng thắn gọi họ là “những mồ mả tô vôi” (Mt.23,27).
Giáo dân chúng con cần những ngôn sứ dám nhìn vào vấn đề của thời đại. Trong lịch sử Israel, các ngôn sứ xuất hiện đúng lúc để cảnh báo con người và xã hội khi có bất công và khi Lời Thiên Chúa bị chối từ. Xã hội thời nào cũng có nhiều phe nhóm chống đối nhau, nhưng xét cho cùng thì có hai phe mạnh mẽ nhất: phe bảo vệ công lý và phe chà đạp công lý. Ngôn sứ lên tiếng không cần phải âu lo là mình phải đứng về phe nào hay phe nào lôi kéo, vì chắc chắn các ngài phải đứng về phía công lý.
Đọc “Sứ điệp Công Hội Tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam” nhiệm kỳ 2008-2011, chúng con thấy ngay Giáo Hội đã chọn chỗ đứng là bên cạnh người nghèo và người bị áp bức. Và đó chính là chỗ đứng mà các sứ ngôn thời Cựu Ước cho tới Thánh Gioan Tiền Hô và vị Đại Ngôn Sứ Giêsu đã chọn đứng.
Cho nên, khi vị mục tử nói: “Trước sự phức tạp của tình hình thế giới, trước những thế lực giằng co chống đối nhau luôn muốn lôi kéo chúng tôi về phía họ, chúng tôi phải làm gì, nói gì? Điều đó là một gánh nặng rất lớn, là một vấn đề không đơn giản chút nào.” thì chúng con đã thấy câu trả lời vì vấn đề cực kỳ đơn giản. Các ngài chỉ cần đứng về phía người nghèo, người cô thế và người bị áp bức.
Chúng con cần lắng nghe những lời ngôn sứ mang tính dự báo. Các ngôn sứ còn được gọi là các tiên tri vì các ngài thường cảnh báo những điều sẽ xảy ra cho cộng đồng Israel và cho xã hội trần thế. Giáo Hội Việt nam, với kinh nghiệm và tầm nhìn khôn ngoan, với sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, có đủ khả năng và thẩm quyền để đưa ra các dự báo để hướng dẫn dân Chúa.
Một đoàn lữ hành cần biết mình sẽ đi theo hướng nào, cần xử lý tình huống trên lộ trình như thế nào. Với sứ mạng mục tử, Giáo Hội sẽ cho chúng con những dự báo chính xác, kịp thời và gần gũi với cuộc đời chúng con.
Chúng con cũng cần những ngôn sứ giải quyết các vấn đề thời đại bằng Lời Thiên Chúa. Khi xã hội dân sự có những lỗ hổng, những trắc trở, những vấp váp, chắc chắn Giáo Hội có các giải pháp khôn ngoan và phù hợp phát xuất từ sức mạnh của Lời Thiên Chúa. Chúng con ước ao Giáo Hội nói lên tiếng nói của mình mà không sợ bất cứ xét đoán hay kết án nào ngoài sự phán quyết công minh của Thiên Chúa là Chúa công lý và bình an.
Thiên Chúa quan phòng khôn ngoan vô cùng đã nhìn thấy những vấn đề nảy sinh cho con người của từng thời đại, và Lời Ngài đưa ra những giải pháp tốt đẹp. Người có thẩm quyền giải thích Lời Chúa cho từng hoàn cảnh cụ thể và cho từng mảnh đời là Giáo Hội. Chúng con tha thiết muốn lắng nghe tiếng nói của Giáo Hội, phản ánh Lời Thiên Chúa chứ không theo chỉ thị của lời nào không phải là Lời ban sự sống.
Học Thuyết Xã Hội Công Giáo dạy rằng: “Giáo Hội không thể giữ thái độ thờ ơ đối với các vấn đề xã hội” (x.Tông huấn Evangelii Nuntiandi, Đức Thánh Cha Phaolô VI), “Giáo Hội có quyền rao giảng những nguyên tắc luân lý mọi nơi mọi lúc, bao gồm cả những nguyên tắc có liên quan tới trật tự xã hội, và có quyền đưa ra các lời phê phán về bất cứ việc làm nào của con người chừng nào các quyền căn bản của con người hay việc cứu độ các linh hồn đòi hỏi” (Giáo Luật điều 747).
Sắc lệnh Tông Đồ Giáo Dân dạy chúng con phải có sứ mệnh phải kiến tạo, hoàn hảo hóa thế giới sao cho nó trở nên hấp dẫn đối với mọi người và thích hợp với ý định của Thiên Chúa. Chúng con chỉ có thể thực thi mệnh lệnh này khi các vị mục tử tiên phong khai mở và dẫn đường
Chúng con thật sự hãnh diện và an tâm khi biết nhiều Giám mục Việt nam đang rất can đảm và sẵn sàng lên tiếng bảo vệ công lý và quyền lợi của đoàn chiên. Chẳng hạn, Đức Tổng Giám Mục Giuse Ngô Quang Kiệt, thần tượng của giới trẻ Công giáo, là sức mạnh cho niềm tin chúng con. Bây giờ khi ngài nói: “dù 2000 năm qua bao thế lực đen tối không ngừng gào thét, rung chuyển để mong phá hủy, nhưng trên nền tảng của ngài, tòa nhà Giáo Hội vẫn luôn đứng vững” thì chúng con càng thêm vững tin biết bao. Ước mong Giáo Hội Việt nam luôn là thành trì vững chắc của Thiên Chúa để chúng con trú ẩn.
Sàigòn, những ngày hướng về Đại Hội Dân Chúa và hướng về HĐGMVN ad limina.
Gioan Lê Quang Vinh