Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng

BBT CGVN YouTube
Thánh Kinh Công Giáo
Cầu nguyện bằng email
Hội Đồng Giám Mục VN
Liên Lạc

Văn Kiện Vatican 2

Lectio divina

Suy Niệm & Cầu Nguyện

Học Hỏi Kinh Thánh

Lớp KT Sr Cảnh Tuyết

Nova Vulgata

Sách Bài Đọc UBPT

LỜI CHÚA LÀ ÁNH SÁNG

GH. Đồng Trách Nhiệm

TAN TRONG ĐẠI DƯƠNG

Video Giảng Lời Chúa

Giáo Huấn Xã Hội CG

Tuần Tin HĐGMVN

Vụn Vặt Suy Tư

Giáo Sĩ Việt Nam

ThăngTiến GiáoDân

Bản Tin Công Giáo VN.

Chứng Nhân Chúa Kitô

Thánh Vịnh Đáp Ca

Phúc Âm Nhật Ký

Tin Vui Thời Điểm

Tin Tức & Sự Kiện

Văn Hóa Xã Hội

Thi Ca Công Giáo

Tâm Lý Giáo Dục

Mục Vụ Gia Đình

Tư Liệu Giáo Hội

Câu Chuyện Thầy Lang

Slideshow-Audio-Video

Chuyện Phiếm Gã Siêu

Các Tác Giả
  Augustinô Đan Quang Tâm
  Đinh Văn Tiến Hùng
  Ban Biên Tập CGVN
  Bác sĩ Ng Tiến Cảnh, MD.
  Bác Sĩ Nguyễn Ý-Đức, MD.
  Bùi Nghiệp, Saigon
  Bosco Thiện-Bản
  Br. Giuse Trần Ngọc Huấn
  Cursillista Inhaxiô Đặng Phúc Minh
  Dã Quỳ
  Dã Tràng Cát
  Elisabeth Nguyễn
  Emmanuel Đinh Quang Bàn
  Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB.
  EYMARD An Mai Đỗ O.Cist.
  Fr. Francis Quảng Trần C.Ss.R
  Fr. Huynhquảng
  Francis Assisi Lê Đình Bảng
  Gia Đình Lectio Divina
  Gioan Lê Quang Vinh
  Giuse Maria Định
  Gm Phêrô Huỳnh Văn Hai
  Gm. Giuse Đinh Đức Đạo
  Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
  Gm. JB. Bùi Tuần
  Gm. Nguyễn Thái Hợp, op
  Gm. Phêrô Nguyễn Khảm
  Gs. Đỗ Hữu Nghiêm
  Gs. Ben. Đỗ Quang Vinh
  Gs. Lê Xuân Hy, Ph.D.
  Gs. Nguyễn Đăng Trúc
  Gs. Nguyễn Văn Thành
  Gs. Phan Văn Phước
  Gs. Trần Duy Nhiên
  Gs. Trần Văn Cảnh
  Gs. Trần Văn Toàn
  Hạt Bụi Tro
  Hồng Hương
  Hiền Lâm
  Hoàng Thị Đáo Tiệp
  Huệ Minh
  HY. Nguyễn Văn Thuận
  HY. Phạm Minh Mẫn
  JB. Lê Đình Nam
  JB. Nguyễn Hữu Vinh
  JB. Nguyễn Quốc Tuấn
  Jerome Nguyễn Văn Nội
  Jorathe Nắng Tím
  Jos. Hoàng Mạnh Hùng
  Jos. Lê Công Thượng
  Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
  Joseph Vũ
  Khang Nguyễn
  Lê Thiên
  Lm Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, HKK
  Lm Đaminh Hương Quất
  Lm. Anmai, C.Ss.R.
  Lm. Anphong Ng Công Minh, OFM.
  Lm. Anrê Đỗ Xuân Quế op.
  Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
  Lm. Đan Vinh, HHTM
  Lm. Đỗ Vân Lực, op.
  Lm. G.Trần Đức Anh OP.
  Lm. GB. Trương Thành Công
  Lm. Giacôbê Tạ Chúc
  Lm. Gioan Hà Trần
  Lm. Giuse Hoàng Kim Đại
  Lm. Giuse Lê Công Đức
  Lm. Giuse Ngô Mạnh Điệp
  Lm. Giuse Trần Đình Thụy
  Lm. Giuse Vũ Thái Hòa
  Lm. Inhaxio Trần Ngà
  Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
  Lm. JB Trần Hữu Hạnh fsf.
  Lm. JB. Bùi Ngọc Điệp
  Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh
  Lm. Jos Đồng Đăng
  Lm. Jos Cao Phương Kỷ
  Lm. Jos Hoàng Kim Toan
  Lm. Jos Lê Minh Thông, OP
  Lm. Jos Nguyễn Văn Nghĩa
  Lm. Jos Phan Quang Trí, O.Carm.
  Lm. Jos Phạm Ngọc Ngôn
  Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
  Lm. Jos Trần Đình Long sss
  Lm. Jos.Tuấn Việt,O.Carm
  Lm. Lê Quang Uy, DCCT
  Lm. Lê Văn Quảng Psy.D.
  Lm. Linh Tiến Khải
  Lm. Martin Ng Thanh Tuyền, OP.
  Lm. Minh Anh, TGP. Huế
  Lm. Montfort Phạm Quốc Huyên O. Cist.
  Lm. Ng Công Đoan, SJ
  Lm. Ng Ngọc Thế, SJ.
  Lm. Ngô Tôn Huấn, Doctor of Ministry
  Lm. Nguyễn Hữu An
  Lm. Nguyễn Thành Long
  Lm. Nguyễn Văn Hinh (D.Min)
  Lm. Pascal Ng Ngọc Tỉnh
  Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn
  Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
  Lm. Phạm Văn Tuấn
  Lm. Phạm Vinh Sơn
  Lm. PX. Ng Hùng Oánh
  Lm. Raph. Amore Nguyễn
  Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ
  Lm. Tôma Nguyễn V Hiệp
  Lm. Trần Đức Phương
  Lm. Trần Mạnh Hùng, STD
  Lm. Trần Minh Huy, pss
  Lm. Trần Việt Hùng
  Lm. Trần Xuân Sang, SVD
  Lm. TTT. Võ Tá Khánh
  Lm. Vũ Khởi Phụng
  Lm. Vĩnh Sang, DCCT
  Lm. Vinh Sơn, scj
  Luật sư Đoàn Thanh Liêm
  Luật sư Ng Công Bình
  Mẩu Bút Chì
  Mặc Trầm Cung
  Micae Bùi Thành Châu
  Minh Tâm
  Nữ tu Maria Hồng Hà CMR
  Nguyễn Thụ Nhân
  Nguyễn Văn Nghệ
  Người Giồng Trôm
  Nhà Văn Hương Vĩnh
  Nhà văn Quyên Di
  Nhà Văn Trần Đình Ngọc
  Nhạc Sĩ Alpha Linh
  Nhạc Sĩ Phạm Trung
  Nhạc Sĩ Văn Duy Tùng
  Phaolô Phạm Xuân Khôi
  Phêrô Phạm Văn Trung
  Phó tế Giuse Ng Xuân Văn
  Phó tế JB. Nguyễn Định
  Phùng Văn Phụng
  Phạm Hương Sơn
  Phạm Minh-Tâm
  PM. Cao Huy Hoàng
  Sandy Vũ
  Sr. Agnès Cảnh Tuyết, OP
  Sr. M.G. Võ Thị Sương
  Sr. Minh Thùy, OP.
  Têrêsa Ngọc Nga
  Tín Thác
  TGM. Jos Ngô Quang Kiệt
  TGM. Phaolô Bùi Văn Đọc
  Thanh Tâm
  thanhlinh.net
  Thi sĩ Vincent Mai Văn Phấn
  Thiên Phong
  Thy Khánh
  Thơ Hoàng Quang
  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập
  Tiến Sĩ Tâm Lý Trần Mỹ Duyệt
  Tiến Sĩ Trần Xuân Thời
  Trầm Tĩnh Nguyện
  Trầm Thiên Thu
  Trần Hiếu, San Jose
  Vũ Hưu Dưỡng
  Vũ Sinh Hiên
  Xuân Ly Băng
  Xuân Thái
Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
  Giáo Sĩ Việt Nam
ĐỜI SỐNG ĐỘC THÂN TRONG ƠN GỌI TẬN HIẾN (CHỨNG TỪ ƠN GỌI, BÀI 5):

Paris. Chủ nhật 19.04.2009, tại Giáo Xứ Việt Nam, chị Marie Đào Kim Phượng (1), giáo dân tận hiến « Nữ Trợ tá tông đổ », nói chuyện với cộng đoàn về đề tài : « Đời sống độc thân trong ơn gọi tận hiến ».

Đây là đề tài học hỏi thứ năm trong chương trình « chứng từ ơn gọi », được thực hiện vào mỗi chủ nhật thứ hai mỗi tháng, trong « Năm cầu cho ơn gọi 2009 » tại GXVN Paris. Chứng từ ơn gọi, bài 1, đã được cha Nguyễn Bình chia sẻ vào chủ nhật 14.12.08 về vấn đề «Làm sao biết Chúa gọi mình» ? Bài 2, đã được cha Phan Tấn Khánh chia sẻ vào chủ nhật 11.01.2009 về đề tài « Tự do trong đời sống tận hiến ». Bài 3, đã được chị Maria Vũ Thị Minh chia sẻ vào chủ nhật 08.02.2009 về đề tài « Đời sống siêu nhiên của người tận hiến ». Bài 4, đã được thầy Nguyễn Quốc Tuấn, Dòng Tên, chia sẻ vào chủ nhật 15.0302009 về đề tài : « Vấn đề tiền bạc trong đời sống tận hiến ».

Mời bạn đọc trước hết nghe chứng từ ơn gọi của chị Marie Đào Kim Phương, rồi sau đó tìm hiểu đôi chút về đời sống giáo dân tận hiến “Nữ Trợ tá tông đồ », đời sống mà chị Phượng đã quyết định dấn thân một cách dứt khoát 27 năm qua, từ 1982.

 

Đời sống độc thân trong ơn gọi tận hiến

Sau Phúc Âm, theo lời mời của Đức Ông Mai Đức Vinh, chị Marie Đào Kim Phượng lên chia sẻ với cộng đoàn về đề tài « Đời sống độc thân trong ơn gọi tận hiến ».

Chị Phượng nói : « Kính thưa Đức Ông, quí Cha, quí Thầy, quí ông bà, quí bác, quí anh chị và quí bạn trẻ,

Hình 1 : Chị Đào Kim Phượng

Vâng lời Đ. Ô. hôm nay con xin chia sẻ với cộng đoàn vài nét về sự độc thân trong đời sống tận hiến. Đời sống tận hiến ở đây bao gồm những người đi tu và những người giáo dân tận hiến.

Nhưng trước hết, tưởng cũng nên nói vài lời về hai chữ « độc thân » trong sự đối chiếu với đời sống lứa đôi (hay đời sống vợ chồng). Người Việt nam mình hay nói nôm na là : con người ta lớn lên, một là đi tu, hai là lập gia đình. Nhưng trong cách nói đó đôi khi có cái tiêu cực như : đi tu vì không lấy được ai, hay không tu được thì kiếm ai mà lấy. Nói như vậy thì cả hai đàng đều là không có tự do và không có hứng thú. Trong khi cả hai bậc sống đều là tốt đẹp cả và đều đáng cho người ta hâm mộ và đeo đuổi.

Thưa quí bác và quí anh chị ở đây, có ai trong chúng chẳng từng nghe hoặc nói : « cô này đẹp vậy mà đi tu, uổng quá » (làm như chỉ có những người xấu xí mới nên đi tu), hay bậc cha mẹ là người công giáo siêng năng đi nhà thờ, thấy một anh chàng thanh niên đẹp trai, học giỏi, có thể là bác sĩ, kỹ sư mà đi tu thì thay vì mừng cho Giáo Hội, lại tiếc thầm mình chưa kịp gả con gái. Hai câu chuyện trên đây không phải là chuyện tiếu lâm để giải sầu cho quí vị mà để nói lên phần nào cái nhìn không đúng đắn của một số người. 

Nói có sách mách có chứng, chúng ta thử lật xem Thánh Kinh nói gì về đời sống độc thân vì Nước Trời. Ngay những trang đầu Thánh Kinh, sau khi Thiên Chúa sáng tạo trời đất, chúng ta thấy : « Đức Chúa là Thiên Chúa phán : « Con người ở một mình thì không tốt, Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó. Đức Chúa là Thiên Chúa lấy đất nặn ra mọi dã thú… Con người đặt tên cho mọi súc vật, mọi chim trời và mọi dã thú, nhưng con người không tìm được một trợ tá tương xứng. .. Đức Chúa là Thiên Chúa lấy cái xương sườn đã rút từ con người ra, làm thành một người đàn bà và dẫn đến với con người. » (ST 2, 18-22). Vài câu sau đó chúng ta lại đọc thấy : « Thiên Chúa ban phúc lành cho họ, và TC phán với họ : « Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất ». » (ST 1,28). Rõ ràng con người phải lập gia đình thì mới sinh sôi nảy nở và làm đầy mặt đất.

Như vậy, vào thuở ban đầu con người ta có nam, có nữ, có vợ, có chồng, có con có cái. Thế thì hôm nay tại sao trong Giáo Hội lại có những người sống độc thân tận hiến ?

Nhân năm nay là Năm Thánh Phaolô, chúng ta hãy thử tham khảo các thư của ngài xem ý kiến và những lời khuyên dạy của vị thánh tông đồ này ra sao.

1Co 7 :  « 1Bây giờ, tôi đề cập tới những điều anh em đã viết cho tôi : đàn ông không gần đàn bà là điều tốt. Nhưng để tránh hiểm họa dâm ô, thì mỗi người hãy có vợ có chồng. 2 Với những người độc thân và quả phụ, tôi nói thế này : họ cứ ở vậy như tôi thì tốt cho họ. Nếu không tiết dục được, họ cứ kết hôn, vì thà kết hôn còn hơn bị thiêu đốt… »

25 « Về vấn đề độc thân, tôi không có chỉ thị nào của Chúa, nhưng tôi chỉ khuyên nhủ anh em với tư cách là người - nhờ Chúa thương – đáng được anh em tín nhiệm. 26 Vậy tôi nghĩ rằng : vì những nỗi thống khổ hiện tại, ở vậy là điều tốt. Phải, tôi nghĩ rằng đối với người ta, như thế là tốt. 27 Bạn đã kết hôn với người đàn bà ư ? Đừng tìm cách gỡ ra. Bạn chưa kết hôn với người đàn bà ư ? Đừng lo kiếm vợ. 28 Nhưng nếu bạn cưới vợ, thì cũng chẳng có tội gì. Và nếu người con gái lấy chồng, thì cũng chẳng có tội gì…. »

32 « Tôi muốn anh chị em không phải bận tâm lo lắng điều gì. Đàn ông không có vợ thì chuyên lo việc Chúa : họ tìm cách làm đẹp lòng Người. 33 Còn người có vợ thì lo lắng việc đời : họ tìm cách làm đẹp lòng vợ, 34 thế là họ bị chia đôi. Cũng vậy, đàn bà không có chồng và người trinh nữ thì chuyên lo việc Chúa, để thuộc trọn về Người cả hồn lẫn xác. Còn người có chồng thì lo lắng việc đời : họ tìm cách làm đẹp lòng chồng ».

Nhưng đời sống độc thân ở đời này - ở trần gian này - đối với con người bằng xương, bằng thịt như chúng ta là một dấu hỏi lớn, nếu không nói là một ngờ vực, đối với những người đi tu. Làm sao để sống độc thân ? Nói trắng ra là làm sao để sống một mình trong sự thiếu vắng « một bóng người » (hay một « bóng hồng ») ? Trái tim của người muốn sống đời tận hiến cũng tiềm tàng tình phụ tử hay tình mẫu tử. Làm sao để khỏa lấp cái trống vắng quá lớn đó ? Khi người ta ví vợ hay chồng mình là « một nửa của tôi » (ma moitié), vậy thì người độc thân tận hiến là một sự « bất toàn » hay sao ? Cái giá phải trả có quá đắt không ?

Đây có thể là một sự lo lắng của cha mẹ có con muốn đi tu và cũng có thể là một đắn đo của chính đương sự. Sự đắn đo, suy nghĩ này rất chính đáng và cần thiết vì con người đó là một con người bình thường chứ chưa là thiên thần. Người tận hiến không phải là người không có tình cảm, không có rung cảm, không có trái tim, không biết yêu thương hay không cần được yêu thương. Và dĩ nhiên là trong mỗi bậc sống đều có Ơn Chúa, nhưng Ơn Chúa không miễn cho con nguời sự suy nghĩ, cân nhắc trước khi đi đến quyết định chọn đời sống « một mình » trong tự doý thức – ý thức từ khước Tình Yêu con người và một mái ấm gia đình.

Vâng, người quyết định chọn đời sống tận hiến là người chọn « đời sống một mình » (solo) nhưng chữ « một mình » này không đồng nghĩa với « cô đơn trường kỳ ». Cái đời sống không có « bóng hồng » (hay « hoàng tử của lòng em ») mà tôi vừa nêu trên đây có một « khoảng trống đợi chờ » nhưng đợi chờ được một Tình Yêu bao la của Thiên Chúa lấp đầy. Nó là một thửa đất mà Thiên Chúa sẽ làm nên mầu mỡ, sinh hoa kết trái ra những đứa con tinh thần thay cho những đứa con xác thịt mà họ không thể có.  Đời sống độc thân trong ơn gọi tận hiến không phải là một gò bó, ràng buộc, thiếu thốn mà là một khả năng yêu thương rộng mở, sẵn sàng, để họ không thuộc về riêng ai nhưng thuộc về tất cả, vì Chúa và với Ơn Chúa. Không có Ơn Chúa thì việc đó thật là ngoài sức con người.

Trong đức tin Công giáo, chúng ta tin là con người từ Thiên Chúa mà đến và ơn gọi của con người là trở về với Thiên Chúa. Cuộc đời của con người ở trần thế chỉ là một cuộc hành hương tiến về Nước Trời nơi con người sẽ được chia sẻ đời sống viên mãn và vĩnh cửu là hạnh phúc đời đời với Thiên Chúa. Đó là cùng đích và hy vọng của nhân loại. Nơi đó không còn là nơi « dựng vợ, gả chồng » nữa.

Và đời sống độc thân tận hiến là một tiên báo, một dấu chỉ cho cuộc sống đó. Thiên Chúa sẽ là tất cả cho tất cả. Giáo Hội quả quyết đời sống độc thân tận hiến là một ơn Chúa ban cho Giáo Hội và cho nhân loại. Người độc thân tận hiến không những sẽ hoàn toàn thuộc về Chúa ở đời sau mà ngay từ đời này. Amen.

Đào-Kim-Phượng

Giáo xứ VN Paris, 19-04-2009

 

LỜI KẾT 

Giáo hội Việt Nam đang hồ hởi chuẩn bị cử hành NĂM THÁNH 2010, kỷ niệm 50 năm thiết lập Hàng Giáo Phẩm Chính Tòa Việt Nam (1960-2010). 50 năm đầy hồng ân Chúa, nhưng cũng là 50 năm mà công việc tông đồ truyền giáo có chiều không tăng mà lại giảm. Phải chăng đây là dịp để giáo sĩ và giáo dân việt nam nhìn lại để dấn thân hơn và hữu hiệu hơn trong công việc tông đồ ? Phải chăng đây là lý do thức đẩy các giám mục lưu tâm nhiều hơn đến việc truyền giáo ? thúc đẩy các giáo dân dấn thân hơn để trợ giúp các giám mục trong việc tông đồ ?

Năm 1533, Theo « Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục », vào tháng 3 năm Nguyên Hoà thứ I (1533), một người Âu Châu tên là Inêkhu lén đến truyền giáo ở làng Ninh Cường, huyện Nam Chân và làng Trà Lũ, huyện Giao Thuỷ thuộc giáo phận Bùi Chu, tỉnh Nam Định ngày nay (2). Năm 1533 được các nhà làm sử Giáo Hội Công Giáo Việt Nam coi là năm đầu tiên Công Giáo đi vào xã hội Việt Nam, mở đầu cho thời kỳ gọi là BẢO HỘ, 1533-1659. Kết quả, nhờ sự giảng đạo của các cha Đaminh, Phanxicô và nhất là Dòng Tên, đặc biệt là cha Đắc Lộ, vào năm 1659, Giáo Hội Việt Nam, chưa có giám mục, linh mục, tu sĩ, chủng sinh, nhưng có khoảng 100.000  tín hữu, 20.000 trong Nam và 80.000 ngoài Bắc  (3) , với 265 nhà thờ (4). Cùng với các thừa sai khác, cha Đắc Lộ đã khai sinh ra Chữ Quốc Ngữ.

Ngày 09.09.1659 ÐTC Alexandre VII ban sắc lệnh thiết lập 2 giáo phận truyền giáo đầu tiên tại Việt Nam : ÐC François Pallu được bổ nhiệm làm Giám Quản Tông Tòa Đàng Ngòai, thêm quyền cai quản  5 tỉnh Vân Nam, Quí Châu, Hồ Nam, Hồ Bắc và Tứ Xuyên của Trung Quốc và nước Lào ; và ÐC Pierre Lambert de la Motte được bổ nhiệm làm Giám Quản Tông Tòa Đàng Trong, thêm quyền cai quản các tỉnh Chiết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây và Đảo Hải Nam của Trung Quốc và gồm luôn cả Chiêm Thành. Từ đây, ngày 09.09.1659 được coi là ngày mở đầu cho thời kỳ thứ hai trong lịch sử truyền giáo ở Việt Nam : thời kỳ TÔNG TÒA (5). Kết quả là 300 năm sau, vào năm 1960, Giáo hội Việt Nam có 17 giáo phận, có 130.000 người tử vì đạo, trong đó 117 vị đã được Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II Tuyên Phong Hiển Thánh tại Rôma ngày 19/06/1988, có 23 giám mục, 1.914 linh mục, 5.789 tu sĩ, 1.530 đại và tiểu chủng sinh, có 2.096.540 tín hữu, trên tổng số 29.200.000 dân, chiếm tỷ số 7.17% dân số (6). Số giáo hữu tăng gấp 21 lần. Giáo Hội, dẫu không ngừng bị bách hại bởi chính quyền, đã tạo ra một nền văn học quốc ngữ mới cho Việt Nam, đã tham gia tích cực vào việc xây dựng và cải tiến văn hóa, giáo dục và xã hội cho Việt Nam.

Ngày 24-11-1960, Đức Thánh Cha Gioan XXIII thành lập Hàng Giáo phẩm Việt Nam; các giáo phận hiệu toà trở thành CHÍNH TÒA với 3 toà Tổng giám mục ở Hà Nội, Huế và Sài Gòn. Thành lập thêm ba giáo phận Đà Lạt, Mỹ Tho và Long Xuyên trong giáo tỉnh Sài Gòn. Số các giáo phận tăng lên thành 20 : 10 ở giáo tỉnh Hà Nội, 4 ở giáo tỉnh Huế và 6 ở giáo tỉnh Sài Gòn. Sau 50 năm Chính Tòa (1960-2010), « Tính đến 31-12-2007, Giáo hội Công giáo Việt Nam có 26 giáo phận : 10 ở Giáo tỉnh Hà Nội, 6 ở Giáo tỉnh Huế và 10 ở Giáo Tỉnh TP-HCM, 2 Hồng y, 2 Tổng Giám mục, 38 giám mục, 3.510 linh mục, 14.968 tu sĩ nam nữ, 6.087.659 tín hữu trên tổng số 85.154.900 người, chiếm 7,15% dân số. Trong gần 50 năm qua, GHCGVN đã có thêm 6 giáo phận mới, số tín hữu tăng gấp 3, số linh mục tu sĩ tăng gấp đôi » (7). Nhưng tỷ số sút 0.02%. Đây là một vấn đề lớn mà Giáo Hội Việt Nam hôm nay phải đặt ra cho mình. Kết quả truyền giáo chẳng những không tăng, mà còn giảm, tại sao ? 

Paris, ngày 26 tháng 04 năm 2009

Trần Văn Cảnh

 Chú thích 

(1). Chị Marie Đào Kim Phượng là thứ hai trong một gia đình tin lành, có 7 chị em. Từ tấm bé, được đào tạo trong tinh thần tông đồ, chị đã muốn hiến đời mình làm thừa sai. Sang Pháp từ 1975, gia đình chị cư ngụ gần Toulouse. Sau tú tài, chị học chuyên về vi tính. Tốt nghiệp năm 1981, chị làm việc ở Lộ Đức. Ở đây, chị được dịp tham dự Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế năm 1981, được quen biết các chị Nữ Trợ Tá Tông Đồ và được dịp gặp một linh mục, trao đổi và học đạo với ngài. Chị đã trở lại đạo công giáo và lãnh bí tích thêm sức năm 1982. Đầu niên học 1982,  chị lên Paris và bắt đầu giai đoạn giai đoạn đào tạo Nữ Trợ tá Tông Đồ. Tính đến nay, 2009, chị đã là Nữ Trợ Tá Tông Đồ được 27 năm. 

Sống ở Paris, chị tham gia vào nhiều sinh hoạt của Giáo Xứ Việt Nam. Không kể những sinh hoạt cơ bản trong các đoàn, ban, nhóm công giáo tiến hành, chị Đào Kim Phương đặc biệt tận tâm trong việc giáo dục thanh thiếu niên và dậy giáo lý cho họ cũng như đã đảm trách lớp đào tạo giáo lý viên tại GXVNP (2006-2008).

Chị cũng rất hăng hái tham dự Hội Đồng Mục Vụ của Giáo Xứ, trong nhiều chức vụ khác nhau :

·         Phó thủ quĩ 1987-1990,

·         Phó chủ tịch, đặc trách văn hóa và tuổi trẻ 1990-1994,

·         Tổng thơ ký 1994-1997

·         Phó Chủ Tịch 2001-2003, 2008-

 

(2). Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, q. XXXIII, tập II, tr.301, Viện Sử học, NXB Giáo dục 1998

(3) HĐGMVN, Giáo hội Công giáo Việt Nam, Niên giám 2004, tr. 189

(4) Đỗ Quang Chính, Lịch sử chữ quốc ngữ, Sài Gòn : Đường mới, 1972, tr. 129

(5) Trần Văn Cảnh,

 http://www.conggiaovietnam.net/index.php?m=module2&v=detailarticle&id=13&ia=641

(6) HĐGMVN, sđd, tr. 199

(7) Lm Nguyễn Ngọc Sơn  http://www.vietcatholic.org/News/Clients/ReadArticle.aspx?ID=65180

 

Tác giả:  Gs. Trần Văn Cảnh

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!