Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng

BBT CGVN YouTube
Thánh Kinh Công Giáo
Cầu nguyện bằng email
Hội Đồng Giám Mục VN
Liên Lạc

Văn Kiện Vatican 2

Lectio divina

Suy Niệm & Cầu Nguyện

Học Hỏi Kinh Thánh

Lớp KT Sr Cảnh Tuyết

Nova Vulgata

Sách Bài Đọc UBPT

LỜI CHÚA LÀ ÁNH SÁNG

GH. Đồng Trách Nhiệm

TAN TRONG ĐẠI DƯƠNG

Video Giảng Lời Chúa

Giáo Huấn Xã Hội CG

Tuần Tin HĐGMVN

Vụn Vặt Suy Tư

Giáo Sĩ Việt Nam

ThăngTiến GiáoDân

Bản Tin Công Giáo VN.

Chứng Nhân Chúa Kitô

Thánh Vịnh Đáp Ca

Phúc Âm Nhật Ký

Tin Vui Thời Điểm

Tin Tức & Sự Kiện

Văn Hóa Xã Hội

Thi Ca Công Giáo

Tâm Lý Giáo Dục

Mục Vụ Gia Đình

Tư Liệu Giáo Hội

Câu Chuyện Thầy Lang

Slideshow-Audio-Video

Chuyện Phiếm Gã Siêu

Các Tác Giả
  Augustinô Đan Quang Tâm
  Ban Biên Tập CGVN
  Bác sĩ Ng Tiến Cảnh, MD.
  Bác Sĩ Nguyễn Ý-Đức, MD.
  Bùi Nghiệp, Saigon
  Bosco Thiện-Bản
  Br. Giuse Trần Ngọc Huấn
  Cursillista Inhaxiô Đặng Phúc Minh
  Dã Quỳ
  Dã Tràng Cát
  Elisabeth Nguyễn
  Emmanuel Đinh Quang Bàn
  Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB.
  EYMARD An Mai Đỗ O.Cist.
  Fr. Francis Quảng Trần C.Ss.R
  Fr. Huynhquảng
  Francis Assisi Lê Đình Bảng
  Gia Đình Lectio Divina
  Gioan Lê Quang Vinh
  Giuse Maria Định
  Gm Phêrô Huỳnh Văn Hai
  Gm. Giuse Đinh Đức Đạo
  Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
  Gm. JB. Bùi Tuần
  Gm. Nguyễn Thái Hợp, op
  Gm. Phêrô Nguyễn Khảm
  Gs. Đỗ Hữu Nghiêm
  Gs. Ben. Đỗ Quang Vinh
  Gs. Lê Xuân Hy, Ph.D.
  Gs. Nguyễn Đăng Trúc
  Gs. Nguyễn Văn Thành
  Gs. Phan Văn Phước
  Gs. Trần Duy Nhiên
  Gs. Trần Văn Cảnh
  Gs. Trần Văn Toàn
  Hạt Bụi Tro
  Hồng Hương
  Hiền Lâm
  Hoàng Thị Đáo Tiệp
  Huệ Minh
  HY. Nguyễn Văn Thuận
  HY. Phạm Minh Mẫn
  JB. Lê Đình Nam
  JB. Nguyễn Hữu Vinh
  JB. Nguyễn Quốc Tuấn
  Jerome Nguyễn Văn Nội
  Jorathe Nắng Tím
  Jos. Hoàng Mạnh Hùng
  Jos. Lê Công Thượng
  Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
  Joseph Vũ
  Khang Nguyễn
  Lê Thiên
  Lm Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, HKK
  Lm Đaminh Hương Quất
  Lm. Anmai, C.Ss.R.
  Lm. Anphong Ng Công Minh, OFM.
  Lm. Anrê Đỗ Xuân Quế op.
  Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
  Lm. Đan Vinh, HHTM
  Lm. Đỗ Vân Lực, op.
  Lm. G.Trần Đức Anh OP.
  Lm. GB. Trương Thành Công
  Lm. Giacôbê Tạ Chúc
  Lm. Gioan Hà Trần
  Lm. Giuse Hoàng Kim Đại
  Lm. Giuse Lê Công Đức
  Lm. Giuse Ngô Mạnh Điệp
  Lm. Giuse Trần Đình Thụy
  Lm. Giuse Vũ Thái Hòa
  Lm. Inhaxio Trần Ngà
  Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
  Lm. JB Trần Hữu Hạnh fsf.
  Lm. JB. Bùi Ngọc Điệp
  Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh
  Lm. Jos Đồng Đăng
  Lm. Jos Cao Phương Kỷ
  Lm. Jos Hoàng Kim Toan
  Lm. Jos Lê Minh Thông, OP
  Lm. Jos Nguyễn Văn Nghĩa
  Lm. Jos Phan Quang Trí, O.Carm.
  Lm. Jos Phạm Ngọc Ngôn
  Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
  Lm. Jos Trần Đình Long sss
  Lm. Jos.Tuấn Việt,O.Carm
  Lm. Lê Quang Uy, DCCT
  Lm. Lê Văn Quảng Psy.D.
  Lm. Linh Tiến Khải
  Lm. Martin Ng Thanh Tuyền, OP.
  Lm. Minh Anh, TGP. Huế
  Lm. Montfort Phạm Quốc Huyên O. Cist.
  Lm. Ng Công Đoan, SJ
  Lm. Ng Ngọc Thế, SJ.
  Lm. Ngô Tôn Huấn, Doctor of Ministry
  Lm. Nguyễn Hữu An
  Lm. Nguyễn Thành Long
  Lm. Nguyễn Văn Hinh (D.Min)
  Lm. Pascal Ng Ngọc Tỉnh
  Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn
  Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
  Lm. Phạm Văn Tuấn
  Lm. Phạm Vinh Sơn
  Lm. PX. Ng Hùng Oánh
  Lm. Raph. Amore Nguyễn
  Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ
  Lm. Tôma Nguyễn V Hiệp
  Lm. Trần Đức Phương
  Lm. Trần Mạnh Hùng, STD
  Lm. Trần Minh Huy, pss
  Lm. Trần Việt Hùng
  Lm. Trần Xuân Sang, SVD
  Lm. TTT. Võ Tá Khánh
  Lm. Vũ Khởi Phụng
  Lm. Vĩnh Sang, DCCT
  Lm. Vinh Sơn, scj
  Luật sư Đoàn Thanh Liêm
  Luật sư Ng Công Bình
  Mẩu Bút Chì
  Mặc Trầm Cung
  Micae Bùi Thành Châu
  Minh Tâm
  Nữ tu Maria Hồng Hà CMR
  Nguyễn Thụ Nhân
  Nguyễn Văn Nghệ
  Người Giồng Trôm
  Nhà Văn Hương Vĩnh
  Nhà văn Quyên Di
  Nhà Văn Trần Đình Ngọc
  Nhạc Sĩ Alpha Linh
  Nhạc Sĩ Phạm Trung
  Nhạc Sĩ Văn Duy Tùng
  Phaolô Phạm Xuân Khôi
  Phêrô Phạm Văn Trung
  Phó tế Giuse Ng Xuân Văn
  Phó tế JB. Nguyễn Định
  Phùng Văn Phụng
  Phạm Hương Sơn
  Phạm Minh-Tâm
  PM. Cao Huy Hoàng
  Sandy Vũ
  Sr. Agnès Cảnh Tuyết, OP
  Sr. M.G. Võ Thị Sương
  Sr. Minh Thùy, OP.
  Têrêsa Ngọc Nga
  Tín Thác
  TGM. Jos Ngô Quang Kiệt
  TGM. Phaolô Bùi Văn Đọc
  Thanh Tâm
  thanhlinh.net
  Thi sĩ Vincent Mai Văn Phấn
  Thiên Phong
  Thy Khánh
  Thơ Hoàng Quang
  Tiến Hùng
  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập
  Tiến Sĩ Tâm Lý Trần Mỹ Duyệt
  Tiến Sĩ Trần Xuân Thời
  Trầm Tĩnh Nguyện
  Trầm Thiên Thu
  Trần Hiếu, San Jose
  Vũ Hưu Dưỡng
  Vũ Sinh Hiên
  Xuân Ly Băng
  Xuân Thái
Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
  Tâm Lý Giáo Dục
HỌC LẠI MỘT LỐI NHÌN, NGHE LẠI VỚI VÀNH TAI XÔN XAO…

  

                         

Bài chia sẻ nầy sẽ lần lượt khảo sát những sinh hoạt «làm người» của chúng ta, trong năm lãnh vực chính yếu sau đây:

- Thực tế,

- Lối nhìn hay là quan điểm « làm người và thành người »,

- Đời sống xúc động.

- Ngôn ngữ,

- Những quan hệ trao đổi xã hội qua lại hai chiều giữa người nầy với người khác, bằng phương tiện ngôn ngữ có lời và ngôn ngữ không lời.

 

                                             ***

 

 

1.-Thực tế của tôi : Tôi thấy, tôi nghe, tôi quan sát

 

Thực tế là tất cả những gì tôi thấy, tôi nghe và tiếp cận với tay chân hay là làn da và thớ thịt của tôi.

Một người khác cùng chung sống và đang có mặt với tôi, từ một vị trí hay là ở một gốc độ khác, có thể ghi nhận một thực tế khác, hoàn toàn khác biệt, thậm chí mâu thuẫn với thực tế của tôi.

Chính vì lý do ấy, bao lâu hai người chưa trao đổi qua lại, chia sẽ, góp chung lại với nhau, với một thái độ lắng nghe và tôn trọng lẫn nhau, thực tế của tôi chưa thể nào xích lại gần với thực tế của người kia. 

Vấn đề trở nên phức tạp và phiền toái hơn nữa, khi mỗi người dựa vào những kinh nghiệm quá khứ hay là những dự phóng tương lai, để trình bày về những thực tế có liên hệ gần hoặc xa với mình.  

Ví dụ: Thực tế của Đất Nước Việt Nam, là gì một cách thực sự và khách quan, một đàng đối với một người ở lại trong Nước. Đàng khác, cũng một thực tế ấy là gì, đối với một người đã ra đi và đang sống ở Nước Ngoài? Nếu hai người có hai chính kiến hay là ở vào hai thế hệ, hoặc lớp tuổi khác nhau, sự cách biệt giữa hai loại thực tế của hai người ấy càng trở nên lớn lao hơn, có khi còn khai trừ và loại thải lẫn nhau.

Ba cơ chế sàng lọc (đến độ bóp méo, xuyên tạc)

Sau cùng, chúng ta dùng ngôn ngữ, để diễn tả thực tế được cưu mang trong nội tâm của mình.  Khi bộc lộ nội tâm như vậy, chúng ta không thể không sử dụng ba cơ chế hay là xu thế cần thiết và tất yếu, có mặt trong mọi ngôn ngữ, như: tổng quát hóa, gạn lọc và chủ quan hóa:

Tổng quát hóa có nghĩa là khởi phát từ hai hoặc ba nhận xét cụ thể, chúng ta nhảy vọt lên và đề xuất một kết luận có tính qui luật và thường hằng: Thực tế luôn luôn là như vậy, và phải tiếp tục như vậy, trong mọi trường hợp, đối với mọi người. 

Gạn lọc là xu thế chỉ chọn lựa những sự kiện cụ thể, thích hợp với hoàn cảnh và kinh nghiệm của bản thân tôi, và từ đó tôi cố tình loại trừ và kết án những gì đi ngược lại với những tin tưởng hoặc định kiến đã có mặt trong nội tâm của tôi. 

Chủ quan hóa là xu thế gán ghép hoặc áp đặt cho kẻ khác một ý nghĩa do tôi khám phá và đề xuất. Thực tế đối với tôi là như vậy, cho nên mọi người phải chấp nhận thực tế ấy, như là một hiển nhiên, không cần khảo sát thêm và kiểm chứng một cách dài dòng, phức tạp.

Hai Thái độ cần thiết : lắng nghe và tôn trọng

Khi ý thức một cách sáng suốt, đến ba cơ chế tâm lý nầy, luôn luôn có mặt trong ngôn ngữ và tác phong trao đổi hằng ngày, chúng ta sẽ cố quyết học tập hai thái độ, nhằm thăng tiến bản thân và tôn trọng tính người của mọi anh chị em đang có quan hệ với chúng ta.

 

 

2.- Tư Duy-         Môi trường hóa : Ai, khi nào, ở đâu, làm gì, bao lâu, với ai, thế nao…Mô tả với sự kiện khách quan,-        Thuyên giải bằng cách đưa ra giả thuyết,-        Rút tỉa Kết luận,-        Những bước thực hiện,-        Đánh giá kết quả : thành tựu hay thất bại.-   Cấp thứ năm là đánh giá kết quả cuối cùng, sau một thời gian thực hiện, bằng cách trở về đối chiếu với thực tế lúc ban đầu, để xác định đâu là thành quả khả quan và đâu là những tồn tại chưa được khắc phục. Nói cách khác, chúng ta thất bại, vì những cản trở nào?  Hay là chúng ta đã thành tựu, nhờ vào những năng động nào? Dựa vào cách đánh giá ấy, chúng ta sẽ thêm, bớt hay là chuyển hướng thế nào, trong bao nhiêu dự án sắp tới?

 

Sau khi ghi nhận thực tế với năm giác quan,  chúng ta sử dụng TƯ DUY, để tổ chức, khẳng định và trình bày LỐI NHÌN của mình. Lối nhìn, tùy theo cách dùng ngôn ngữ của mỗi tác giả, còn mang những tên gọi khác nhau như: ý kiến, quan điểm, lập trường hay là vũ trụ quan, thể thức nhìn đời. 

Năm cấp thang suy luận 

Nhằm phát huy và thao tác con đường tư duy một cách sáng suốt, có hệ thống và khoa học, chúng ta cần từ từ đi lên từng bước, theo năm cấp thang suy luận sau đây: 

 

- Cấp thứ nhất là thâu lượm, khảo sát và kiểm chứng các dữ kiện cụ thể và khách quan có liên hệ đến một vấn đề mà chúng ta muốn giải quyết.

 

- Cấp thứ hai là đề xuất một hay nhiều giả thuyết, nhằm khám phá ý nghĩa của thực tế hay là vấn đề mà chúng ta đang nhận diện và đối diện.

 

- Cấp thứ ba là chọn lựa một hướng đi, hay là mục đích tối hậu. Từ đó, chúng ta xác định đâu là ưu tiên số một - hay là mục tiêu quan trọng nhất - trong bao nhiêu dự phóng của chúng ta.

 

- Cấp thứ tư là chuyển biến mục đích tối hậu thành những hiện thực hay là những tác động cụ thể hằng ngày.

 

 

Hai động tác khác nhau

Trong cách dùng từ, để tránh những ngộ nhận đáng tiếc có thể xảy ra, chúng ta cần phân biệt hai động tác có ý nghĩa và phần vụ hoàn toàn khác nhau: 

Một bên là nhận định, đánh giá tác phong hay là hành vi của chúng ta và của người khác.

 

Bên kia là phê phán, xét đoán giá trị của con người, với một đoàn tùy tùng dài thòng lòng như tố cáo, loại trừ, chửi bới và tấn công...-        Mô tả một cách cụ thể và khách quan những điều được quan sát và ghi nhận,-        Gọi tên xúc động : giận, sợ, buồn,-        Khám phá nhu cầu cơ bản ở bên dưới xúc động,-        Yêu cầu kẻ khác thỏa mãn, thay vì đòi hỏi, ép buộc. -         Thứ nhất là TỨC GIẬN. Xúc động nầy có phần vụ nhấn mạnh rằng: «Tôi đang cần TỰ DO và tôi cần khẳng quyết quyền KHÁC BIỆT, đối với những người đang chung sống hai bên cạnh.-         Thứ hai là BUỒN PHIỀN. Sứ điệp của xúc động nầy là: «Tôi đang cần tạo lập những QUAN HỆ hài hòa và mới mẻ, với con người và sự vật đang bao quanh tôi».-         Thứ ba là LO SỢ. Xúc động nầy đang dùng ngôn ngữ không lời, để nhắn nhủ cho chính chúng ta rằng: «Tôi đang cần được sống trong bầu khí AN TOÀN. Xin đừng có ai đe dọa, tố cáo và kết án tôi».-        Xin,-        Cho,-        Nhận,-        Từ chối (nói Không)

Trong cuộc sống làm người, chúng ta không thể không nhận định và đánh giá công việc cũng như hành vi của mình và của người khác.

Một cách đặc biệt, khi có nhiệm vụ giáo dục và hướng dẫn ai, phải chăng công việc quan trọng bậc nhất của chúng ta là giúp cho người ấy càng ngày càng phát huy khả năng đánh giá tất cả những gì xảy ra trong cuộc đời, bắt đầu từ những gì họ nói và làm?

Đánh giá như vậy có nghĩa là xác định và phân biệt, theo những tiêu chuẩn đang được thịnh hành trong môi trường xã hội, văn hóa và giáo dục: cái gì đúng và cái gì sai, cái gì thích hợp và cái gì không thích hợp với đời sống và quan hệ xã hội… 

Tuy nhiên, khi làm công việc ấy, chúng ta cần ý thức một cách rõ ràng và sáng suốt: trong mọi hoàn cảnh, đánh giá công việc hay là tác phong của một người không phải là phê phán giá trị và bản sắc làm người của người ấy.

Sứ điệp TÔI để nói về mình,

Không nói thay nói thế,

Không áp đặt với những động từ ra lệnh 

Cho nên, trên con đường đi tới của tư duy, một đàng với sứ điệp «TÔI», chúng ta khẳng định quan điểm và xác tín của mình. Đàng khác, chúng ta lắng nghe và tôn trọng người khác, cho phép họ diễn tả và trình bày ý kiến của mình, mặc dù đó là một trẻ em, đang ở vào lứa tuổi «học làm người». Trái lại, khi «nói THAY nói THẾ», hay là «cố tình áp đặt từ trên và từ ngoài» cho kẻ khác, một lối nhìn, một cách đơn phương và độc tài, với những động từ CẦN, PHẢI, NÊN… chúng ta chưa thực sự làm người. Đồng thời, chúng ta đang làm tổn thương giá trị làm người, hay là xói mòn lòng tự tin và khả năng học tập của người ấy.

3.- Xúc Động 

Tư duy, như vừa được nói tới trên đây, có phần vụ sáng soi và điều hướng chúng ta, trong mọi chương trình và kế hoạch hành động.

XÚC ĐỘNG, trái lại, là động cơ thúc đẩy chúng ta thực hiện và hoàn thành công việc, nhằm thỏa mãn mọi nhu cầu chính đáng và cơ bản trong cuộc sống làm người. Chính vì lý do đó, khi các nhu cầu làm người được đáp ứng và toại nguyện, chúng ta vui sướng, hạnh phúc và an bình.

Trong trường hợp ngược lại, những xúc động như sợ hãi, lo buồn và tức giận sẽ xuất hiện trong nội tâm, như một tiếng còi báo động nhằm đánh thức và thúc giục chúng ta «hãy diễn tả, chia sẻ và chuyển hóa tình huống hiện tại». Không được hóa giải như vậy, xúc động sẽ tràn ngập và khống chế tư duy, như một dòng thác lũ phá vỡ bờ đê và làm băng hoại mọi mùa màng trong những cánh đồng hai bên. 

Thêm vào đó, ở bên dưới mỗi xúc động đang làm cho nội tâm và nhất là các sinh hoạt bình thường của tư duy bị tê liệt, chúng ta hãy lắng nghe và khám phá một hay nhiều NHU CẦU của cuộc sống làm người. Hãy lắng nghe và nhìn nhận, một cách chân thành và cẩn trọng, những nhu cầu cơ bản ấy. Phải chăng đó là cách hóa giải hữu hiệu và cũng là con đường làm người cần được mỗi người học tập, tôi luyện trong suốt cuộc đời.  

Nếu chúng ta không đáp ứng, với những phương thức vừa được trình bày, xúc động sẽ trở thành BẠO ĐỘNG trong ngôn ngữ và hành vi. Ở cuối chặng đường thoái hóa, xúc động sẽ trở thành hận thù và chiến tranh.  

Con người lúc bấy giờ, sẽ biến thân thành muông thú đối với nhau, trong mọi quan hệ qua lại hai chiều, như “Tao hơn – mày thua, Tao tốt – mày xấu, Tao có lý – mày phi lý…”. Tắt một lời, “Mors tua, vita mea”, có nghĩa là “Mày phải chết, để cho tao sống, chúng ta không thể đội trời chung”. 

Trong khuôn khổ của bài chia sẻ nầy, tôi chỉ đề cập đến ba xúc động chính yếu sau đây mà thôi:

 

Khi cả ba nhu cầu cơ bản ấy được lắng nghe, trân trọng, đáp ứng và toại nguyện, ai ai trong chúng ta cũng sẽ tự nguyện thi thố tài năng của mình một cách tối đa và tốt hảo, trên con đường làm người. Đồng thời, một cách hăng say và nhiệt tình, chúng ta sẽ vận dụng mọi cơ may, để đóng góp và xây dựng cho kẻ khác, để họ cũng có những điều kiện làm người như chúng ta, với chúng ta và nhờ chúng ta.

 

                                       ***

4.- Quan Hệ Xã Hội 

Sinh hoạt thứ bốn, trên tiến trình làm người của chúng ta,  là kết dệt những quan hệ ĐỒNG CẢM và ĐỒNG HÀNH, với anh chị em đồng bào và đồng loại. Theo lối nhìn của tác giả Stephen R. COVEY, đây là loại quan hệ «Người Thắng-Tôi Thắng-Chúng ta cùng Thắng». Không có kẻ hơn, người thua. Không có người tự tấn phong là hạng «siêu nhân», và những thành viên còn lại được cư xử và đãi ngộ như là «công cụ», «đồ vật», «bệ gác chân»,  hay là «một loại người phó sản». 

Trong hiện tình thoái hóa của đời sống làm người, vì những lý do thực tiển, quan hệ XIN CHO đã bị đầu độc và ô nhiễm trầm trọng. Xin có nghĩa là quị lụy, sụp lạy trước một « phú ông ». Cho có nghĩa là ban phát một cách nhỏ giọt, từ trên và từ ngoài, một cách tùy nghi và tùy tiện. 

Trong khi đó, quan hệ bình thường và lành mạnh giữa người và người, nhất là trong địa hạt Tình Yêu dâng hiến, bao gồm bốn động tác cơ bản: XIN và CHO, NHẬN và TỪ CHỐI.

Hẳn thực, chính lúc tôi cho, tôi đang nhận lại bao nhiêu hồng ân, bằng cách nầy hoặc cách khác. Khi xin ai một điều gì, tôi đang nhìn nhận tính chủ thể của người ấy. Cho nên,  tôi không có thái độ cướp giật, ép buộc, đòi hỏi, đấu tranh, giống như hùm beo muông sói.

Cũng trong tinh thần và lăng kính ấy, khi ai xin tôi một điều gì, tôi cần khảo sát điều kiện thực tế của mình, để có thể chọn lựa một trong hai con đường: Một là CHO một cách bình tâm và thanh thản. Hai là từ chối, trả lời «KHÔNG», một cách nhã nhặn và khiêm tốn. Xin như vậy không phải là nài nỉ, ép buộc người kia phải cho. Và khi cho trong tinh thần ấy, tôi không phải là người ở trên, ban phát xuống một cái gì dư thừa, vô ích và vô dụng. Trong cách cho như vậy, tôi không cưu mang một hậu ý là «thả tép câu tôm». Hẳn thực, khi cho bất kỳ một điều gì, một cách thực sự và trọn vẹn, tôi CHO chính CON NGƯỜI của tôi. Tôi CHO cả MỘT TẤM LÒNG làm người, khả dĩ kêu mời người khác cũng làm người với tôi va giống như tôi.

Chính vì bao nhiêu lý do vừa được đề xuất như vậy, trong mọi quan hệ bao gồm tình yêu, tình bạn, tình anh chị em đồng bào, đồng loại…tôi dùng sứ điệp «NGÔI THỨ NHẤT, TÔI», để diễn tả vả khẳng định con người của mình, thay vì lạm dụng ngôi thứ hai, để nói thay, nói thế cho kẻ khác, theo kiểu «cả vú lấp miệng em», hay là áp đặt từ trên và từ ngoài những « qui luật » như : Phải, Cần, Nên, Không được... 

Trong tinh thần và lăng kính ấy, khi biết lắng nghe và tôn trong con người đang có mặt và chung sống, chúng ta sẽ có khả năng sáng tạo và thiết lập với mọi người, những quan hệ xây dựng và hài hòa, còn mang tên là « tương sinh, tương thành ». Hẳn thực, khi chúng ta cố quyết « làm người », chúng ta sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho kẻ khác « thành người, vói chúng ta, nhờ chúng ta và như chúng ta ».

Bốn bước đi tới trong mỗi quan hệ tiếp xúc và trao đổi

Nhằm cụ thể hóa những ý kiến vừa được quảng khai, sau đây là bốn bước cần thực hiện, mỗi lần chúng ta thiết lập những quan hệ xây dựng và hài hòa với người khác, nhất là khi đối diện những phản ứng xúc động đang leo thang, tràn ngập và sắp bùng nổ:

Bước thứ nhất:

Tôi Nghe, tôi Thấy…Tôi ghi nhận sự kiện khách quan, cụ thể trước mắt mình.

Khi làm như vậy, tôi tìm cách phản ảnh và kiểm chứng : có phải, có đúng như vậy không ? 

Bước thứ hai :

Kêu ra ngoài, gọi tên xúc động đang ẩn núp ở dưới sự kiện.

Ví dụ : Em nói như vậy có nghĩa là em đang BUỒN, GIẬN, hay là SỢ phải không ? Khi tiếp xúc với một người, chúng ta chỉ cần xoay lui xoay tới với 3 xúc động chính yếu nầy mà thôi. 

Bước thứ ba :

Sau khi lắng nghe và ghi nhận xúc động , chúng ta tìm hiểu thêm: Em đang CẦN gì? NHU CẦU quan trọng bậc nhất của em có phải là --- ?

Bước thứ tư : Vậy theo em, trong hoàn cảnh và vị trí của tôi, tôi có thể làm gì cụ thể, để đáp ứng nhu cầu của em ? Em yêu cầu tôi  LÀM gì?

Sau khi lắng nghe, ghi nhận, tôi xin trả lời :

- Về yêu cầu thứ nhất mà Em vừa trình bày, tôi có thể làm được.

- Về yêu cầu thứ hai ... tôi không có khả năng và điều kiện để làm. 

Những cách làm quan trọng 

Khi từng bước đi lên như vậy, tôi lưu tâm đến những cách làm quan trọng sau đây :

-         1) Dùng sứ điệp TÔI, để nói về mình, cũng như khẳng định mình một cách trung thực. Điều cần đề phòng là nói thay nói thế kẻ khác, thuyên giải, bói đoán, áp đặt cho kẻ khác những lối nhìn hoàn toàn chủ quan.

-         2) PHẢN ẢNH, nghĩa là nói lại với ngôn ngữ của mình, những gì chúng ta đã ghi nhận và đón nhận, khi lắng nghe và đặt trọng tâm vào con người của kẻ khác.

-         3) KIỂM CHỨNG bằng cách yêu cầu kẻ khác nói rõ : những điều tôi hiểu về họ, có hoàn toàn ăn khớp với quan điểm của họ hay không ?

-         4) KHÔNG KHUYÊN BẢO, nghĩa là đề nghị cho kẻ khác những lối nhìn và cách làm của chính chúng ta.

-         5) Thay vì bói đoán hay là tưởng tượng, tôi GHI NHẬN một cách khách quan, những gì mắt thấy, tai nghe, phát xuất từ người đang trao đổi với tôi.

-         6) Thay vì ÁP ĐẶT một cách vu vơ, nghĩa là đề xuất một lối nhìn hoàn toàn chủ quan, do chính tôi khám phá. xây dựng và tưởng tượng, tôi chỉ cố gắng TRUNG THỰC NÓI VỀ MÌNH và LẮNG NGHE cũng như TÌM HIỂU ý kiến của người khác, khi họ phát biểu.

-         7) Khi thiết lập những quan hệ ĐỒNG CẢM như vậy, chúng ta tạm thời đóng vào ngoặc, không đề cập vấn đề đồng ý hay bất đồng, về mặt tư tưởng và quan điểm. Chúng ta chỉ làm công việc nhìn nhận con người và tôn trọng giá trị làm người của họ mà thôi.

Thể theo lối nhìn và kinh nghiệm hòa giải của tác giả Marshal B. ROSENBERG, chúng ta chỉ cần tôn trọng một cách nghiêm chỉnh và chính xác, bốn bước từ từ đi lên, như được đề nghị, chúng ta sẽ có khả năng đề phòng và ngăn chận hiện tượng xúc động biến thành bạo động, trong hành vi của chính chúng ta, cũng như trong hành vi của kẻ khác. 

Thái độ có tính « trị liệu và giáo dục » đối với những triệu chứng « bùng nổ » của trẻ em

Chính vì lý do nầy, mỗi lần có hiện tượng xúc động « bùng nổ » nơi trẻ em, tôi đề nghị những cách hành xử sau đây :

-         Thứ nhất, người lớn hãy có mặt với trẻ em, đừng trốn chạy, bỏ đi nơi khác,

-         Thứ hai, thay vì ngăn chận, ức chế, trừng phát…bằng ngôn ngữ hoặc hành vi, chúng ta chỉ bình tĩnh phản ảnh : Mẹ thấy con bùng nổ. Con có thể nói lên cơn tức giận của con. Mẹ cho phép con diễn tả, nói ra, bộc lộ ra ngoài. Nếu tức quá, con hãy tức với cái gối nầy đây. Trường hợp trẻ em đánh đập kẻ khác, chúng ta chỉ cầm tay, giữ chặt trẻ em lại và nói : Con tôi tức quá, giận quá. Con có thể giận cái ghế, cái gối. Nhưng không bao giờ đánh em, đánh mẹ. Điều cốt yếu trong lúc nầy là chúng ta giữ nét mặt và thái độ bình tĩnh, không ức chế và trừng phạt.

-         Thứ ba, sau khi trẻ em đã trở về tình trạng ổn định, chúng ta tìm hiểu nhu cầu của trẻ em : Con cần gì, hãy nói ra cho mẹ biết. Trường hợp trẻ em không nói, chúng ta có thể thuyên giải, đưa ra một lý do hay là đặt câu hỏi. Động cơ chính trong cách làm và cách nói của chúng ta, vào lúc nầy là có mặt và trao đổi, phản ảnh, hơn là khám phá sự thật hay là nguyên nhân đích thực của hành vi bùng nổ.

-         Thứ bốn, để kết thúc, chúng ta đề nghị một trò chơi. Hai mẹ con có thể cầm tay nhau, đi quanh một vòng…Nếu người lớn đã có thói quen tiếp xúc, trao đổi như vậy… dần dần họ sẽ tìm ra những cách làm và lời nói thích hợp. Tuy nhiên, tôi muốn nhấn mạnh lại, điều quan trọng ở đây là có mặt và trao đổi. Nội dung không thiết yếu bao nhiêu.

Và khi người mẹ biết tạo quan hệ Đồng Cảm như vậy, bà là cái KHUNG bao bọc, che chỡ, tạo an toàn tình cảm cho đứa con, trong mọi tình huống thuận lợi cũng như bất lợi. 

Trong tinh thần và lăng kính nầy, Lắng Nghe, Có Mặt và Đồng Cảm, là những quà tặng lớn lao, cho những người đang tiếp xúc với chúng ta, bất kể người ấy đang còn là một trẻ em, hay đã trưởng thành và có những trách nhiệm, trong lòng xã hội.

 

                                            ***

  

5.- Ngôn Ngữ

 

-        Phương tiện phục vụ Tư Duy,

-        Phản ảnh Xúc động,

-        Thiết lập quan hệ xây dựng và hài hòa,

-        Mang ra vùng ánh sáng của Ý Thức.-         Cửa Vào làm bằng năm giác quan (Input), -         Tư Duy và Xúc Động là hai Thành Tố thuộc Tiến Trình Biến Chế và Chuyển Hóa (Processing), -         Hai Thành Tố thứ tư và thứ năm là Cửa Ra bao gồm  Ngôn Ngữ và những Quan Hệ xã hội giữa người với người (Output). -         Thứ nhất, đó là một phương tiện cần được đặt dưới quyền sử dụng của tư duy, nhằm tổ chức và định hướng cuộc đời. -         Thứ hai, đó cũng là một dụng cụ hữu ích và hữu hiệu, để chúng ta thiết lập quan hệ tiếp xúc và trao đổi, chia sẻ và đồng cảm với những người cùng chung sống trong môi trường xã hội.-         Thứ ba, xuyên qua con đường ngôn ngữ, chúng ta thực thi công việc phản ảnh, có nghĩa là từ từ gọi ra vùng ánh sáng của ý thức, bao nhiêu động lực đen tối, mập mờ, bao nhiêu xung năng vô tổ chức, cũng như bao nhiêu tiếng nói còn đang bị ức chế, trấn áp, chưa được coi trọng và lắng nghe.

  

Như đã được trình bày trên đây, Nội Tâm bao gồm năm thành tố khác nhau, nhưng bổ túc và kiện toàn cho nhau : 

Vì lý do sư phạm, tôi đã chọn lựa thứ tự trước-sau, trong-ngoài. Trong thực tế, năm thành tố ấy giao thoa chằng chịt, tác động qua lại, kết dệt với nhau những quan hệ nhân quả hai chiều. Hẳn thực, một trong năm thành tố có thể là nhân, có khả năng phát sinh, điều hướng hoặc điều động bốn yếu tố còn lại. Khi khác, chính yếu tố ấy lại là thành quả chịu ảnh hưởng lớn lao của một thành tố khác.

Tư duy chẳng hạn, mang lại cho đời sống của con người một hướng đi, một ý nghĩa, một mục đích. Tuy nhiên, không có xúc động làm động cơ thúc đẩy, làm sao con người có thể có khả năng chuyển biến một chương trình, một kế hoạch thành hoa quả cụ thể trong lòng cuộc đời. Nhưng khi không có ánh sáng của tư duy soi sáng và hướng dẫn, xúc động sẽ tức khắc bị tràn ngập và gây ra nhiều đổ vỡ trong đời sống xã hội…

Nói khác đi, xúc động cần được gọi ra ngoài, đem ra vùng ánh sáng của ý thức, bằng phương tiện ngôn ngữ. Lúc bấy giờ, xúc động không còn là một «Xung Năng » hoàn toàn vô thức, một sức thúc đẩy, dồn ép, tạo căng thẳng.  

Trong lăng kính vừa được trình bày, ngôn ngữ là một phương tiện được dùng, để GỌI RA NGOÀI, hay là MANG RA VÙNG ÁNH SÁNG, những gì được cưu mang trong nội tâm. Đối với bốn thành tố khác  -  là giác quan, tư duy, xúc động và quan hệ xã hội  -  ngôn ngữ đóng vai trò tổ chức, xếp đặt, diễn tả, phản ảnh hay là giải tỏa. Nhờ ngôn ngữ, chúng ta đặt tên hay là gọi tên, cho những gì chúng ta thấy, nghe, cảm. Tuy nhiên, ngôn ngữ không phải là sở hữu riêng tư của một cá nhân. Đó là phương tiện của cả một tập thể, một cộng đồng, một nền văn hóa, có khả năng mở ra cho chúng ta những cánh cửa bao la, diệu vợi, một bầu trời tự do và sáng tạo.

Đồng thời, ngôn ngữ cũng là một cạm bẫy đầy hiểm nguy và tai họa. Chẳng hạn, chúng ta dùng ngôn ngữ, để tìm hiểu, khám phá lối nhìn và quan điểm của kẻ khác. Nhưng chúng ta cũng có thể dựa vào ngôn ngữ, để áp đặt cho kẻ khác những cách làm, những lối suy tư mà chúng ta lầm tưởng đó là chân lý ngàn đời, là qui luật bất di bất dịch, phổ cập bất kỳ ở đâu.

Bao nhiêu nhận xét ấy cho phép chúng ta ý thức đến ít nhất ba phần vụ khác nhau của ngôn ngữ :

                                                   *** 

Để có can đảm học đi học lại những bài học cơ bản trên đây, ngày ngày tôi không ngừng nhắn nhủ mình :

Ánh mắt em là cả một bầu trời,

Bàn tay em huyền nhiệm thấu tầng mây,

Bước chân em gieo hạnh phúc cho đời,

Quả tim em là nguồn suối không bao giờ cạn vơi…

Trái lại, chỉ cần lảng quên, mê muội, thiếu tỉnh thức… trong vòng một vài chốc lát, tôi lại phải đắm chìm, ngụp lặn trong vòng luân hồi, làm bằng những lời tố cáo, kết án, thiên kiến và hận thù. Ai có thể giải thoát tôi, khỏi những tư tưởng nhị nguyên và lưỡng cực ấy ?

 

Nguyễn Văn Thành

Lausanne, Thụy Sĩ

-        Quan sát, ghi nhận những sự kiện khách quan : Tôi thấy, tôi nghe, tôi tiếp cận,-        Ý nghĩa đối với tôi : Quyết định và chọn lựa, thay vì phản ứng một cách máy móc, tự động,-        Thực tế của tôi khác với thực tế của người khác,-        Hai thực tế của hai người có thể đồng qui, khác biệt hay là bổ túc nhau.-         Thái độ thứ nhất là LẮNG NGHE chính mình, để đề phòng bao nhiêu cạm bẫy, do chúng ta tạo nên, khi phê phán, đánh giá, tố cáo và kết án kẻ khác. Tổ tiên và cha ông chúng ta đã đề nghị «hãy đánh lưỡi bảy lần trước khi nói», có nghĩa là  «hãy thức tỉnh», không mê muội, trầm mình trong những định kiến hoàn toàn vô thức. Nói cách khác, khi đi, tôi biết tôi đang đi. Khi nói, tôi biết tôi đang nói…-         Thái độ thứ hai là Lắng Nghe và Tôn Trọng kẻ khác, tạo mọi điều kiện thuận lợi và tốt hảo, nhằm giúp họ diễn tả và trình bày thực tế, do chính họ ghi nhận. Khi chúng ta lắng nghe  như vậy, chúng ta đã cho phép người ấy «trở thành người».

Tác giả:  Gs. Nguyễn Văn Thành

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!