Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng

BBT CGVN YouTube
Thánh Kinh Công Giáo
Cầu nguyện bằng email
Hội Đồng Giám Mục VN
Liên Lạc

Văn Kiện Vatican 2

Lectio divina

Suy Niệm & Cầu Nguyện

Học Hỏi Kinh Thánh

Lớp KT Sr Cảnh Tuyết

Nova Vulgata

Sách Bài Đọc UBPT

LỜI CHÚA LÀ ÁNH SÁNG

GH. Đồng Trách Nhiệm

TAN TRONG ĐẠI DƯƠNG

Video Giảng Lời Chúa

Giáo Huấn Xã Hội CG

Tuần Tin HĐGMVN

Vụn Vặt Suy Tư

Giáo Sĩ Việt Nam

ThăngTiến GiáoDân

Bản Tin Công Giáo VN.

Chứng Nhân Chúa Kitô

Thánh Vịnh Đáp Ca

Phúc Âm Nhật Ký

Tin Vui Thời Điểm

Tin Tức & Sự Kiện

Văn Hóa Xã Hội

Thi Ca Công Giáo

Tâm Lý Giáo Dục

Mục Vụ Gia Đình

Tư Liệu Giáo Hội

Câu Chuyện Thầy Lang

Slideshow-Audio-Video

Chuyện Phiếm Gã Siêu

Các Tác Giả
  Augustinô Đan Quang Tâm
  Đinh Văn Tiến Hùng
  Ban Biên Tập CGVN
  Bác sĩ Ng Tiến Cảnh, MD.
  Bác Sĩ Nguyễn Ý-Đức, MD.
  Bùi Nghiệp, Saigon
  Bosco Thiện-Bản
  Br. Giuse Trần Ngọc Huấn
  Cursillista Inhaxiô Đặng Phúc Minh
  Dã Quỳ
  Dã Tràng Cát
  Elisabeth Nguyễn
  Emmanuel Đinh Quang Bàn
  Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB.
  EYMARD An Mai Đỗ O.Cist.
  Fr. Francis Quảng Trần C.Ss.R
  Fr. Huynhquảng
  Francis Assisi Lê Đình Bảng
  Gia Đình Lectio Divina
  Gioan Lê Quang Vinh
  Giuse Maria Định
  Gm Phêrô Huỳnh Văn Hai
  Gm. Giuse Đinh Đức Đạo
  Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
  Gm. JB. Bùi Tuần
  Gm. Nguyễn Thái Hợp, op
  Gm. Phêrô Nguyễn Khảm
  Gs. Đỗ Hữu Nghiêm
  Gs. Ben. Đỗ Quang Vinh
  Gs. Lê Xuân Hy, Ph.D.
  Gs. Nguyễn Đăng Trúc
  Gs. Nguyễn Văn Thành
  Gs. Phan Văn Phước
  Gs. Trần Duy Nhiên
  Gs. Trần Văn Cảnh
  Gs. Trần Văn Toàn
  Hạt Bụi Tro
  Hồng Hương
  Hiền Lâm
  Hoàng Thị Đáo Tiệp
  Huệ Minh
  HY. Nguyễn Văn Thuận
  HY. Phạm Minh Mẫn
  JB. Lê Đình Nam
  JB. Nguyễn Hữu Vinh
  JB. Nguyễn Quốc Tuấn
  Jerome Nguyễn Văn Nội
  Jorathe Nắng Tím
  Jos. Hoàng Mạnh Hùng
  Jos. Lê Công Thượng
  Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
  Joseph Vũ
  Khang Nguyễn
  Lê Thiên
  Lm Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, HKK
  Lm Đaminh Hương Quất
  Lm. Anmai, C.Ss.R.
  Lm. Anphong Ng Công Minh, OFM.
  Lm. Anrê Đỗ Xuân Quế op.
  Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
  Lm. Đan Vinh, HHTM
  Lm. Đỗ Vân Lực, op.
  Lm. G.Trần Đức Anh OP.
  Lm. GB. Trương Thành Công
  Lm. Giacôbê Tạ Chúc
  Lm. Gioan Hà Trần
  Lm. Giuse Hoàng Kim Đại
  Lm. Giuse Lê Công Đức
  Lm. Giuse Ngô Mạnh Điệp
  Lm. Giuse Trần Đình Thụy
  Lm. Giuse Vũ Thái Hòa
  Lm. Inhaxio Trần Ngà
  Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
  Lm. JB Trần Hữu Hạnh fsf.
  Lm. JB. Bùi Ngọc Điệp
  Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh
  Lm. Jos Đồng Đăng
  Lm. Jos Cao Phương Kỷ
  Lm. Jos Hoàng Kim Toan
  Lm. Jos Lê Minh Thông, OP
  Lm. Jos Nguyễn Văn Nghĩa
  Lm. Jos Phan Quang Trí, O.Carm.
  Lm. Jos Phạm Ngọc Ngôn
  Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
  Lm. Jos Trần Đình Long sss
  Lm. Jos.Tuấn Việt,O.Carm
  Lm. Lê Quang Uy, DCCT
  Lm. Lê Văn Quảng Psy.D.
  Lm. Linh Tiến Khải
  Lm. Martin Ng Thanh Tuyền, OP.
  Lm. Minh Anh, TGP. Huế
  Lm. Montfort Phạm Quốc Huyên O. Cist.
  Lm. Ng Công Đoan, SJ
  Lm. Ng Ngọc Thế, SJ.
  Lm. Ngô Tôn Huấn, Doctor of Ministry
  Lm. Nguyễn Hữu An
  Lm. Nguyễn Thành Long
  Lm. Nguyễn Văn Hinh (D.Min)
  Lm. Pascal Ng Ngọc Tỉnh
  Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn
  Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
  Lm. Phạm Văn Tuấn
  Lm. Phạm Vinh Sơn
  Lm. PX. Ng Hùng Oánh
  Lm. Raph. Amore Nguyễn
  Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ
  Lm. Tôma Nguyễn V Hiệp
  Lm. Trần Đức Phương
  Lm. Trần Mạnh Hùng, STD
  Lm. Trần Minh Huy, pss
  Lm. Trần Việt Hùng
  Lm. Trần Xuân Sang, SVD
  Lm. TTT. Võ Tá Khánh
  Lm. Vũ Khởi Phụng
  Lm. Vĩnh Sang, DCCT
  Lm. Vinh Sơn, scj
  Luật sư Đoàn Thanh Liêm
  Luật sư Ng Công Bình
  Mẩu Bút Chì
  Mặc Trầm Cung
  Micae Bùi Thành Châu
  Minh Tâm
  Nữ tu Maria Hồng Hà CMR
  Nguyễn Thụ Nhân
  Nguyễn Văn Nghệ
  Người Giồng Trôm
  Nhà Văn Hương Vĩnh
  Nhà văn Quyên Di
  Nhà Văn Trần Đình Ngọc
  Nhạc Sĩ Alpha Linh
  Nhạc Sĩ Phạm Trung
  Nhạc Sĩ Văn Duy Tùng
  Phaolô Phạm Xuân Khôi
  Phêrô Phạm Văn Trung
  Phó tế Giuse Ng Xuân Văn
  Phó tế JB. Nguyễn Định
  Phùng Văn Phụng
  Phạm Hương Sơn
  Phạm Minh-Tâm
  PM. Cao Huy Hoàng
  Sandy Vũ
  Sr. Agnès Cảnh Tuyết, OP
  Sr. M.G. Võ Thị Sương
  Sr. Minh Thùy, OP.
  Têrêsa Ngọc Nga
  Tín Thác
  TGM. Jos Ngô Quang Kiệt
  TGM. Phaolô Bùi Văn Đọc
  Thanh Tâm
  thanhlinh.net
  Thi sĩ Vincent Mai Văn Phấn
  Thiên Phong
  Thy Khánh
  Thơ Hoàng Quang
  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập
  Tiến Sĩ Tâm Lý Trần Mỹ Duyệt
  Tiến Sĩ Trần Xuân Thời
  Trầm Tĩnh Nguyện
  Trầm Thiên Thu
  Trần Hiếu, San Jose
  Vũ Hưu Dưỡng
  Vũ Sinh Hiên
  Xuân Ly Băng
  Xuân Thái
Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
  Văn Hóa Xã Hội
ĐÂU LÀ « ƯU TIÊN SỐ MỘT » TRONG VẤN ĐỀ GIÁO DỤC TRẺ EM TỰ KỶ ?

 

(giới thiệu cuốn sách  « Phát huy quan hệ xã hội, trong vấn đề giáo dục trẻ em tự kỷ)

Nhằm giới thiệu và trình bày về Hội Chứng Tự Kỷ tôi đã lần lượt xuất bản ba tác phẩm khác nhau.

Cuốn sách thứ nhất mang tựa đề « Trẻ Em Tự Kỷ », xuất bản lần đầu tiên vào năm 2005, trên các tờ báo thông tin vi tính, ở trong và ngoài Nước. Một cách đặc biệt trong tác phẩm nầy, tôi đã khảo sát 5 triệu chứng, nhằm giúp đỡ cha mẹ và những những người có liên hệ xa gần, trong vai trò phát hiện những trẻ em mang hội chứng tự kỷ, từ những giây phút đầu tiên, khi một vài rối loạn vừa mới thoáng lộ diện.

Càng phát hiện sớm, như tôi đã nhấn mạnh, chúng ta càng hội tụ nhiều cơ may, khả dĩ giúp đỡ những trẻ em nầy mau chóng thích nghi với đời sống và môi trường xã hội.

Hẳn thực, từ 0 đến 6 tuổi, trẻ em đang còn ở trong giai đoạn tăng trưởng và phát triển, trên mọi bình diện, thuộc đời sống cơ thể cũng như trong đời sống xã hội, từ những sinh hoạt vui đùa với bạn bè cùng trang lứa đến những qui luật cần tuân hành ở môi trường học đường…Cũng trong thời gian và lứa tuổi nầy, hệ thần kinh trung ương hay là não bộ, với ba giai tầng khác nhau là Thân Não (Brainstem), Hệ Viền (Limbic) và Tân Vỏ Não (Neocortex), còn ở trong tình trạng mềm dẽo, dễ uốn nắn và điều chỉnh. Thậm chí những chương trình mang tên là bẩm sinh hay di truyền còn tùy thuộc vào khả năng tác động của môi trường giáo dục gia đình. Những quan hệ của cha mẹ, giống như nước tưới, đất màu hay là ánh sáng mặt trời, có thể mở ra hai con đường : làm cho hạt giống bẩm sinh phát triển thành cây lớn mạnh, hay là tàn lụi ung thối, vì không hội tụ đầy đủ điều kiện dưỡng sinh thuận lợi.

Cuốn sách thứ hai, xuất bản vào năm 2006, với tựa đề « Nguy Cơ Tự Kỷ , từ 0 đến 7 tuổi », đề xuất hai mục đích rõ rệt :

Thứ nhất, để can thiệp một cách khoa học và hữu hiệu, nghĩa là có khả năng mang lại những thành quả cụ thể và khách quan, cho con em đang có những rối loạn thuộc hội chứng tự kỷ, chúng ta cần cưu mang trong nội tâm, thái độ sáng suốt và tỉnh thức. Người làm cha mẹ, các giáo viên cũng như chuyên viện thuộc nhiều ngành ngề khác nhau, không thể « chầm chày may rủi », nhắm mắt đưa chân, áp dụng một cách máy móc tự động những chương trình có sẵn trong tầm tay, hay là những phương pháp trừng trị và ức chế.

Tư duy cấu trúc, trái lại, đề nghị chúng ta hãy ý thức một cách sáng suốt : Tôi đang ở đâu ? Bắt đầu từ khởi điểm nào ? Đi đến đâu ? Đi con đường nào ? Vì lý do gì ? Đi với phương tiện nào ? Đi theo những bước tiến lên từ dễ đến khó như thế nào ? Sau một thời gian tác động hay là can thiệp, chúng ta cần làm gì, nhằm đánh giá công việc và kết quả ? Khi nhận thấy mình đã đi sai đường, chúng ta sẽ vận dụng những biện pháp chuyển hóa như thế nào ?

Một câu hỏi cuối cùng, nhưng rất quan trọng mà chúng ta thường bỏ quên, nằm trong lãnh vực xúc động : chúng ta thực hiện bao nhiêu động tác đi lên ấy, với một thái độ và tâm trạng như thế nào ? Hạnh phúc và thoải mái, an lạc và tự tin ? Hay là xao xuyến, căng thẳng và loạn động, nhất là với một ý đồ toàn năng, siêu ý định và siêu ý chí ? Cho nên, chúng ta có xu thế áp đặt từ ngoài và từ trên, những chương trình phản ảnh tham vọng của chúng ta, thay vì lắng nghe, tìm hiểu nhu cầu chính đáng của trẻ em.

Ngoài ra – đây là mục đích thứ hai của tác phẩm – mỗi trẻ em tự kỷ là một thế giới đặc thù và riêng biệt. Vừa khi ra khỏi lòng mẹ, và thậm chí trong lúc còn ở trong tử cung, bất kỳ trẻ em nào không phải là một loại « vườn không nhà trống ». Chúng ta muốn trồng gì vào đó, thì trồng. Xây gì lên trên ấy, thì xây. Trái lại, trong mỗi tế bào thần kinh của não bộ, thể theo lối nhìn và kết quả nghiên cứu công phu của tác giả Douglas M. ARONE, bao nhiêu chương trình đã được cài đặt và khắc sâu đậm nét.

Trong tầm tay và điều kiện cụ thể của mình, môi trường có trách nhiệm làm những gì, từ khi trẻ em vừa sinh ra chào đời ?

- Trước hết, để vun tưới và củng cố những chương trình cần củng cố và vun tưới ?

- Thứ hai, tạo điều kiện thuận lợi, để chuyển hoá, uốn nắn lại hay là điều chỉnh những gì đã bắt đầu có hướng đi lệch lạc ?

- Sau cùng, khi mầm mống tự kỷ đã có mặt, môi trường có thể làm được những gì tức khắc, không chần chờ, hẹn rày hẹn mai, để cản trở mầm mống ấy ngày ngày trở nên một cây cổ thụ, « một sự đã rồi », lúc trẻ em lên 7 tuổi ?

Môi trường là ai, nếu không phải là chính chúng ta tất cả, không trừ sót một ai ?

Thay vì xuyên qua liếc nhìn lẫn tránh hay là lời nói xiên xẹo, nhằm đổ lỗi, tố cáo cho các bậc làm cha mẹ … ai trong chúng ta cảm thấy mình có vai trò nâng đỡ các bà mẹ trẻ đang khổ đau, tê liệt ? Phải chăng chúng ta hãy bước lại gần, giải thoát những mặc cảm tội lỗi vô căn cứ, đang đè nặng lên tâm tư của họ ?

Ngoài ra, nhằm chu toàn ba trách vụ vừa được nói tới, là : Vun tưới,  Chuyển hóa và  Cản trở, chúng ta không thể không học.

-         Học nhìn đứa con, với một lối nhìn trinh nguyên, trong trắng, chưa có vết tích của khổ đau bóp méo và xuyên tạc.

-         Học nghe đứa con, với vành tai xôn xao, chưa vướng mắc vào một nỗi lo sợ đang trấn áp mọi sức sống vươn lên.

-         Học tiếp xúc và trao đổi, thậm chí với đứa con đang gặp những khó khăn lớn lao, trong lãnh vực quan hệ xã hội thông thường, hằng ngày.

Hẳn thực, trước khi có khả năng phát huy ngôn ngữ đang được sử dụng trong môi trường gia đình, phải chăng đứa bé sơ sinh đã « chuyện trò » với người mẹ bằng cách nầy hay cách khác, bắt đầu với « tiếng khóc chào đời ». Trong câu chuyện đầu tiên ấy, phải chăng đứa con đã được đón nhận và chấp nhận vô điều kiện, với tư cách là một con nguời toàn bích và toàn diện, đang từ từ mở ra cánh cửa nội tâm, để thu hóa những đóng góp của môi trường và thế giới bên ngoài ? Mỗi đứa con có một tốc độ nhanh hay chậm khác nhau. Một gốc tre, chẳng hạn, từ ngày được trồng xuống lòng đất, phải đợi chờ chung quanh 3 năm, mới có thể nảy ra một chồi măng đầu tiên. Một người tự kỷ cũng vậy, giống như trường hợp của Sean BARON, phải đợi chờ 25 năm, mới bắt đầu trao đổi chuyện trò qua lại với người mẹ sinh ra mình.

Chính vì bao nhiêu lý do vừa được giới thiệu một cách sơ phác, cuốn sách thứ ba nầy về Hội Chứng Tự Kỷ, mang tựa đề : « Phát huy những quan hệ xã hội, trong vấn đề giáo dục trẻ em tự kỷ ».

Lý do đầu tiên thúc dục tôi xếp đặt quan hệ xã hội, lên hàng ưu tiên số một, vì tất cả trẻ em tự kỷ đang gặp những khó khăn trầm trọng và chủ yếu, trong lãnh vực nầy.

Lý do thứ hai phản ảnh những thành quả mới nhất, trong các công trình nghiên cứu về Hội Chứng Tự Kỷ, ở Âu Tây cũng như ở Bắc Mỹ. Hẵn thực, đầu năm 2006, trong một tác phẩm có tầm cỡ quốc tế, tác giả Daniel GOLEMAN đã nhấn mạnh vai trò của Trí Thông Minh Xã Hội, trong mọi lãnh vực sinh hoạt thuộc đời sống làm người.

Trí thông minh xã hội bắt đầu chớm nở, khi trẻ sơ sinh nhìn thẳng vào hai mắt của người mẹ.

Trí thông minh xã hội đã có mặt, nảy mầm đâm mộng, vào những lúc hai mẹ con sung sướng trao đổi nụ cười với nhau, nhất là sau khi trẻ sơ sinh đi vào lứa tuổi 2-3 tháng.

Trí thông minh xã hội đã có mặt, khi đứa bé biết ngoảnh mặt nhìn nơi khác, trong một vài giây đồng hồ, nhằm giải tỏa những căng thẳng đang leo thang trong nội tâm của mình. Chính lúc ấy, nếu ý thức được rằng những kích thích hiện tại của mình đang vượt quá ngưỡng chịu đựng của đứa con, bà mẹ sẽ biết dừng lại. Làm được như vậy, bà đang giúp đứa con phát huy trí thông minh xã hội của mình, bằng cách học chọn lựa và quyết định khi nào mở ra, khi nào đóng lại khả năng tiếp thu và hội nhập của mình.

Ngoài ra, khi trí thông minh xã hội được ngày ngày phát triển như vậy, một đường giây thần kinh sẽ xuất hiện trong não bộ, nhằm nối kết các trung tâm khác nhau của Hệ Viền và Tân Vỏ Não. Nhờ vào đó, những xung năng tự nhiên và bồng bột của Hạnh Nhân (Amygdala) sẽ từ từ nhận được ánh sáng điều hướng và điều hợp của Thùy Trán (Frontal) thuộc Tân Vỏ Não đưa xuống. Ngược lại, Hạnh Nhân thuộc Hệ Viền gửi lên những tin tức, sau khi tham cứu Kho tàng hoài niệm là Hải Mã (Hippocampus). Dựa vào đó, Thùy Trán có thể đề xuất những chương trình hành động vừa có tình, vừa có lý, vừa phản ảnh những giá trị và ý nghĩa làm người, vừa thích ứng với những nhu cầu của thực tế và thực tại.

Khi hiểu rõ những cơ chế sinh hoạt của Trí thông minh xã hội, được thể hiện một cách cụ thể trong những đường dây thần kinh đi lên và đi xuống như vậy, cha mẹ, người giáo viên và các chuyên viên có thể hợp tác với nhau. Cùng nhau, họ sẽ sáng tạo những dụng cụ, những phương tiện, những cách làm, nhằm bổ túc những gì đang còn thiếu vắng, điều chỉnh lại những gì đang sai lệch và kiện toàn những gì chưa hoàn chỉnh, trong bản thân và đời sống của một trẻ em có nguy cơ tự kỳ.

Trong tinh thần và ý hướng giáo dục như vậy, cuốn sách thứ ba nầy sẽ lần lượt trình bày và giới thiệu trong những chương kế tiếp, những trọng điểm chính yếu như sau :

-         Trong chương Một, tôi sẽ trùng tuyên, một cách đầy đủ và tổng hợp về 3 Triệu Chứng chính qui và đặc hiệu thuộc hội chứng tự kỷ Vồng Cầu (Spectrum Autism). Thay vì chỉ mô tả những hiện tượng bên ngoài, tôi sẽ nhấn mạnh một sự kiện có tầm mức quan trọng, trong lãnh vực quan hệ tiếp xúc và trao đổi. Hẳn thực, khi từ giả cung lòng ấm cúng của người mẹ, đứa bé sơ sinh cần một cung lòng ấm cúng khác, để lớn lên và phát triển, trong môi trường xã hội. Cung lòng ấm cúng nầy không còn là Tử Cung của bà mẹ. Cung lòng nầy được kết dệt bằng những nụ hôn, bằng những bàn tay xoa bóp. Bằng những giọng hò ru con, người mẹ và những ai « đại diện mẹ », gọi về trong giấc mơ và tâm tuởng của con, cả một giang sơn đất nước, bao nhiêu tầng tầng lớp lớp anh chị em đồng bào. Trong khung cảnh hồn thiêng sông núi ấy, khi nằm một mình trong nôi đứa bé đã biết nhếch miệng mỉm cười – một nụ cười sinh lý -  « với Bà Mụ, Bà Tiên, Bà Âu Cơ ». Nụ cười vô thức ấy sẽ từ từ chuyển qua nụ cười xã hội có ý thức, nếu có người đang có mặt với con, chớp thời cơ, để nhìn con, khen con, chuyện trò với con. Bắc lên cho con những nhịp cầu, với người có mặt, cũng như với người không có mặt, nhưng đang hiện diện tràn đầy, để kiến tạo một vòng cung bao bọc chiếc nôi của con.

-         Chương Hai sẽ liệt kê và trình bày 5 loại sinh hoạt khác nhau, nhưng bổ túc và kiện toàn cho nhau, nhằm hình thành, xây dựng và không ngừng tô điểm nội tâm của con người. Tôi đồng ý một phần nào với Simon BARON-COHEN, khi tác giả nầy khẳng định rằng trẻ em tự kỷ không có NỘI TÂM. Nhưng tôi muốn nhấn mạnh : Nội tâm, trong tầm nhìn của tác giả, chỉ là Thinking hay là Thinking Mind, nghĩa là Tư Duy mà thôi. Thể theo lối nhìn của tôi, tư duy chỉ là một công đoạn duy nhất, thuộc về một quá trình gồm có nhiều thành tố khác như : Năm giác quan, Xúc động, Ngôn ngữ và Quan hệ qua lại giữa người với người. Vì lý do sư phạm và vấn đề ngôn ngữ, tôi không thể KHÔNG phân biệt trong và ngoài, truớc và sau, giữa 5 thành tố ấy. Tuy nhiên, trong thực tế sinh hoạt, năm thành tố mà tôi vừa liệt kê, tác động qua lại hai chiều, giao thoa chằng chịt với nhau, cưu mang và phát huy nhau, nhưng cũng có thể cản trở và hạn chế nhau. Bao nhiêu nhận xét ấy nhằm nhấn mạnh một sự kiện chất chứa nhiều ý nghĩa : khi trẻ em không có hay là từ chối quan hệ, phải chăng đó là một cách khẳng định rằng : Tôi muốn, tôi cần một loại quan hệ hoàn toàn khác. Thay vì những loại quan hệ độc chiều, như tố cáo, trừng phạt, áp đặt…để làm người và thành người, tôi cần nhất là những quan hệ đồng cảm và lắng nghe. Khi tôi không nói, không nhìn, chính khi ấy, tôi đang diễn tả mình, với một loại « ngôn ngữ không lời ». Sở dĩ tôi rút lui, thu mình trong vỏ ốc tự kỷ, phải chăng vì tôi đang cần một quan hệ an toàn. Và loại quan hệ an toàn ấy đang còn vắng mặt, một cách trầm trọng, trong môi trường giáo dục ngày hôm nay. Ai trong chúng ta có khả năng nhạy bén, để lắng nghe, ghi nhận và tôn trọng ý nghĩa của « câu chuyện không lời » ấy ?

-         Chương Ba phản ảnh công trình nghiên cứu và tổng hợp của Daniel GOLEMAN. Toàn bộ tác phẩm của tác giả nầy, nhằm trả lời một cách rốt ráo cho vấn nạn : Trí Thông Minh Xã Hội là gì ? Trong hiện tại, quan niệm về Trí Thông Minh Tổng quát, đang được dạy dỗ trong môi trường học đường, đã đẩy đưa toàn thể nhân loại khắp đó đây, từ đông qua tây, từ bắc xuống nam, vào vòng sản xuất, tiêu thụ, ô nhiễm môi trường, chế tạo vũ khí và bốc lột con người. Cho nên đã đến lúc, vấn đề cần được đặt ra và khảo sát về Trí Thông Minh Xã Hội, nhằm lột trần và phơi bày một cách can đảm, trước mắt mọi người, hai câu hỏi cơ bản.

- Câu hỏi thứ nhất : Mục đích của con người sinh ra trong trời đất, phải chăng là SỐNG HẠNH PHÚC ?

- Câu hỏi thứ hai : Khi hai con người lại gần, trao đổi và tiếp xúc với nhau, phải chăng họ tìm cách tạo ra cho nhau mọi điều kiện thuận lợi, để giúp nhau thành người ? Trong thực tế của xã hội ngày nay, con người khắp nơi, trên mặt địa cầu, có xu thế tranh chấp, tàn sát, hoại diệt lẫn nhau, trên mọi bình diện, thậm chí trong những cộng đoàn và cộng đồng mang tính cách tôn giáo, với chí hướng phục vụ nhân loại. Còn có chăng một loại người vẫn ngày ngày thắp sáng lý tưởng làm người và cố quyết sống tình người với nhau ?

-         Trong Chương Bốn, một câu hỏi quan trọng được nêu lên : Trí Thông Minh Xã Hội  có những cơ sở và tổ chức thần  kinh như thế nào ?

Các nhà khoa học về Thần Kinh Não Bộ đã khẳng định : Không có ba loại cấu trúc thần kinh đặc thù và chuyên môn, dành cho ba loại Trí Thông Minh khác nhau như Tổng Quát, Xúc Động và Quan Hệ Xã Hội. Trái lại, khi hoạt động và phát triển, mỗi loại trí thông minh sáng tạo và củng cố những đường dây chuyên biệt cho mình. Nhằm gửi tin đi, hay là nhận tin đến, những đường dây thần kinh  nầy nối kết lại với nhau các trung tâm đã có sẵn thuộc 3 giai tầng cấu trúc là : Thân Não, Hệ Viền và Tân Vỏ Não. Một cách đặc biệt, Trí Thông Minh Xã Hội hoạt động với hai đường dây chính yếu. Đường thứ nhất mang tên là Đai lộ phía trên (High Road), nối kết Thùy Trán và các Thùy khác thuộc Tân Vỏ Não với Cấu Trúc Hạnh Nhận thuộc Hệ Viền. Đường thứ hai mang tên là Đại lộ phía dưới (Low Road), phát xuất từ Hạnh Nhân và có liên hệ với những cơ quan thuộc Giai tầng Thân Não và Tiểu Não.

Điều đáng chúng ta quan tâm một cách đặc biệt là càng hoạt động một cách tích cực, Trí Thông Minh Xã Hội càng củng cố và tăng cường những đường dây thần kinh não bộ của mình, về mặt lượng cũng như về mặt phẩm. Thêm vào đó, bao lâu trí thông minh xã hội càng được chúng ta vận dụng và kích hoạt, khác với những tin tưởng và thành kiến trước đây, những tế bào thần kinh vẫn luôn luôn được tái sinh và đổi mới, thậm chí khi chúng ta đã già nua, nhưng vẫn còn minh mẫn. Thêm vào đó, các điểm giao liên giữa các tế bào, còn mang tên chuyên môn là xi-nắp, càng ngày càng nhân ra thêm nhiều, nếu có nhu cầu đổi mới hay là thay thế. Nói một cách vắn gọn, càng vận dụng một cách tích cực Trí Thông Minh Xã Hội, để đáp ứng những nhu cầu của cuộc sống, chúng ta càng tái tạo và đổi mới Thần Kinh Não Bộ. Và do đó, hiện tượng lão hóa càng bị đẩy lui về sau.

Chương Năm sẽ bổ túc chương Bốn, bằng cách trình bày thêm vai trò của những loại hóa chất được các loại xi-nắp thần kinh tiết ra và di chuyển theo đường máu, như adrenalin, dopamin, oxytocin, endorphin…

Chương Sáu sẽ bàn thêm về quan hệ tác động qua lại giữa Bẩm sinh và môi trường, hay là giữa gên và ảnh hưởng của giáo dục.

Hẳn thực, nếu giả thuyết về « nguồn gốc hay là nguyên nhân của hội chứng tự kỷ là Gen hay là Bẩm Sinh » một ngày nào đó  được chứng minh, một cách khoa học và khách quan, chúng ta cũng chưa thể nào khẳng định một cách dứt điểm rằng : Một trẻ em mang Gen tự kỷ, sẽ suốt đời là người tự kỷ. Trường hợp Gen không được kích hoạt, để có thể nẩy mầm đâm mộng, nhờ vào ảnh hưởng giáo dục có khả năng tạo ra cho trẻ em những quan hệ xã hội tích cực, xây dựng, an toàn và vui tươi, sung sướng, làm sao một trẻ em có thể trở nên người tự kỷ ? Nếu trong vòng 3 năm đầu tiên, chương trình tự kỷ có sẵn trong tế bào thần kinh, không được môi trường kích động, khởi động, nghĩa là được chuyển biến thành hiện thực, chương trình ấy sẽ bị vô hiệu hóa và tạn lụi vĩnh viễn.

Trong chương Bảy, tiếp theo những hệ luận vừa được trình bày, trong chương vừa qua, tôi sẽ đề nghị một số sinh hoạt nhằm phát huy quan hệ xã hội, trong đời sống của trẻ em có nguy cơ tự kỷ, từ 0 đến 7 tuổi.

Mục tiêu cần nhắm tới, và ngày ngày chuyển biến thành hiện thực, bằng những động tác cụ thể, là tạo cho trẻ em những quan hệ hài hòa, có mặt, lắng nghe, tôn trọng và vui tươi.

Về mặt kỹ thuật, chúng ta sử dụng những hình ảnh của trẻ em và những người thân như cha, mẹ, anh, chị em…, những cuốn phim ghi hình trực tiếp, khi trẻ em buồn, sợ, giận, vui sướng.

Tất cả những phương tiện nầy, cọng với ngôn ngữ hồn nhiên và sống động của chúng ta, nhằm phản ảnh cho trẻ em thấy mình, nghe mình, nhìn vào khuôn mặt của mẹ và của cha, trên các tấm hình.

Mục dích cuối cùng mà chúng ta luôn luôn nhắm tới, trong những sinh hoạt vui chơi và phản ảnh, như vừa được trình bày, là kích thích những tế bào hình suốt (spindle), cũng như những tế bào phản ảnh (mirror neurons), có mặt trong các đường dây thần kinh sau đây :

-         đường dây nối kết Hạnh Nhân với Thùy OFC (Orbito-Frontal Cortex, Trán-Ô mắt),

-         đường dây nối kết Hạnh nhân với Thùy ACC (Anterior Cingulae Cortex, Trước Đai)

Hai đường dây thần kinh não bộ « đi lên và phía trên nầy » hoạt động mạnh, khi chúng ta thiết lập những quan hệ xây dựng và hài hòa với người khác, trong bất cứ môi trường xã hội nào.

Chương Tám là chương cuối cùng, đặc biệt dành cho những người có trách vụ giáo dục và phục vụ trẻ em có nguy cơ tự kỷ. Nhằm giúp đỡ một cách hữu hiệu con em và học sinh của mình, phải chăng cha mẹ và các giáo viên, hơn ai hết, cần hiểu rõ những điều gì nên làm và nên tránh, khi thiết lập quan hệ với trẻ em, cũng như khi phản ảnh những xúc động của các em.

Để kết luận cuốn sách bàn về vấn đề thiết lập và phát huy những quan hệ với trẻ em có nguy cơ tự kỷ, phải chăng chúng ta cần lắng nghe lại những lời nhắn nhủ của Tổ Tiên và Cha Ông, qua các câu ca dao và tục ngữ sau đây :

-         Có công mài sắt ắt ngày thành kim.

-         Kiến tha lâu đầy tổ.

-         Nước chảy đá mòn.

-         Mẹ già như chuối ba hương,

Như xôi nếp một, như đường mía lau.

-         Công cha như núi Thái Sơn,

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.

Nhờ những bài học nầy làm điểm tựa, chắc chắn chúng ta tất cả có thể « dời núi, lấp sông », cho trẻ em, vì trẻ em và với trẻ em.

Lausanne, Thụy Sĩ

Ngày 17-12-2007

NGUYỄN văn Thành 

Sách tham khảo :

1)  Daniel GOLEMAN – Social Intelligence  -   Hutchinson, London 2006.

2) Judy & Sean BARRON – Moi, l’enfant autiste – Plon 1933.

- There’s a boy in here – Simon&Schuster, N.Y. 1991.

3) Jacques Salomé – Heureux qui communique – Albin Michel Paris 1993.

4) M.B. Rosenberg – Enseigner avec bienveillance – Jouvence 2006.

Tác giả:  Gs. Nguyễn Văn Thành

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!