Trang Chủ Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới (Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39) - Peace As The Fruit Of Justice and Solidarity Quà tặng Tin Mừng

BBT CGVN YouTube
Thánh Kinh Công Giáo
Cầu nguyện bằng email
Hội Đồng Giám Mục VN
Liên Lạc

Văn Kiện Vatican 2

Lectio divina

Suy Niệm & Cầu Nguyện

Học Hỏi Kinh Thánh

Lớp KT Sr Cảnh Tuyết

Nova Vulgata

Sách Bài Đọc UBPT

LỜI CHÚA LÀ ÁNH SÁNG

GH. Đồng Trách Nhiệm

TAN TRONG ĐẠI DƯƠNG

Video Giảng Lời Chúa

Giáo Huấn Xã Hội CG

Tuần Tin HĐGMVN

Vụn Vặt Suy Tư

Giáo Sĩ Việt Nam

ThăngTiến GiáoDân

Bản Tin Công Giáo VN.

Chứng Nhân Chúa Kitô

Thánh Vịnh Đáp Ca

Phúc Âm Nhật Ký

Tin Vui Thời Điểm

Tin Tức & Sự Kiện

Văn Hóa Xã Hội

Thi Ca Công Giáo

Tâm Lý Giáo Dục

Mục Vụ Gia Đình

Tư Liệu Giáo Hội

Câu Chuyện Thầy Lang

Slideshow-Audio-Video

Chuyện Phiếm Gã Siêu

Các Tác Giả
  Augustinô Đan Quang Tâm
  Đinh Văn Tiến Hùng
  Ban Biên Tập CGVN
  Bác sĩ Ng Tiến Cảnh, MD.
  Bác Sĩ Nguyễn Ý-Đức, MD.
  Bùi Nghiệp, Saigon
  Bosco Thiện-Bản
  Br. Giuse Trần Ngọc Huấn
  Cursillista Inhaxiô Đặng Phúc Minh
  Dã Quỳ
  Dã Tràng Cát
  Elisabeth Nguyễn
  Emmanuel Đinh Quang Bàn
  Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB.
  EYMARD An Mai Đỗ O.Cist.
  Fr. Francis Quảng Trần C.Ss.R
  Fr. Huynhquảng
  Francis Assisi Lê Đình Bảng
  Gia Đình Lectio Divina
  Gioan Lê Quang Vinh
  Giuse Maria Định
  Gm Phêrô Huỳnh Văn Hai
  Gm. Giuse Đinh Đức Đạo
  Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
  Gm. JB. Bùi Tuần
  Gm. Nguyễn Thái Hợp, op
  Gm. Phêrô Nguyễn Khảm
  Gs. Đỗ Hữu Nghiêm
  Gs. Ben. Đỗ Quang Vinh
  Gs. Lê Xuân Hy, Ph.D.
  Gs. Nguyễn Đăng Trúc
  Gs. Nguyễn Văn Thành
  Gs. Phan Văn Phước
  Gs. Trần Duy Nhiên
  Gs. Trần Văn Cảnh
  Gs. Trần Văn Toàn
  Hạt Bụi Tro
  Hồng Hương
  Hiền Lâm
  Hoàng Thị Đáo Tiệp
  Huệ Minh
  HY. Nguyễn Văn Thuận
  HY. Phạm Minh Mẫn
  JB. Lê Đình Nam
  JB. Nguyễn Hữu Vinh
  JB. Nguyễn Quốc Tuấn
  Jerome Nguyễn Văn Nội
  Jorathe Nắng Tím
  Jos. Hoàng Mạnh Hùng
  Jos. Lê Công Thượng
  Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
  Joseph Vũ
  Khang Nguyễn
  Lê Thiên
  Lm Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, HKK
  Lm Đaminh Hương Quất
  Lm. Anmai, C.Ss.R.
  Lm. Anphong Ng Công Minh, OFM.
  Lm. Anrê Đỗ Xuân Quế op.
  Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
  Lm. Đan Vinh, HHTM
  Lm. Đỗ Vân Lực, op.
  Lm. G.Trần Đức Anh OP.
  Lm. GB. Trương Thành Công
  Lm. Giacôbê Tạ Chúc
  Lm. Gioan Hà Trần
  Lm. Giuse Hoàng Kim Đại
  Lm. Giuse Lê Công Đức
  Lm. Giuse Ngô Mạnh Điệp
  Lm. Giuse Trần Đình Thụy
  Lm. Giuse Vũ Thái Hòa
  Lm. Inhaxio Trần Ngà
  Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
  Lm. JB Trần Hữu Hạnh fsf.
  Lm. JB. Bùi Ngọc Điệp
  Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh
  Lm. Jos Đồng Đăng
  Lm. Jos Cao Phương Kỷ
  Lm. Jos Hoàng Kim Toan
  Lm. Jos Lê Minh Thông, OP
  Lm. Jos Nguyễn Văn Nghĩa
  Lm. Jos Phan Quang Trí, O.Carm.
  Lm. Jos Phạm Ngọc Ngôn
  Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
  Lm. Jos Trần Đình Long sss
  Lm. Jos.Tuấn Việt,O.Carm
  Lm. Lê Quang Uy, DCCT
  Lm. Lê Văn Quảng Psy.D.
  Lm. Linh Tiến Khải
  Lm. Martin Ng Thanh Tuyền, OP.
  Lm. Minh Anh, TGP. Huế
  Lm. Montfort Phạm Quốc Huyên O. Cist.
  Lm. Ng Công Đoan, SJ
  Lm. Ng Ngọc Thế, SJ.
  Lm. Ngô Tôn Huấn, Doctor of Ministry
  Lm. Nguyễn Hữu An
  Lm. Nguyễn Thành Long
  Lm. Nguyễn Văn Hinh (D.Min)
  Lm. Pascal Ng Ngọc Tỉnh
  Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn
  Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
  Lm. Phạm Văn Tuấn
  Lm. Phạm Vinh Sơn
  Lm. PX. Ng Hùng Oánh
  Lm. Raph. Amore Nguyễn
  Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ
  Lm. Tôma Nguyễn V Hiệp
  Lm. Trần Đức Phương
  Lm. Trần Mạnh Hùng, STD
  Lm. Trần Minh Huy, pss
  Lm. Trần Việt Hùng
  Lm. Trần Xuân Sang, SVD
  Lm. TTT. Võ Tá Khánh
  Lm. Vũ Khởi Phụng
  Lm. Vĩnh Sang, DCCT
  Lm. Vinh Sơn, scj
  Luật sư Đoàn Thanh Liêm
  Luật sư Ng Công Bình
  Mẩu Bút Chì
  Mặc Trầm Cung
  Micae Bùi Thành Châu
  Minh Tâm
  Nữ tu Maria Hồng Hà CMR
  Nguyễn Thụ Nhân
  Nguyễn Văn Nghệ
  Người Giồng Trôm
  Nhà Văn Hương Vĩnh
  Nhà văn Quyên Di
  Nhà Văn Trần Đình Ngọc
  Nhạc Sĩ Alpha Linh
  Nhạc Sĩ Phạm Trung
  Nhạc Sĩ Văn Duy Tùng
  Phaolô Phạm Xuân Khôi
  Phêrô Phạm Văn Trung
  Phó tế Giuse Ng Xuân Văn
  Phó tế JB. Nguyễn Định
  Phùng Văn Phụng
  Phạm Hương Sơn
  Phạm Minh-Tâm
  PM. Cao Huy Hoàng
  Sandy Vũ
  Sr. Agnès Cảnh Tuyết, OP
  Sr. M.G. Võ Thị Sương
  Sr. Minh Thùy, OP.
  Têrêsa Ngọc Nga
  Tín Thác
  TGM. Jos Ngô Quang Kiệt
  TGM. Phaolô Bùi Văn Đọc
  Thanh Tâm
  thanhlinh.net
  Thi sĩ Vincent Mai Văn Phấn
  Thiên Phong
  Thy Khánh
  Thơ Hoàng Quang
  Tiến sĩ Nguyễn Học Tập
  Tiến Sĩ Tâm Lý Trần Mỹ Duyệt
  Tiến Sĩ Trần Xuân Thời
  Trầm Tĩnh Nguyện
  Trầm Thiên Thu
  Trần Hiếu, San Jose
  Vũ Hưu Dưỡng
  Vũ Sinh Hiên
  Xuân Ly Băng
  Xuân Thái
Nối kết
Văn Hóa - Văn Học
Tâm Linh - Tôn Giáo
Truyền Thông - Công Giáo
  Văn Hóa Xã Hội
«VẠN XUÂN CHI KẾ, THỤ THIÊN»

 

(CƯU MANG TRỜI để trở nên Bất Tử

và xây dựng quan hệ Đối Thoại với anh chị em)

  

1.- Nhập đề : Trồng lúa, trồng cây và giáo dục con người

 Người xưa đã dạy chúng ta :

-  « Nhất niên chi kế, thụ cốc.

-  « Thập niên chi kế, thụ mộc.

-  « Bách niên chi kế, thụ Nhân ».

Theo cách thuyên giải của tôi,

- Để lên kế hoạch trong vòng một năm, vấn đề cần đặt lên hàng đầu trong cuộc sống làm người, là TRỒNG LÚA, nhằm thỏa mãn nhu cầu lương thực hằng ngày của chúng ta.

- Để lên kế hoạch trong vòng mười năm, không gì hữu hiệu hơn là TRỒNG CÂY, nhằm lành mạnh hóa môi trường sinh thái và mang lại bóng mát cho những ai kết dệt quan hệ với chúng ta, trong lòng Quê Hương và Nhân Loại.

- Để lên kế hoạch trong vòng một thế kỷ, con đường tất yếu và trách nhiệm của những ai đang làm người, là TRỒNG NGƯỜI, nghĩa là phát huy tính người và trang trải tình người, trên mỗi đường đi nẻo về của cuộc đời.

Thể theo nền văn hóa của Con Rồng Cháu Tiên, từ thời kỳ nguyên thủy cho tới ngày hôm nay, Tổ Tiên Cha Ông còn muốn mở rộng câu nói ấy, bằng cách thêm vào một chiều kích mới:

- « Vạn Xuân chi kế, THỤ THIÊN »,

có nghĩa là :

- Để có thể trở nên cao cả và bất diệt, chỉ có một con đường chúng ta cần phải ngày ngày tôi luyện và dấn bước, đó là tâm hồn Hướng Thượng, hay là kế hoạch CƯU MANG TRỜI trong cõi lòng của mình. Nhờ đó, chất Trời sẽ từ từ thấm nhuần và toát ra trong ngôn ngữ, hành động, lối nhìn và mọi hình thức quan hệ giữa chúng ta với tha nhân. Nhờ Cưu Mang Trời, chúng ta mới có khả năng ĐỐI THOẠI với Anh chị em đồng bào, trong lòng Quê Hương, Đất Nước. Nói khác đi, đối thoại với ai có nghĩa là nhìn nhận Chất Trời đang có mặt trong người ấy. Chất Trời là sợi giây nối kết hai người lại với nhau.

2.- Thế nào là Cưu mang Trời ?

Xuyên qua những lời dạy bảo ấy, Người Xưa muốn nhấn mạnh thêm rằng : Trên con đường làm người, nếu có Chất Trời làm động cơ thúc đẩy từ bên trong nội tâm, chúng ta sẽ từ từ kinh qua những giai đoạn phát triển và tăng trưởng như sau :

Chung quanh mười lăm tuổi, chúng ta sẽ hứng thú và chuyên chăm học tập, để tiếp thu và hội nhập những nguyên lý sáng soi cuộc đời. Theo lối nói thời trang ngày nay, đó là những cấu trúc, những qui luật hay là « những loại bản đồ nội tâm », khả dĩ cho phép chúng ta xác định phương hướng hành động và tìm ra những điểm mốc, những địa chỉ, để tiến tới, trên những nẻo đường xuôi ngược của nhân loại. Giai đoạn đầu tiên nầy mang tên là : « Thạp ngũ nhi chí vu học ».

Nhờ biết học tập và tôi luyện như vậy, vào tuổi ba mươi, chúng ta sẽ có khả năng tự lập và bước đi một cách vững vàng ngang dọc, trên những chặng đường trưởng thành và phục vụ xã hội. Đó là giai đoạn thứ hai :  « Tam thập nhi lập ».

Qua tuổi bốn mươi, chúng ta sẽ dần dần biết chuyển hóa bao nhiêu lỗi lầm và thiếu sót có mặt khắp nơi, trong hai địa hạt ngôn ngữ và hành vi, khi tiếp xúc với tha nhân. Đồng thời, chúng ta bắt đầu có khả năng khám phá nhiều tầng lớp ý nghĩa khác nhau của mỗi biến cố và sự kiện, đang ngày ngày diễn ra trước mặt và chung quanh chúng ta. Đó là giai đoạn thứ ba : « Tứ thập nhi bất hoặc ».

 Vào tuổi năm mươi, sau khi trải qua bao nhiêu thăng trầm, chìm nổi, trong lòng cuộc đời, chúng ta bắt đầu tìm hiểu và coi trọng Ý Trời, trong những thời điềm hoặc tai họa, hay là những hiện tượng tự nhiên như bão tố, lụt lội, động đất, hạn hán... Đó là giai đoạn thứ bốn : « Ngũ thập nhi tri Thiên Mệnh ».

Từ tuổi sáu mươi trở lên, chúng ta biết lắng nghe mình và lắng nghe người anh chị em. Từ thái độ lắng nghe nầy, chúng ta biết kính trọng quan điểm và lập trường của những người đang chung sống và hoạt động cùng với chúng ta. Nhờ biết cẩn trọng, chúng ta có khả năng trao đổi, chia sẻ và đối thoại. Qua tác phong đối thoại, chúng ta biết diễn tả, khẳng định bản sắc đích thực và cao cả của mình. Đồng thời, chúng ta cũng có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi, để cho kẻ khác cũng có khả năng bộc lộ, diễn tả tính chủ thể của họ, giống như chúng ta, ngang hàng chúng ta, với chúng ta và nhờ chúng ta. Đó là giai đoạn thứ năm : « Lục thập nhi nhĩ thuận ».

Với tuổi bảy mươi, chúng ta bước vào giai đoạn cuối cùng của cuộc sống : « Thất thập nhi tùng tâm ». TÙNG TÂM, trong câu nói nầy, có nghĩa là : đi theo con đường của Tình Thương, một cách hoàn toàn tự do và tự nguyện. Chúng ta không còn bị một ai hay là một luật lệ nào ép buộc, lèo lái, thúc đẩy hay là chỉ đạo từ bên trên hoặc từ bên ngoài.

Trong lăng kính và ý hướng vừa được trình bày, Tùng Tâm đồng hóa với Tri Thiên Mệnh. Nói khác đi, Trời là tiếng nói và là con đường của Tình Thương. Cả hai - Trời và Tình Thương - đang  hòa nhập, để trở thành xương thịt, máu huyết và hơi thở ra vào trong con người toàn diện của chúng ta. Lúc bấy giờ, cõi lòng của mỗi người chính là ngôi đền, là nơi trú ngụ của Trời hay là của Tình Thương. Chính vì lý do nầy, trong lời Người Xưa được trích dẫn trên đây, không thể có thành quả « Thụ Nhân », nếu con người không được nuôi nấng và dạy dỗ, sáng soi và nâng đỡ trên con đường « Thụ Thiên », từ khi vừa ra khỏi lòng mẹ và kinh qua các đoạn đường chìm nổi trong cuộc sống.

Thụ Nhân và Thụ Thiên đan chéo vào nhau một cách chằng chịt  và không ngừng tác động qua lại hai chiều trên nhau.

Hẳn thực, khi không có bàn tay con người để thực hiện Trời,

Khi không có hai chân con người để bước tới với nhịp điệu và vận tốc của Trời,

Khi không có hai con mắt con người để nhìn ngắm, quan sát và hội nhập  cách làm của Trời,

Khi không có quả tim con người để trân trọng và đón nhận Trời...

Trời lúc bấy giờ chỉ là một khái niệm duy tâm cực đoan, hoàn toàn lý thuyết và vô tưởng, vượt khỏi tầm nắm bắt của chúng ta.

Tắt một lời, không cưu mang Trời trong tư duy và hành động, con người chỉ là « muông sói » đối với đồng bào, đồng loại. Không có Trời làm gạch nối và kết hợp chúng ta lại với nhau, làm sao chúng ta có thể đến gần nhau ? Ai, cái gì có thể tạo nên gắn bó giữa chúng ta ? Yếu tố nào thúc giục chúng ta cùng nhau sáng tạo và xây dựng Quê Hương ? Quan hệ Đối Thoại, Yêu Thương, Hiểu Biết và Tha Thứ... chỉ là những ngôn từ rỗng tuếch, nếu Trời không phải là điểm tựa và đòn bật, trong tâm hồn và cuộc đời.

Chính vì bao nhiêu lý do vừa được trình bày, nhiều Danh Hiệu khác cũng thường được áp dụng cho Trời : Tiếng Nói của Tình Thương, Lối Nhìn Bao Dung và Thứ Tha, Quan Hệ Đồng Cảm... Trong lăng kính và tinh thần ấy, Thụ Thiên phải chăng là khả năng Đối Thoại giữa hai con người biết ngồi lại với nhau, lắng nghe nhau, tôn trọng nhau, cùng nhau suy nghĩ, sáng tạo và hợp tác ? Kết quả là chúng ta trở thành « thiên thủ thiên nhãn », có ngàn con mắt để nhìn, có ngàn cánh tay để làm, có ngàn đôi chân để tiến tới. Một cách đặc biệt, chúng ta có ngàn con tim để yêu thương. « Thiên Thủ Thiên Nhãn » cũng còn có thể khởi động một ý nghĩa khác :  Chúng ta đang trở thành Tay và Mắt của Trời.

3.- Những bài học trên tiến trình Làm Người

Thể theo những lối nhìn mới, thuộc ngành giáo dục và sư phạm đương đại, sáu giai đoạn thành nhân trên đây, phải được hiểu là sáu động tác cụ thể, cùng nhau phối hợp và tạo lập một tiến trình Thụ Nhân và Thụ Thiên.

Hẳn thực, phải đợi đến tuổi bảy mươi mới bắt đầu Tùng Tâm, thì đã quá muộn màng.

Trái lại, chính ngày hôm nay, ở đây và bây giờ, chúng ta cần thực tập và tôi luyện những bài học như  sau:

- Lắng Nghe (Nhĩ Thuận),

- Thuyên Giải các hiện tượng của Trời Đất (Tri Thiên Mệnh),

- Ý Thức về những lỗi lầm của mình và tìm cách Hóa Giải (Bất Hoặc), nhất là trong những trao đổi chuyện trò hằng ngày, khi tiếp xúc với kẻ khác, ở trên ở dưới, ở trong và ở ngoài,

- Tự lập và Sáng Tạo con đường đi cho chính mình, trong mọi tình huống có lợi hay là bất lợi,

- Dấn bước trên Con Đường Tình Thương (Tùng Tâm) bất kỳ với ai, trong bất kỳ hoàn cảnh nào.

Một cách đặc biệt, năm bài học ấy phải được dạy bằng nhiều phương thức và dụng cụ khác nhau, khi một em bé vừa đi ra khỏi lòng mẹ.

Sở dĩ con người ngày nay, thuộc thời đại Nghìn Năm Thứ Ba, không biết lắng nghe nhau, không đối thoại với nhau, ngày ngày lôi cuốn nhau đi vào những vòng mê cung bạo động, hận thù, kỳ thị và chiến tranh... phải chăng bởi vì không có một cơ sở học đường nào, cũng như không có một giáo viên nào có khả năng dạy cho học sinh và con em chúng ta năm bài học làm người và làm Trời rất quan trọng trên đây ?

Trong khuôn khổ hạn hẹp của bài chia sẻ nầy, tôi không có tham vọng đề xuất một chương trình đại qui mô về thể thức Cưu Mang Trời trong cõi lòng làm người. Ý hướng của tôi là mạo muội giới thiệu cho những ai đang lắng nghe tôi, một vài đường nét chấm phá về Con đường Đối Thoại, tràn đầy chông gai và hiểm trở.

Một đàng, chúng ta cần ngày ngày tôi luyện những động tác cụ thể nào, khi đối thoại ?

Đàng khác, bao nhiêu chướng ngại đang chờ đợi và bủa vây chúng ta trên những bước đường nầy là những gì ? Làm sao có thể khắc phục và hóa giải ?

4.- Bốn động tác cơ bản thuộc tiến trình Đối Thoại

Theo cách hướng dẫn của tác giả W. ISAACS, khi dấn bước vào con đường đối thoại với người khác, chúng ta chỉ cần thực hiện lui tới, một cách nhuần nhuyễn và thuần thục, bốn động tác cụ thể và cơ bản sau đây :

- Thứ nhất là lắng nghe người đang tiếp xúc và chia sẻ với chúng ta (listening),

- Thứ hai là tôn trọng tính chủ thể của con người đang trao đổi và chuyện trò (respecting),

- Thứ ba là mang ra vùng ánh sáng những gì đang có mặt trong nôi tâm, can đảm đặt lên bàn, trước mặt của người đối diện, để họ có thể khảo sát, tìm hiểu, nêu lên những câu hỏi hay là trình bày những thắc mắc, sau khi tiếp thu và ghi nhận những điều do chúng ta phát biểu. Để diễn tả động tác nầy, W. ISAACS sử dụng hai từ trong tiếng Anh : suspending và surfacing. Suspending có nghĩa là treo lên trước mặt mọi người. Surfacing là mang lên trên bề mặt. Với cách làm nầy, chúng ta tránh tối đa thái độ úp mở, giấu đầu hở đuôi hay là quanh co, nói bóng nói gió, không đi thẳng vào câu chuyện cần đề cập. Không ngụy trang hoặc xuyên tạc những tin tức, dữ kiện.

- Thứ bốn là diễn tả con người trung thực của mình (voicing). Chúng ta phát biểu, bằng cách sử dụng sứ điệp ngôi thứ nhất « TÔI » để nói về chính mình, thay vì tố cáo, phê phán, qui lỗi người trước mặt...  áp đặt cho họ những lối nhìn, những quan điểm hay là những mệnh lệnh từ ngoài và từ trên, như : Mày phải... mày không có phép... mày nên... Diễn tả, theo lối nhìn của W. ISAACS, là mặc khải mình, chia sẻ một tấm lòng, trang trải ra ngoài cái « chân như » của chúng ta  : nguyên liệu kết tạo nên con người tôi là như vậy. Đồng thời, chúng ta tránh tối đa những xu thế tự nhiên như bóp méo, phóng đại, gạn lọc theo kiểu « tốt khoe, xấu che ».

5.- Bốn nguyên lý điều hướng và điều hợp

Để có thể thực hiện bốn động tác cơ bản trên đây, chúng ta cần qui chiếu vào bốn nguyên lý soi sáng và điều hướng :

- Thứ nhất, tôi lắng nghe người đối diện, vì người ấy và tôi là hai thành tố thuộc về một Cấu Trúc Tổng Thể, một Toàn Diện rộng lớn, vượt ra ngoài tầm nhìn của chúng ta (Wholeness). Theo cách nói của Huyền Sử Việt Nam, tất cả chúng ta đều được cưu mang trong cùng một bào thai của Mẹ Âu Cơ. Dòng máu Trời đang luân chuyển trong huyết quản của chúng ta.   

- Thứ hai, tôi tôn trọng tính chủ thể của con người đang chia sẻ và trao đổi với tôi. Tôi không nói một đàng, làm một nẻo. Tôi không phân chia con người của tôi thành bốn mảng tách lìa khỏi nhau hoặc chưởi bới nhau (Coherence). Bốn địa hạt  -  hành động cụ thể, lối nhìn, xúc động và đời sống quan hệ -  tất cả ăn khớp vào nhau và đồng loạt phản ảnh con người toàn diện hay là tính chủ thể của tôi. Khi đảm nhiệm công việc tôn trọng người khác như vậy, tôi đang tôn trọng chính mình tôi. Tôi vươn mình lên thấu tận Trời. Tôi cưu mang Trời.

- Thứ ba, tôi gọi ra ánh sáng tất cả những gì đang xuất hiện trong nội tâm, bằng cách trình bày ra ngoài cho người đối diện, bao nhiêu quan điểm, lập trường, tin tưởng và dự kiến, cũng như những phản ứng thuộc về địa hạt xúc động. Đằng sau mỗi xúc động, một hay nhiều nhu cầu của tôi đang ẩn núp. Chúng ta hãy học tập nhìn thẳng mặt chúng nó, gọi tên và tìm cách lắng nghe, đáp ứng (Awareness).

Khi thực thi động tác thứ ba, một đàng tôi đảm nhiệm và nhìn nhận con người thực sự của tôi. Chứ không phải con người « ngẫu tượng », bày vẽ, sơn son thếp vàng. Tôi không tránh né hoặc chối từ những gì phát xuất từ nội tâm của tôi.

Đàng khác, khi người đối diện đóng góp thêm những nhận xét về phía họ, tôi có thêm một nguồn ánh sáng mới. Nhờ vào đó, tôi có thể đánh sáng và mài nhọn ý thức về mình, hay là Bản Sắc của tôi. Tôi biết « Tôi là ai ? ». Tôi hiện đang ở đâu ? Tôi đi về đâu ? Tôi mang trong mình những năng động và bị động như thế nào ? Trên đường đi tới, tôi cần củng cố những điểm tích cực nào ? Đồng thời, tôi phải chuyển hóa những gì, trước khi những điều ấy đóng lớp rêu phong và trở thành những trở ngại khó khắc phục.

-    Thứ bốn, tôi khẳng định bản sắc và đóng góp tiếng nói làm người và làm Trời của mình. Tôi chia sẻ tấm lòng bao la và cao cả (Unfolding).

Hẳn thực, trong nhiều trường hợp, người khác đang cần ý kiến của tôi. Vai trò và trách nhiệm của tôi là lãnh đạo, đề xuất những đường hướng và kế hoạch hành động.

Khi khác, đối chất là công việc tôi cần phát huy và đặt lên hàng đầu. Đối kháng, đối chất không có nghĩa là đập phá, tấn công, phản động, lật đổ, tố cáo, bạo động. Nhưng là đưa ra một lối giải quyết hoàn toàn độc đáo và mới lạ, trước một vấn đề đang trở thành bế tắc, vì hiện thời tôi có cơ may đang đứng ở một vị trí khác, có nhiều dữ kiện khác, với một tâm trạng không bị đóng khung và ràng buộc vào một cấu trúc hiện hành.

Hai cách đóng góp khác không kém phần quan trọng : Một là ủng hộ, củng cố một lập trường đã có mặt và đang trên đà đi lên. Hai là phản ảnh, cơ hồ một tấm gương soi. Trong đó, người lãnh đạo độc tài có thể thấy rõ bàn tay lông lá và bộ mặt trâu ngựa của mình, để giật mình, tĩnh thức, chuyển hóa. Thêm vào đó, nhờ vai trò phản ảnh của tôi, một người dân ngày ngày lam lũ trên đồng ruộng, một người phu quét đường phố, một bà già ngồi ăn xin bên vệ đường, một trẻ em ngày ngày đến trường với bụng đói hoành hành... từng mỗi cá nhân ấy đang được lắng nghe, chiếu cố và coi trọng, như một con người toàn diện và toàn phần.

Nói tóm lại, bốn chiều kích đang kết tinh kết tụ trong bản sắc làm người của tôi : Hướng dẫn, Đối chất, Củng cố và Phản ảnh.

Khi khẳng định mình và đóng góp tiếng nói như vậy, tôi sử dụng sứ điệp ngôi thứ nhất, để trình bày những gì chính tôi đã thực sự ghi nhận, một cách cụ thể và khách quan, với năm giác quan của tôi : tôi thấy, tôi nghe, tôi đụng đến... Nếu không làm như vậy, tôi sẽ chập chờn, nhảy vọt lung tung, cơ hồ vượn chuyền cành, từ một giả thuyết không bao giờ được kiểm chứng đến những lời đồn thổi vô căn cứ được nhai đi nhai lại. Hay là tôi tố cáo, phê phán, bói đoán, suy bụng ta ra bụng người. Nói cách khác, tôi chỉ phản ứng một cách máy móc, bốc đồng, loạn động... thay vì thanh thản và bình tĩnh làm chủ tình hình, sáng tạo bản thân, bằng con đường tư duy có hệ thống và tính khoa học.

6.- Những giai đoạn thăng trầm trước khi Đối thoại

Đối thoại với bốn động tác cụ thể và bốn nguyên lý điều hợp vừa được trình bày, không phải là thành quả của một ý chí toàn năng « muốn là được ngay lập tức ».

Đối thoại cũng không bao giờ là một khoa học kỹ thuật cần được áp dụng một cách máy móc, tự động, vô hồn và vô thức.

Sau khi hội nhập hay là nhận làm của mình, một cách thuần thành và nhuần nhuyễn, bốn động tác do tác giả W. ISAACS đề xuất và giới thiệu, chưa hẳn chúng ta đã thâu đạt khả năng đối thoại, một cách vĩnh viễn, hay là biến thành xương da, máu thịt của mình.

Sai một ly, có thể đi một dặm. Chỉ cần một giây lát thiếu tĩnh thức, cấu trúc Hạnh Nhân  -  thuộc Hệ Viền, nằm ở trung tâm Não Bộ hay là Hệ Thần Kinh trung ương  -  đã lên cơn sốt và nhả ra trong đường máu những chất độc tố mang tên chuyên môn là Adrénaline... con người chúng ta đã đánh mất bình tĩnh và an lạc. Hệ Tân Vỏ Não -  có phần vụ điều hướng mọi cơ quan trong con người  -  lúc bấy giờ bị khống chế. Mọi hoạt động bình thường của Tư duy bị tê liệt. Ở trong tình huống nầy, tuy có mắt, chúng ta không còn thấy. Tuy có tai, chúng ta không còn nghe... Bao lâu chất độc tố chưa hoàn toàn tan biến trong đường máu, hoặc được bài tiết ra ngoài, chúng ta còn gặp phải bao nhiêu chướng ngại, để tái lập quân bình và an toàn nội tâm.

Một vài nhận xét về Hệ Thần Kinh Trung Ương như vậy cho chúng ta cảm nghiệm một phần nào :  con đường hay là tiến trình đối thoại có thể dễ dàng thoái hóa, trong bất kỳ tình huống nào, với bất kỳ một người nào, lớn bé, già trẻ, trí thức, vua chúa, nhà lãnh đạo, thành phần bình dân...

Sau đây, vì lý do sư phạm,  tôi muốn giản lược tiến trình đối thoại thành những giai đoạn tiếp nối nhau trên một đường thẳng. Trong thực tế của cuộc sống, tiến trình đối thoại có thể đi lên đi xuống, đi tới đi lui. Hoặc giả, hai giai đoạn khác nhau có thể chồng chéo, xen kẽ vào nhau.

- Giai đoạn một : Tự vệ và giữ khoảng cách

Khi hai người bắt đầu đến với nhau, ngồi lại với nhau, để trao đổi chuyện trò, họ thường kinh qua một thời gian trong tư thế xã giao, tự vệ, giữ khoảng cách. Trong nhiều trường hợp, họ giữ thái độ câm nín, vì không thể tìm ra điểm hội tụ, để xích lại gần nhau. Bầu khí giữa họ có thể trở nên càng lúc càng ngột ngạt, nặng nề, căng thẳng.

- Giai đoạn hai : Những va chạm đầu tiên, khi những lối nhìn khác biệt bắt đầu xuất hiện

Bầu khí xã giao và thái độ giữ khoảng cách sẽ từ từ nhường bước, khi có một công việc hay là một đề tài thảo luận qui tụ và tập hợp hai người lại với nhau. Tuy nhiên, chính lúc họ bắt đầu trao đổi và chia sẻ, lập tức những ý kiến khác biệt từ từ xuất hiện. Những sự kiện do người nầy ghi nhận không ăn khớp với những sự kiện được người kia trình bày. Hệ quả đương nhiên là hai lối nhìn có thể đối kháng lẫn nhau. Từ đó, mỗi người có thể co rút và khép mình lại trong vỏ ốc xúc động riêng tư. Hứng khởi lúc ban đầu khả dĩ mở đường trong chiều hướng chia sẻ, góp chung lại hay là trao đổi qua lại, đang gặp phải chướng ngại. Bao lâu câu chuyện chưa đi vào vùng trọng tâm và phần thiết yếu, mỗi người còn kiểm soát mình. Xung đột chưa bùng nổ. Tuy nhiên, mặt ngoài của mỗi người không còn phản ảnh mặt trong. Tác phong khách quan bên ngoài không còn ăn khớp với tiến trình và trạng thái của nội tâm. Phân tán và phân hóa là nguy cơ đang thành hình.

- Giai đoạn ba : tranh chấp và xung đột, vì nhảy vọt lung tung

Vì thiếu hiểu biết do thiếu người hướng dẫn và soi sáng, chúng ta không phân biệt bốn thành tố khác nhau có mặt trong mỗi tiến trình tư duy:

Thành tố Số 1 : Sự kiện cụ thể và khách quan,

Thành tố Số 2 : Giả thuyết hay là cách thuyên giải,

Thành tố Số 3 : Kết luận cuối cùng

Thành tố Số 4 : Chương trình hành động.

Thay vì từ từ leo lên từng nấc thang, trước mặt chứng kiến của người đối diện, từ số 1 đến số 4, một cách bình thản và có thứ tự, chúng ta nhảy vọt lung tung, lộn xộn. Chúng ta đồng hóa giả thuyết với sự kiện. Chúng ta kết án, nghĩa là rút ra một kết luận, trước khi trình bày giả thuyết hay là kiểm chứng tính khách quan của các sự kiện được ghi nhận. Thêm vào đó, chúng ta áp đặt chương trình hành động, một cách tùy tiện, thay vì dựa vào một nhu cầu có mặt trong thực tế cụ thể và khách quan của môi trường sinh thái hiện tại.

Bao nhiêu ngộ nhận và xung đột đều phát xuất từ tình trạng thiếu hiểu biết khoa học, trong lãnh vực tư duy hay là suy diễn.

Tệ hại hơn nữa là xung đột không bao giờ được khoanh vùng một cách rõ rệt, trong địa hạt tư duy. Xung đột tràn qua đời sống xúc động, dẫn khởi một dây chuyền dài thòng lòng bao gồm những phản ứng giận hờn, bực bội, căng thẳng, trầm cảm, xao xuyến, loạn động, đứng ngồi không yên nguôi...

Lo sợ là xúc động đầu đàn kéo lôi và lèo lái toàn bộ đội ngũ nầy. Lo sợ tấn công, đập phá tất cả những gì có liên hệ đến tình người, tình thương, tình đồng bào.

Nếu không tĩnh thức, để tức khắc dừng lại, thay đổi, chuyển hóa bản thân, những hiện tượng như bạo động và hận thù trong tác phong và quan hệ, sẽ là hệ quả thường tình và tất yếu.

- Giai đoạn bốn : Chuyển hướng, chọn lựa phương thức thảo luận khoa học

Nhờ được trang bị bằng những kiến thức khoa học về con đường tư duy,

Nhờ có Tình Thương làm động cơ thúc đẩy từ bên trong nội tâm,

Nhờ vai trò can thiệp của một nhân vật có khả năng làm trung gian và phản ảnh,

Nhờ những kinh nghiệm khổ đau có tác dụng luyện kim, mà chúng ta đã kinh qua, trong lòng cuộc đời... chúng ta có thể chuyển đổi hướng đi.

Hẳn thực, khi cảm nghiệm những tranh chấp, xung đột đang thành hình trong nội tâm và từ từ xuất hiện ra ngoài trong câu chuyện trao đổi, tức khắc chúng ta biết DỪNG LẠI, chuyển hướng, chọn lựa con đường tư duy có tính khoa học, bao gồm những bước đi lên sau đây :

- Bước thứ nhất : nắm vững bốn nấc thang của tư duy khoa học, vừa được nói tới trên đây.

- Bước thứ hai : Diễn tả ra ngoài bằng ngôn ngữ thể thức lý luận và suy diễn của mình, một cách rõ ràng, trong sáng và có hệ thống, xuyên qua năm động tác :

Tôi ghi nhận những sự kiện khách quan ...

Tôi đề xuất giả thuyết...

Tôi kiểm chứng sự kiện và chứng minh giả thuyết, bằng những phương tiện...

Tôi rút ra kết luận cuối cùng...

Tôi dự kiến những hành động...

- Bước thứ ba : Kêu mời, lắng nghe và trân trọng những đóng góp, nhận xét của người đối diện, nhằm sửa sai, bổ túc và kiện toàn thể thức suy luận mà tôi đã trình bày và biện hộ.

Sau khi trình bày và biện hộ lý luận của mình một cách khoa học, tôi cần sự đóng góp và nhận xét của người đối diện, là vì kinh nghiệm và khổ đau trong lòng cuộc đời đã dạy cho tôi những bài học quí hóa như sau :

Thứ nhất : Thực tế và thực tại của môi trường sinh thái có tính bao la và phức tạp. Thực tế ấy không ngừng chuyển biến, tuy dù bộ mặt bên ngoài có những sắc thái bất biến và bất động, trước con mắt của tôi. Những gì tôi ghi nhận chỉ có tính cách phiến diện, phản ảnh một phần, một khía cạnh hạn hẹp của thực tế bao la. Đương khi đó, một người khác, đứng ở vị thế khác, có thể ghi nhận nhiều sự kiện khác, thoát khỏi tầm nhìn và tầm ý thức của tôi.

Thứ hai : Khi nêu lên những giả thuyết, rút ra những kết luận và tiên liệu những hành động, tôi chỉ làm công việc cố gắng XÍCH LẠI GẦN sư thật. Sự thật toàn bích toàn diện, trái lại, thoát khỏi tầm nắm bắt của tôi. Nói khác đi, tôi không bao giờ chiếm hữu toàn quyền về sự thật. Cho nên, thay vì tố cáo, phê phán, kết án người đối diện và gán cho họ những nhãn hiệu sai lầm, gian manh, láo khoét, phản bội... tôi hãy khiêm cung lắng nghe, tìm hiểu, đặt câu hỏi, cẩn trọng ý kiến và lối nhìn của họ.

Như trước đây tôi đã nhấn mạnh, khi thảo luận có tính khoa học, tôi làm công việc « Mặc khải mình », chia sẻ tiếng nói trung thực, đảm nhận tính chủ thể, thay vì áp đặt, nói thay, nói thế, cả vú lấp miệng em.

Giai đoạn năm : Đối Thoại

Khi thảo luận, tôi đặt công việc và thành quả lên hàng ưu tiên số một (Putting first things first), bởi vì tôi có nhu cầu giải quyết một vấn đề, cố gắng đề xuất những quyết định hợp lý và hợp tình, chọn lựa một đường hướng hành động thích ứng với hoàn cảnh hay là thực tế. Tư tưởng đồng qui vừa là dụng cụ, vừa là mục tiêu, trong địa hạt thảo luận có tính khoa học.

Khi đối thoại trái lại, quan hệ trở thành ưu tiên thượng đẳng. Con người ở trước mặt tôi có giá trị hơn tất cả những điều mà người ấy đang bộc lộ ra ngoài, thậm chí khi họ còn bám trụ vào giai đoạn phản ứng bốc đồng và tự động.

Tuy nhiên, trên năm bình diện ? tác phong, thể thức ghi nhận sự kiện, ngôn ngữ, lối nhìn, xúc động  ?  vì tôi đang kết dệt những quan hệ đối thoại, tôi cần đảm nhiệm bốn chiều kích đóng góp cho người đang có quan hệ với tôi : Nhận và Cho, Xin và Từ Chối. Và người ấy cũng đang đóng góp cho tôi, bằng cách nầy hoặc cách khác, trong bốn địa hạt ấy.  Cũng giống như tôi, họ đang Xin và Cho, Nhận và Từ Chối. Nói một cách vắn gọn, người ấy vừa dạy cho tôi, vừa học với tôi. Đồng thời, tôi cũng vừa dạy cho họ, vừa học với họ.

Tôi học CHO, khi tôi ý thức rằng tôi đang làm cha mẹ, đối với nhiều người đang cần tôi. Hiện tại, tôi có rất nhiều điều để cho. Khi cho, tôi có thể chọn lựa, hay là thay thế cái này bằng cái khác

Tôi học NHẬN bằng cách vui mừng đón lấy từ tay một người, một quà tặng. Đón lấy không có nghĩa là cướp giật, tước đoạt.

Khi XIN, tôi ý thức mình là người không có và cần sự giúp đỡ của một người đang có. Khi xin như vậy, tôi ý thức rằng người kia có thể cho và cũng có quyền từ chối. Xin không phải là ép buộc, đòi hỏi. Và Xin cũng không có nghĩa là lệ thuộc, quị lụy, luồn cúi.

TỪ CHỐI một điều là khẳng định rằng điều ấy trong hoàn cảnh hiện tại không thích hợp với nhu cầu và thực tế của tôi. Tôi từ chối một điều, khi tôi không cần.

Tác giả St. COVER sử dụng một lối nói khác, nhưng nội dung vẫn tương tự : Quan hệ hài hòa hay là đối thoại bao gồm ba chiều kích thiết yếu :

- Một là lắng nghe để tìm hiểu, hơn là đòi hỏi người đối diện phải hiểu mình,

- Hai là sáng tạo, tìm mọi cách để người khác có điều kiện làm người có giá trị và nhân phẩm giống như tôi, ngang hàng tôi. Nói khác đi, thái độ và lối nhìn « Người Thắng-Tôi Thắng » là nguyên lý đang soi sáng và điều động  quan hệ của tôi.

- Ba là tương sinh tương thành. Trong tiếng Anh, đó là ý nghĩa sâu xa của lối nói « Synergizing ». Khi mọt công với một, trong quan hệ đối thoại, số thành không phải chỉ là hai, nhưng là « Thiên thủ, Thiên nhãn ».

Những bài học nầy, tôi đã thu hóa suốt thời gian dạy học cho trẻ em khuyết tật, chậm trí, tự bế... trong vòng gần 2O năm. Đành rằng tôi không bao giờ khinh thường những phương thức tư duy có tính khoa học. Tuy nhiên, nếu tôi phải chờ đợi học sinh của tôi hội nhập những bài học về năm nấc thang Suy Diễn, để rồi mới thiết lập với các em ấy những quan hệ tích cực, xây dựng và hài hòa, chắc hẳn tôi đã phải bỏ cuộc vì trầm cảm và thất vọng, trong tuần lễ đầu tiên, khi mới tiếp xúc.

Trong tinh thần và chiều hướng đối thoại với các em ấy, tôi đã ngày ngày áp dụng phương pháp và dụng cụ sư phạm của L. S. VYGOTSKY. Để phục vụ trẻ em, tôi phân chia lãnh vực quan hệ thành ba vùng học tập. Thứ nhất là vùng tự lập. Thứ hai là vùng chuyển tiếp hay là trung gian. Thứ ba la vùng xa lạ.

Trong vùng tự lập, trẻ em đã biết làm và thích làm.

Trong vùng xa lạ, trẻ em không bao giờ dám đi vào. Lo sợ đã khống chế và làm tê liệt mọi ý thích mạo hiểm. Nếu tôi cưỡng ép trẻ em đi vào đó, các em sẽ từ chối. Nếu tôi vẫn khư khư cưỡng ép, trẻ em sẽ thoái hóa. Phản ứng lo sợ ban đầu dần dần biến thành cố định hay là một hội chứng « rối loạn tác phong ».

Nhằm tạo điều kiện cho các em có thể học và thích học, tôi cần sáng tạo một vùng giao tiếp hay là trung gian, bằng cách thêm vào vùng tự lập một yêu cầu nho nhỏ ngang tầm thực hiện của các em. Nhờ có quan hệ yêu thương và kính trọng, đã được xây dựng, vun bón... trong quá trình tiếp xúc và trao đổi, từ trước cho tới nay, trẻ em chấp nhận cùng làm với tôi, một cách dễ dàng. Trẻ em càng làm, càng biết làm và càng thích làm, cho đến khi có thể làm một mình. Vùng tự lập nhờ đó càng ngày càng nới rộng ra. Và vùng xa lạ càng ngày càng lùi dần.

Nhằm minh họa, tôi xin đan cử một vị dụ cụ thể :

Em La chỉ biết xé giấy một cách tài tình. Ngày học đầu tiên, nhân có điện thoại gọi, tôi đi ra trước cửa lớp học để trả lời. Trong vòng chưa đầy hai phút, em La đã xé nát những sách và tài liệu được sắp xếp trên một kệ sách, gần chỗ bàn viết của tôi.

Tôi chớp thời cơ, xem việc xé giấy là một khả năng tự lập và thuần thành của Em La.

Vùng chuyển tiếp do tôi sáng tạo, để giúp em La học tập, bao gồm những yêu cầu từ từ đi lên, theo cấp độ từ dễ đến khó. Nói cách khác, tôi xin em La một vài điều mà em có thể cho, vì yêu thương tôi :

- La ơi, em tới đây xé giấy với Thầy,

- Xé giấy với Thầy, trong chỗ nầy, em không xé ở ngoài,

- Hãy xé với bạn Tú đang ngồi bên cạnh em,

- Xé xong, hãy đặt những mảnh giấy vụn vào trong chiếc giỏ nầy,

- Xé xong rồi, em đem cất giỏ giấy vào góc lớp...

Và cứ như vậy, em La càng tiến bộ, tôi càng nâng cao yêu cầu. Độ khó của bài học càng ngày càng gia tăng.

Trong địa hạt thực tập Đối Thoại, phải chăng đó cũng là cách dạy và cách học, trong những nhóm sinh hoạt khác nhau ? Bài học Đối Thoại phải được « thái nhỏ », lúc bấy giờ học viên bất kể thuộc lứa tuổi nào mới có khả năng « nhai và nuốt » một cách ngon lành và dễ dàng.

Vì thiếu những bài học cụ thể về đối thoại như vậy, chúng ta đang chứng kiến một hiện tượng rất phổ biến. Khắp nơi, trong mọi môi trường chính trị, nghề nghiệp cũng như tôn giáo, ai ai cũng hô hào, đòi hỏi « Phải đối thoại ». Nhưng chính những người hô hào, rao giảng về đối thoại, lai là những người áp đặt mệnh lệnh từ trên, từ ngoài, trong cuộc sống thường ngày.

Sau đây tôi xin đan cử một vài bài học thái mỏng :

- Thực tập sứ điệp ngôi thứ nhất, để nói về mình, thay vì ra lệnh : « Tôi thấy em đang khóc, thay vì : Nín đi, đừng khóc như con nít ».

- Ghi nhận sự kiện, thay vì phê bình : « Sáng nay tôi thấy bạn đến trễ 5 phút », thay vì : « Bạn đến trễ như vậy là một thói quen rất xấu ».

- Tôn trọng ý kiến của người khác : « Về hành vi vắng mặt của em A, chị cho tôi biết tin tức là em A bị bệnh cúm. Bà hiệu trưởng lại nói với tôi cách đây năm phút : Mẹ em A xin phép cho em A nghỉ một tuần ».

Với những cách làm cụ thể nầy, toàn thể các thành viên trong nhóm học tập về đối thoại, sẽ dần dần ý thức một cách sâu sát về vai trò và trách nhiệm của họ :

- Tôi cùng với những nhóm viên khác đang làm nên một tổng thể,

- Trong nhóm, tôi chia sẻ kinh nghiệm độc đáo của tôi. Sau đó, tôi lắng nghe chị A, anh B chia sẻ ý kiến của họ.

-  Cả nhóm không loại trừ một ai xây dựng một tiến trình tư duy : « Trong 15 phút thảo luận vừa qua, Em chưa nghe chị C cho biết ý kiến của chị. Bây giờ, em muốn nghe chị C nói ».

- Phân biệt lối nhìn và xúc động : « Nửa giờ vừa qua, mỗi người đã trình bày quan điểm của mình. Bây giờ tôi muốn lắng nghe xúc động của mỗi người, trước sự việc mà chúng ta đã bàn tới ».

- Ý thức về « CHÚNG TA » : « Tôi đã phát biểu. Mười lăm anh chị khác cũng đã nói lên tiếng nói của mình.  Chúng ta còn 45 phút. Chúng ta có thái độ gì, với tư cách toàn nhóm, về sự việc ấy. Toàn Nhóm đã đề xuất 3 cách làm. Theo ý kiến của nhóm, trong 3 cách làm ấy ưu tiên số 1 là gì ? »

Với ý thức càng ngày càng được vuốt nhọn như vậy, đối thoại không phải là một lý thuyết. Đối thoại cũng không phải là một kỹ thuật cần được áp dụng một cách vô hồn. Đối thoại là sống với nhau, sáng tạo với nhau, làm người với nhau. Khi nầy, chúng ta Cho và Xin nhau. Khi khác, chúng ta Nhận một cách vui tươi, hay là Từ Chối một cách thanh thảnh và bình tĩnh.

7.- Những cạm bẫy cần hóa giải

Mặc dù với bao nhiêu thực tập và thiện chí, cạm bẫy vẫn có thể xuất hiện, trên mỗi bước tiến của chúng ta. Theo tôi, chỗ nào con người chung sống với nhau, chỗ ấy sau vài ba ngày, RÁC hoặc phế liệu thế nào cũng xuất hiện. Trách nhiệm làm người của chúng ta là NHẬN DIỆN và ĐỐI DIỆN sự kiện ấy, để rồi tìm cách chuyển luân Rác, hóa giải cạm bẫy.

Trong khuôn khổ của bài chia sẻ nầy, tôi không thể « tát cạn » vấn đề RÁC, một cách rốt ráo. Tôi chỉ nêu lên một vài nét chấm phá. Hy vọng trong một dịp khác, vấn đề sẽ được đặt lên bàn với nhiều chi tiết hơn.

Ở đây tôi chỉ bàn thoáng qua về ba cạm bẫy chính yếu :

Cạm bẫy thứ nhất : Trong cách sử dụng ngôn ngữ, chúng ta thiếu chính xác. Những từ thông thường như luôn luôn, không bao giờ, người ta, họ... có thể xúc tác những xung đột, khi chúng ta trao đổi, chuyện trò. Những lời tố cáo, kết án thường được len lỏi, nằm vùng ở bên dưới những từ nho nhỏ ấy.

Cạm bẫy thứ hai : Đời sống xúc động rất dễ bị ô nhiễm. Ngôn từ không chính xác dẫn khởi những lối nhìn bóp méo, xuyên tạc. Lối nhìn làm ô nhiễm xúc động. Xúc động bị ô nhiễm trở lại tung hỏa mù trên khả năng ý thức và tư duy. Và khi xúc động bị tổn thương, quan hệ là nạn nhân đầu tiên. Lúc bấy giờ, đối thoại chỉ là ngôn từ trống rỗng.

Cạm bẫy thứ ba : câu hỏi « Tôi là ai ? » nhằm xác định bản sắc của mỗi người, luôn luôn ám ảnh chúng ta, trong mỗi câu chuyện trao đổi. Tôi là ai ? Phải chăng tôi là người có giá trị ? Phải chăng tôi là người có khả năng ? Phải chăng tôi là người được thương ? Những câu hỏi ấy không bao giờ có câu trả lời dứt khoát và cố định. Do đó, chúng ta dễ nghi kỵ, đánh mất lòng tự tin. Và khi không tin mình, chúng ta cũng không tin người khác, cho dù họ là ai. Quan hệ đối thoại dễ tan vỡ trong những tình huống như vậy.

Cách hóa giải là đánh sáng lại mỗi ngày ý thức về bản sắc : BẢN SẮC không bao giờ là câu trả lời « Hoặc có hoặc không ». Nhưng là « Vừa có vừa không ». Nói cách khác, tôi vừa được yêu ở đây, vừa bị ghét ở chỗ khác. Tôi vừa có khả năng ở trong địa hạt nầy, nhưng vụng về trong lãnh vực khác. Tôi đã là người có giá trị. Nhưng những giá trị ấy không bao giờ đạt mức độ tuyệt đối. Bao nhiêu giá trị khác đòi hỏi tôi phải thực tập, tôi luyện, bao lâu tôi còn thở, còn sống.

8.- Cưu mang Trời trong bao lâu ? Chín Tháng mười ngày ?

Chúng ta thực tập « Cưu Mang Trời », bằng cách dấn bước trên con đường đối thoại với Anh Chị Em Đồng Bào trong bao lâu ? Huyền Sử Việt Nam đã trả lời : « Trong mười nghìn năm ».

Nói cách khác, nếu chúng ta cố quyết dấn bước trên con đường đôi thoại, Quê Hương Việt Nam chúng ta sẽ tồn tại, ít nhất trong một thời gian « Mười nghìn năm ». Cho nên Tổ Tiên đã chọn lựa cho Đất Nước một Danh Hiệu rất đẹp : Vạn Xuân.

Ngày nay, khi đối thoại với nhau, chúng ta đang thực hiện kỳ vọng của các vịi5

9.- Một câu chuyện nho nhỏ để kết thúc :

Vào những tháng ngày ấy, loạn lạc nổi lên khắp nơi trên Đất Nước Vạn Xuân. Dân chúng rất khổ sở và lầm than. Nhiều bậc kỳ lão đã chạy về cầu cứu tại một ngôi chùa heo hút gần núi Tản Viên, mang tên là Chùa Âu Cơ. Vị Thiền Sư trụ trì Ngôi Chùa đã già quá 100 tuổi, và đang sống với một đồ đệ duy nhất.

Khi các kỳ lão ra về, vị Thiền Sư gọi người đồ đệ của mình vào và trao một thanh kiếm.

Vị Thiền Sư dạy bảo : « Thầy đã già, không còn làm được chi. Con hãy đi theo các bô lão và giúp họ mang lại thanh bình cho Đất Nước. Thầy chỉ có thanh kiếm nầy, để làm hành trang cho con. Thanh kiếm nầy cũng là một tấm gương. Soi vào đó, con sẽ biết ai ngay, ai gian trên đường con đi. »

Sau mười năm, với thanh kiếm hộ mệnh, người đồ đệ đã giết được một ngàn tên cướp nổi tiếng, và mang lại thanh bình cho quê hương.

Trên đường trở về chùa cũ, người đồ đệ đã dừng lại bên một bờ sông để tắm gội. Không ngờ, khi soi bóng mình vào mặt nước trong xanh, ông đã không thấy mặt mình. Thay vào đó, một mặt cọp hiện hình, với nhiều lông lá ngổn ngang, luộm thuộm.

Khi ông về đến chùa, bà giúp việc đi ra mở cổng, đón mừng. Bà vừa khóc vừa đưa tin: Thầy ơi, Sư Cụ đã ra đi cách đây năm năm rồi. Trước khi nằm xuống vĩnh viễn, Sư Cụ trao cho tôi gói đồ nầy và một bì thư, dặn tôi giữ kỹ càng cho đến khi Thầy trở về.

Trong lá thư, Sư Cụ trụ trì đã viết : Thầy đã ngày ngày theo dõi con, trên mỗi chặng đường con đã đi qua, để bình định Đất Nước. Bây giờ con đã làm xong công việc và trở về. Thầy trao lại cho con tấm gương soi của Thầy. Từ đây, con hãy soi mặt mình vào đó, để đi hết con đường tu thân.

Tôi không biết rõ việc gì đã xảy ra sau đó. Vào một dịp có cơ hội đến thăm Ngôi Chùa Âu Cơ, bà con ở gần đó đã kể cho tôi nghe lời truyền tụng như sau :

Người đồ đệ đã soi mặt vào tấm gương mỗi ngày ba lần. Dần dần, vị tu sĩ thấy lông lá trên mặt cọp của mình rụng xuống... Sau mười năm, mặt cọp đã biến mất. Thay vào đó, không phải là mặt mũi ngày trước của vị tu sĩ hiện ra, nhưng là một Bầu Trời của Bà Âu Cơ trống không, trơ trụi... Không có gì hết.

Gs. Nguyễn Văn Thành

Sách Tham Khảo :

1.-  KANTOR D. &LEHR W.  -  Inside the Family  -  JB, San Francisco 1975.

2.-  ISAACS W.  -  Dialogue  -  Currency Book, N.Y 1999.

3.- NGUYỄN VĂN THÀNH - Huyền Sử Việt Nam : Con đường luyện vàng của Con Rồng Cháu Tiên - TN, Lausanne 2004.

4.- PHAN Bội Châu  -  Khổng Học Đăng  -  Anh Minh, Huế 1957.

5.- SENGE P. M.  -  The Fifth Discipline, Fieldbook  -  Currency Book, USA 1994.

6.- VYGOTSKY L.S.  -  Pensée et Langage   - ESF, Paris 1985.

Tác giả:  Gs. Nguyễn Văn Thành

Nguyện xin THIÊN CHÚA chúc phúc và trả công bội hậu cho hết thảy những ai đang nỗ lực "chắp cánh" cho Quê hương và GHVN bay lên!